Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2016

ĐỨA TRẺ THỨ 44 (Tom Rob Smith) - CHƯƠNG 1


Truyện trinh thám Đứa trẻ thứ 44 lấy bối cảnh nước Nga những năm 1950. Thanh tra Leo Dimidov nhận được thông tin có một vụ án mạng xảy ra trên đường ray, một đứa trẻ hơn bốn tuổi bị lột trần, mổ ruột, miệng nhét đất. Mọi lời khai xác thực đây đơn thuần chỉ là một tai nạn thảm khốc. 

Chương 1              

LIÊN XÔ UKRAINA 

LÀNG CHERVOY 25 THÁNG GIÊNG, 1933

VÌ MARIA ĐÃ QUYẾT ĐỊNH CHẾT nên con mèo của bà sẽ phải tự xoay xở lấy. Bà đã chăm sóc nó đến quá cái nghĩa lý của việc nuôi thú cưng. Đã từ lâu, chuột lớn chuột nhắt đều bị dân làng bẫy ăn thịt. Gia súc biến mất không lâu sau đó. Hết sạch, chỉ trừ một con, con mèo này, con vật bầu bạn mà bà giấu đi. Sao bà lại không thịt nó ư? Bà cần cái gì đó để sống vì nó; cái gì đó để bà che chở và thương yêu - cái gì đó để vì nó mà bà tồn tại. Bà đã thề tiếp tục nuôi nó cho đến ngày bà không còn tự nuôi thân được nữa. Ngày ấy là hôm nay đây. Bà đã xắt đôi ủng da của mình thành sợi mỏng rồi luộc với cây tầm ma và hạt củ cải đường. Bà cũng đã đào tìm giun đất, mút vỏ cây. Sáng nay trong con sốt mê sảng bà đã gặm chân ghế trong bếp, nhai mãi cho đến khi nướu găm đầy vụn gỗ. Thấy bà, con mèo bỏ trốn, nấp dưới gầm giường, không chịu ló mặt ra ngay cả khi bà quỳ xuống, gọi tên nó, cố dỗ nó ra. Đấy là lúc Maria quyết định chết, vì không có gì để ăn và không còn gì để thương yêu nữa.

Maria chờ đến đêm xuống rồi mới mở cửa trước. Bà cho rằng nhờ bóng tối con mèo sẽ có cơ may vào tới rừng mà không bị ai thấy. Có ai trong làng mà trông thấy thì họ sẽ đuổi bắt nó. Ngay cả khi chính bà đã gần kề cái chết thế này, cái ý nghĩ con mèo bị làm thịt vẫn khiến bà khổ sở. Bà tự an ủi với niềm tin rằng bất ngờ sẽ đứng về phía nó. 

Trong một ngôi làng mà người lớn phải nhai đất với hy vọng tìm thấy kiến hoặc trứng côn trùng, nơi trẻ con bới phân ngựa mong tìm được vỏ hạt chưa tiêu còn đàn bà thì đánh nhau giành sở hữu mấy mẩu xương thì Maria tin chắc không ai nghĩ rằng một con mèo lại còn sống.


***

PAVEL KHÔNG TIN NỔI MẮT MÌNH. NÓ xấu xí, gầy còm, mắt xanh và bộ lông đốm đen. Rõ ràng đó là một con mèo. Đang nhặt củi thì nó thấy con mèo từ trong nhà Maria Antonovna phóng ra băng qua con đường tuyết phủ, hướng về phía rừng. Nó nín thở liếc nhìn xung quanh. Không còn ai khác phát hiện ra con mèo cả. Không có ai quanh đây; không có ánh đèn nào nơi những ô cửa sổ. Những làn khói, dấu hiệu duy nhất của sự sống, bốc lên từ chưa được phân nửa số ống khói. Như thể làng nó bị tuyết rơi dày dìm chết; mọi dấu hiệu của sự sống đều bị dập tắt. Phần lớn bề mặt tuyết vẫn còn nguyên: hầu như không có dấu chân và không có lấy một lối đi đào xuống. Ngày vắng vẻ như đêm. Không ai dậy làm lụng. Bạn bè nó không có đứa nào ra chơi, mà ở trong nhà, thu lu trên giường cùng gia đình, hàng mắt trũng sâu nhìn đăm đăm trần nhà. Người lớn bắt đầu trông như trẻ con, trẻ con trông như người lớn. Hầu hết mọi người đã thôi không rúc rỉa tìm cái ăn nữa. Trong tình cảnh này thì sự xuất hiện của một con mèo quả đúng là diệu kỳ - sự tái xuất hiện của một sinh vật từ lâu đã được xem là tuyệt chủng.

Pavel nhắm mắt và cố nhớ lại lần sau cùng nó được ăn thịt. Khi mở mắt ra, nó đang chảy nước dãi. Nước dãi nhểu xuống bên mặt nó thành dòng. Nó đưa mu bàn tay chùi đi. Háo hức, nó thả đống củi đấy chạy về nhà. Nó phải báo cho mẹ Oksana tin quan trọng này.

***

OKSANA NGỒI QUẤN MÌNH trong chăn len nhìn xuống sàn. Chị cứ ngồi im phắc, bảo tồn năng lượng trong khi nghĩ ra các cách cứu sống gia đình mình, những ý nghĩ xâm chiếm chị từng giờ thức và từng giấc mơ chập chờn. Chị là một trong số ít người không chịu đầu hàng. Chị sẽ không bao giờ đầu hàng. Không đầu hàng chừng nào chị vẫn còn mấy thằng con. Nhưng quyết tâm không thôi vẫn chưa đủ, chị phải thận trọng: một cố gắng sai lầm có thể nghĩa là kiệt sức, và kiệt sức luôn có nghĩa là chết.

Vài tháng trước, Nikolai Ivanovich, hàng xóm và là một người bạn, đã tuyệt vọng lao vào cướp kho ngũ cốc của nhà nước. Anh ta đã không trở về. Sáng hôm sau chị vợ Nikolai và Oksana đi tìm. Họ thấy xác anh ta bên đường, nằm ngửa - thân hình da bọc xương với cái bụng căng tròn, bao tử anh ta đầy cứng hạt còn sống mà anh ta đã ních vào những phút sau cùng. Người vợ khóc lóc trong khi Oksana lấy chỗ hạt còn lại trong túi anh ta, chia đôi. Lúc trở về làng, vợ Nikolai báo tin cho dân làng biết. Thay vì được thương xót, chị ta lại bị ghen tị, điều duy nhất mọi người nghĩ đến là mấy vốc hạt chị ta có. Oksana nghĩ chị ta là một kẻ ngốc nghếch thật thà - chị ta đã gây nguy hiểm cho cả hai.

Ý nghĩ của chị bị gián đoạn vì có tiếng ai đó đang chạy. Không ai lại chạy trừ phi có tin quan trọng. Chị đứng lên, sợ hãi. Pavel ào vào phòng và hổn hển thông báo:

- Mẹ, con thấy một con mèo.

Chị bước đến cầm chặt tay con trai. Chị cần kiểm cho chắc là nó không bị ảo giác: cái đói có thể chơi khăm. Nhưng mặt nó không có vẻ gì là mê sảng. Mắt nó sắc sảo, vẻ mặt nghiêm trọng. Nó mới mười tuổi mà đã như một người đàn ông. Hoàn cảnh buộc nó quên đi tuổi thơ. Bố nó gần như đã chết: nếu chưa chết thì đối với họ cũng như chết rồi. Ông bỏ lên thành phố Kiev những mong mang lương thực về. Ông không bao giờ trở lại và Pavel hiểu, không cần ai nói hay an ủi, rằng bố nó sẽ không bao giờ quay về. Giờ Oksana phụ thuộc vào con trai cũng như nó phụ thuộc vào chị. Họ là bầu bạn của nhau và Pavel đã thề thành tiếng là nó sẽ làm được điều mà bố nó đã không làm được: nó sẽ làm sao cho gia đình mình sống.

Oksana đưa tay lên má con trai.

- Con bắt nó được không?

Nó mỉm cười, kiêu hãnh:

- Nếu con có một mẩu xương.

Ao nước đóng băng. Oksana thọc tay sâu qua lớp tuyết tìm một hòn đá. Sợ tiếng ồn thu hút sự chú ý, chị gói hòn đá trong khăn choàng để giảm bớt tiếng động khi chị đục một lỗ nhỏ trên băng. Chị bỏ hòn đá xuống. Lấy tinh thần trước làn nước lạnh cóng, đen ngòm, chị thò tay vào, thở dốc vì lạnh. Chỉ vài giây thôi là cánh tay chị sẽ tê cứng đi, nên chị nhanh tay hơn. Bàn tay chị chạm tới đáy mà không sờ thấy gì ngoài bùn. Nó đâu rồi nhỉ?

Lo lắng, chị cúi xuống, thọc cả cánh tay, mò bên này bên kia, bàn tay mất hết cảm giác. Mấy ngón tay chị quẹt phải thủy tinh. Nhẹ nhõm, chị nắm lấy cái chai lôi lên. Da chị tím tái, như thể bị đấm.  

Điều đó chẳng làm chị bận tâm - chị đã tìm được cái muốn tìm, một cái chai khằn kín hắc ín. Chị lau sạch lớp bùn trên thành chai rồi nhìn vào bên trong. Trong chai là một mớ xương vụn.

Về tới nhà, chị thấy Pavel đã nhóm lửa. Chị hơ nắp chai trên ngọn lửa, nhựa đường nhỏ xuống than hồng thành từng giọt tròn sánh đặc. Trong khi họ chờ, Pavel nhận thấy da chị tím nên xoa xoa cánh tay chị cho máu lưu thông trở lại, nó lúc nào cũng để tâm lo cho chị như thế. Khi nhựa đường chảy hết, chị dốc ngược cái chai mà lắc. Vài mẩu xương thò ra bên miệng chai. Chị rút ra, đưa cho con trai. Pavel xem xét cẩn thận, chà chà lên bề mặt, ngửi từng mẩu một. Khi chọn xong, nó đã sẵn sàng đi. Chị ngăn nó lại.

- Cho em con đi cùng.

Pavel nghĩ đấy là một sai lầm. Em trai nó vụng về và chậm chạp. Và dù sao con mèo cũng thuộc về nó. Nó đã thấy con mèo, và sẽ bắt. Đấy là chiến công của nó. Aksana dúi thêm một mẩu xương vào tay nó:

- Cho Andrei theo.

***

ANDREI SẮP LÊN TÁM và nó yêu quý anh trai mình lắm. Nó hiếm khi ra khỏi nhà, hầu hết thời gian nó ngồi chơi bài trong phòng sau, nơi cả ba mẹ con ngủ. Những quân bài do bố nó làm từ những tờ giấy cắt thành ô vuông rồi dán vào nhau, một món quà chia tay trước khi bố nó lên Kiev. Andrei vẫn còn chờ bố quay về. Không ai bảo cho Andrei biết phải trông chờ khác đi.

Mỗi khi nhớ bố, mà điều này thì thường xuyên, nó chia bài ra giữa sàn và chơi bài một mình. Nó đinh ninh rằng nếu nó chơi được hết ván bài thì bố nó sẽ quay về. Đố chẳng phải là lý do bố cho nó cỗ bài trước khi đi sao? Tất nhiên Andrei thích chai bài với anh trai hơn, nhưng Pavel đã không có thời gian mà chơi nữa rồi. Anh luôn bận giúp mẹ và chỉ chơi vào buổi tối ngay trước khi đi ngủ.

Pavel vào phòng. Andrei mỉm cười, hy vọng anh nó sẵn sàng chơi một ván, nhưng anh nó cúi xuống xếp bài lại:

- Cất bài đi. Mình ra ngoài. Laptys của em đâu?

Hiểu câu hỏi là mệnh lệnh, Andrei bò xuống giường lôi đôi laptys của mình ra, hai mảnh được cắt từ lốp máy kéo và một mớ giẻ rách mà dùng dây buộc lại sẽ thành một đôi ủng tạm bợ. Pavel giúp nó buộc chặt dây giày, giải thích rằng đêm nay chúng sẽ có dịp ăn thịt miễn là Andrei làm y lời.

- Bố sẽ về ư?

- Bố không về đâu.

- Bố mất tích rồi hả anh?

- Ừ, bố mất tích rồi.

- Ai đem thịt cho mình?

- Mình sẽ tự đi bắt lấy.

Andrei biết anh nó là một thợ săn sành sỏi. Anh bẫy được nhiều chuột hơn bất cứ thằng bé nào trong làng. Đây là lần đầu tiên Andrei được anh rủ đi cùng trong một việc quan trọng như vậy.

Ra ngoài tuyết, Andrei hết sức để ý để không ngã. Nó thường vấp và trượt chân, vì nó chỉ thấy được thế giới bên ngoài lờ mờ. Chỉ những thứ nó cầm lên tận mặt thì nó mới thấy rõ. Khi ai đó nhận ra được một người ở đằng xa - trong khi Andrei chỉ thấy mỗi một vệt lờ mờ - nó sẽ cho đó là sự thông minh hoặc kinh nghiệm hoặc một năng lực nào đó mà nó chưa có được. Đêm nay, nó sẽ không ngã và biến mình thành thằng ngốc. Nó sẽ khiến anh trai thấy tự hào. Điều này quan trọng với nó hơn cái hy vọng được ăn thịt.

Pavel dừng lại ở bìa rừng, cúi xuống xem xét dấu vết con mèo trên tuyết. Andrei cho rằng kỹ năng lần theo dấu vết của anh nó thật xuất sắc. Sợ sệt, nó khum xuống, theo dõi anh nó sờ một dấu chân mèo. Andrei chẳng biết gì về tìm vết hay săn bắn:

- Con mèo đi qua đây hả anh?

Pàvel gật và nhìn vào rừng:

- Dấu mờ quá.

Bắt chước anh, Andrei đưa ngón tay sờ quanh dấu chân mèo, hỏi:

- Thế là sao hả anh?

- Con mèo không nặng lắm, nghĩa là sẽ có ít thịt cho ta. Nhưng nếu nó đói thì rất có thể nó sẽ đi tìm mồi.

Andrei cố hiểu thông tin này nhưng đầu óc nó cứ vẩn vơ.

- Anh ơi, nếu anh là quân bài thì anh sẽ là quân nào? Anh là quân át hay quân K, quân pích hay quân cơ?

Pavel thở dài và Andrei, đau nhói vì sự phật ý của anh trai, cảm thấy nước mắt bắt đầu ứa ra:

- Nếu anh trả lời thì em có hứa sẽ thôi không nói nữa không?

- Em hứa.

- Mình sẽ không bắt được con mèo này đâu nếu em cứ nói và làm con mèo sợ chạy mất.

- Em sẽ giữ yên lặng.

- Anh sẽ là quân J, một hiệp sĩ, người mang kiếm. Em đã hứa rồi - không nói gì đâu đấy.

Andrei gật. Pavel đứng lên. Chúng đi vào rừng.

Chúng đi một hồi lâu - tưởng như hàng nhiều giờ đã trôi qua mặc dù cảm nhận của Andrei về thời gian, cũng như thị giác của nó, không sắc bén lắm. Có ánh trăng và lớp tuyết phản chiếu, anh nó dường như dễ dàng lần theo dấu vết. Cả hai tiếp tục tiến sâu vào rừng, xa hơn mọi lần Andrei vẫn đi. Nó thường phải chạy để theo cho kịp. Chân nó nhức nhối, bụng nó đau tức. Nó lạnh và đói, và dù ở nhà không có cái ăn thì ít nhất nó cũng không cảm thấy đau. Sợi dây buộc mớ giẻ với dải lốp xe đã bung ra và nó có thể cảm thấy tuyết len xuống lòng bàn chân. Nó không dám bảo anh dừng để buộc lại. Nó hứa rồi - không nói gì hết. Chút nữa tuyết sẽ tan, mấy miếng giẻ sẽ sũng nước, và thế là hai bàn chân nó sẽ tê cóng. Để không nghĩ đến sự khó chịu nữa, nó bẻ một cành con trên cây nhỏ rồi gặm vỏ, nhai nát thành một thứ bột thô cố cảm giác xạo xạo nơi răng và lưỡi. Người ta bảo nó bột vỏ cây làm thỏa cảm giác đói. Nó tin họ; tin chuyện đó thật hữu ích.

Đột nhiên Pavel ra hiệu cho nó đứng yên. Andrei dừng lại giữa chừng, răng nó nâu sì vỏ cây. Pavel khom người xuống.

Andrei làm theo, nhìn quanh rừng tìm cái anh nó đã thấy, bất cần biết đó là gì. Nó nheo mắt, cố nhìn cho rõ mấy thân cây.

Pavel nhìn chằm chằm con mèo và con mèo dường như cũng nhìn nó chằm chằm bằng cặp mắt nhỏ màu xanh. Nó đang nghĩ gì? Sao nó không bỏ chạy? Được giấu trong nhà bà Maria, có lẽ nó chưa biết sợ người. Pavel rút dao ra, cứa đầu ngón tay rồi bôi máu lên mẩu xương gà mẹ đưa. Nó làm tương tự với khúc mồi của Andrei - một đầu chuột nát - lấy máu mình vì nó không dám tin thằng em sẽ không thét lên làm con mèo hoảng sợ. Không nói một lời, hai anh em tách ra, tiến về hai hướng ngược nhau. Lúc ở nhà Pavel đã chỉ dẫn cặn kẽ cho Andrei nên không cần phải nói nữa. Khi chúng đã cách nhau một đoạn, ở hai phía của con mèo, chúng đặt mẩu xương trên tuyết. Pavel liếc qua thằng em, kiểm cho chắc là Andrei không làm hỏng việc.

Làm y lời dặn, Andrei lôi sợi dây trong túi ra. Pavel đã thắt một đầu dây thành cái thòng lọng. Andrei chỉ phải làm mỗi một việc là quấn thòng lọng quanh cái sọ chuột. Nó làm vậy xong rồi bước lùi lại hết chiều dài sợi dây, nằm úp bụng xuống, làm tuyết bị nén lạo xạo. Nó nằm đợi. Chỉ giờ đây, nằm trên đất, nó mới nhận ra nó hầu như không thấy mồi của mình. Nó là một vệt mờ. Bỗng nhiên nó sợ, hy vọng con mèo sẽ đi về phía anh trai. Pavel sẽ không mắc sai lầm, anh nó sẽ bắt con mèo, rồi chúng sẽ về nhà ăn. Lo sợ và lạnh, tay nó bắt đầu run. Nó cố giữ cho hai bàn tay yên lại. Nó nhìn ra cái gì đó: một hình thù đen đen di chuyển về phía nó.

Hơi thở của Andrei bắt đầu làm tan tuyết trước mặt; những giọt nước lạnh lăn tới rồi thấm vào quần áo nó. Nó muốn con mèo đi về phía đằng kia, về chỗ cái bẫy của anh nó, nhưng khi cái hình dáng lờ mờ tiến gần hơn thì không thể phủ nhận rằng con mèo đã chọn nó. Tất nhiên, nếu nó bắt được con mèo này thì Pavel sẽ yêu quý nó, sẽ chơi bài với nó, và không bao giờ nổi cáu nữa. Vìễn cảnh ấy làm nó sung sướng, tâm trạng nó biến từ sợ hãi sang chờ đợi. Đúng, nó sẽ là người bắt được con mèo này. Nó sẽ thịt con mèo. Nỏ sẽ tự chứng tỏ mình. Anh nó đã dặn gì nhỉ? Anh đã dặn không được giật dây quá sớm. Nếu con mèo giật mình, tất cả sẽ đi tong. Vì lý do này, và vì nó không thể biết chắc con mèo đang đứng đâu, Andrei quyết định là sẽ chờ, cho chắc ăn. Nó đã gần nhìn rõ được bộ lông đen với bốn chân. Nó sẽ đợi thêm chút nữa, một lúc nữa... Nó nghe tiếng anh nó rít lên:

- Làm đi!

Andrei hoảng hốt. Nó đã nghe cái giọng điệu ấy nhiều lần rồi. Thế nghĩa là nó vừa làm gì sai. Nó cố hết sức nheo mắt thì thấy con mèo đang đứng giữa cái bẫy của nó. Nó giật sợi dây. Nhưng quá muộn, con mèo đã vọt đi. Thòng lọng đã trượt. Dù vậy, Andrei vẫn kéo sợi dây mảnh về phía mình, hy vọng tha thiết rằng làm sao đó ở phía đầu kia sẽ có một con mèo. Thòng lọng trống không đến tay và nó cảm thấy mặt mình đỏ lên vì xấu hổ. Quá tức giận, nó sẵn sàng đứng lên đuổi theo con mèo, tóm lấy nó mà siết cổ và đập nát sọ nó. Nhưng nó không nhúc nhích: nó thấy anh trai còn nằm bẹp trên mặt đất. Và Andrei, biết là luôn phải làm theo sự dẫn dắt của ông anh, cũng làm theo. Nó nheo mắt, căng mắt thì nhận ra là cái hình thù đen mờ mờ ấy giờ đang tiến về phía bẫy của anh nó.

Nỗi tức giận vì cái vô tích sự của thằng em đã nhường chỗ cho sự phấn chấn vì sự khinh suất của con mèo. Các cơ trên lưng Pavel gồng lên. Chắc chắn con mèo đã ngửi thấy máu, và con đói mạnh hơn sự thận trọng. Nó nhìn con mèo dừng lại giữa chừng, một chân giơ lên, nhìn nó chằm chằm. Nó nín thở: mấy ngón tay nắm chặt sợi dây và chờ đợi, thầm giục con mèo đi tiếp.

Nào. Nào. Nào.

Con mèo chồm tới trước, há miệng ngoặm lấy mẩu xương. Canh thật đúng lúc, nó giật sợi dây. Cái thòng lọng quấn quanh bàn chân mèo, chân trước sập bẫy. Pavel bật dậy, kéo mạnh sợi dây, siết chặt cái thòng lọng. Con mèo cố chạy nhưng sợi dây giữ chặt. Nó vật con mèo xuống đất. Tiếng gào ré vọng khắp rừng, như thể một sinh vật lớn hơn rất nhiều đang cố thoát thân, giãy giụa trong tuyết, vồng mình lên, cắn sợi dây. Pavel sợ là nút thắt sẽ đứt. Sợi dậy quá mảnh và xơ rồi. Khi nó thử tiến gần hơn, con mèo giật ra, xa khỏi tầm với. Nó hét về phía em trai:

- Giết đi!

Andrei vẫn còn nằm yên không nhúc nhích, không muốn mắc thêm sai lầm nữa. Nhưng giờ nó đã được chỉ thị. Nó bật dậy, chạy lên, liền trượt và ngã sấp. Ngóc mũi ra khỏi tuyết, nó thấy con mèo đằng trước đang rít, sùi bọt mép, và giãy giụa. Nếu sợi dây đứt, con mèo sẽ sổng mất và anh nó sẽ ghét nó suốt đời. Pavel hét lên, giọng khản đi, điên cuồng:

- Giết đi! Giết nó! Giết nó đi!

Andrei loạng choạng đứng lên, không hề biết rõ mình đang làm gì, nó nhảy tới chồm lên mình con mèo đang giãy giụa. Có lẽ nó hy vọng cú va chạm sẽ làm con mèo chết. Nhưng giờ, nằm trên con vật, nó cảm thấy được là con mèo còn sống và cựa quậy dưới bụng nó, cào cấu cái áo khoác bao bố khâu lại của nó. Cứ nằm bẹp trên con mèo để nó không chạy thoát, Andrei nhìn ra sau, mắt cầu xin Pavel tới lo liệu:

- Nó còn sống!

Pavel chạy đến và quỳ xuống, chuồi tay xuống dưới mình thằng em thì trúng ngay cái táp của con mèo. Nó bị cắn. Nó giật tay ra. Mặc kệ ngón tay chảy máu, nó trèo qua phía bên kia và lại đút hai tay xuống, lần này chạm trúng đuôi mèo. Mấy ngón tay nó bắt đầu lần mò lên phía lưng mèo. Từ hướng tấn công này, con vật không còn đường chống cự.

Andrei vẫn nằm yên không nhúc nhích, cảm thấy cuộc vật lộn diễn ra dưới bụng mình, cảm thấy tay anh trai gần đến đầu con mèo, gần hơn, gần hơn nữa. Con mèo biết thế nghĩa là chết và bắt đầu cắn loạn - áo khoác của Andrei, tuyết - điên lên vì sợ, nỗi sợ mà Andrei có thể cảm thấy như những rung động trong bụng mình. Bắt chước anh nó hét lên:

- Giết nó đi! Giết đi! Giết nó đi!

Pavel thộp cổ con vật. Trong một lúc không ai động đậy, chỉ nằm yên, thở sâu. Pavel tựa đầu trên lưng Andrei, hai tay vẫn nắm chặt cổ mèo. Cuối cùng nó rút tay dưới bụng thằng em ra rồi đứng lên. Andrei vẫn nằm trên tuyết, không dám động đậy.

- Giờ em đứng lên được rồi.

Nó có thể đứng cạnh anh trai. Nó có thể đứng tự hào. Andrei đã không thất vọng. Nó đã không thất bại. Nó đưa tay ra, nắm lấy tay anh trai, đứng lên. Pavel chẳng thể bắt được con mèo nếu không có nó. Sợi dây có thể đã đứt. Con mèo có thể đã thoát được. Andrei mỉm cười, rồi cười lớn, vỗ tay và nhảy nhót ngay đó. Trong đời mình, chưa bao giờ nó thấy hạnh phúc như vậy. Chúng là một đội. Anh trai ôm chặt nó và cả hai nhìn xuống chiến lợi phẩm của mình: một con mèo gầy gò đã chết lún trong tuyết.

Mang chiến lợi phẩm của mình về làng để không ai thấy là sự cẩn thận cần thiết. Mọi người sẽ đánh nhau, giết nhau vì một món bở như vậy, và tiếng gào ré của con mèo có thể đã báo động cho ai đó rồi. Pavel không chịu để mặc cho sự may rủi. Chúng đã không mang theo túi để giấu con mèo. Nó ứng biến và quyết định sẽ giấu con mèo dưới một bó củi. Nếu chúng gặp ai trên đường về, người ta sẽ tưởng chúng đang đi nhặt củi và sẽ không hỏi gì. Nó xách con mèo dưới tuyết lên:

- Anh sẽ để mèo dưới bó củi để không ai nhìn thấy. Nhưng nếu mình đi nhặt củi thật thì em cũng phải ôm củi.

Andrei thấy rất ấn tượng vì logic của anh trai - nó thì sẽ không bao giờ nghĩ được như vậy. Nó bắt đầu đi nhặt củi. Vì mặt đất bị tuyết phủ nên khó mà tìm được thứ củi lộ ra, và nó buộc phải để tay trần mà bới. Sau mỗi lần bới nó lại chà mấy ngón tay vào nhau mà thổi. Nó bắt đầu chảy mũi, nước mũi đọng lại nơi môi trên. Dù vậy, nó không nề hà, đêm nay thì không đâu, sau thành công của chúng, và nó cất tiếng ngâm nga một bài bố nó thường hát, lại chọc ngón tay vào tuyết. Pavel cũng thấy khan hiếm củi, nó đi xa chỗ thằng em. Chúng phải tách ra. Xa xa nó thấy một cây đổ, nhánh tỏa ra mọi hướng. Nó vội tiến đến, bỏ con mèo dưới tuyết để rảnh tay bẻ cành khô nơi thân cây. Ở đây có rất nhiều, dư sức cho cả hai anh em, vậy nên nó nhìn quanh tìm Andrei. Nó định gọi thì nghẹn lại. Có tiếng động. Nó quay ngoắt lại, nhìn quanh. Rừng rậm và tối. Nó nhắm mắt, tập trung vào cái âm thanh đó - một nhịp điệu: tiếng lạo xạo của tuyết, lạo xạo, lạo xạo. Tiếng ấy trở nên nhanh hơn, to hơn. Adrenaline chạy khắp người Pavel. Nó mở mắt ra. Trong bóng đen có một cái gì động đậy: một người đàn ông đang chạy. Hắn cầm một cành cây lớn và nặng. Những bước chân sải dài. Hắn đang phóng thẳng về phía Pavel. Hắn ta đã nghe thấy anh em nó giết con mèo và giờ hắn sắp cướp chiến lợi phẩm của chúng. Nhưng Pavel sẽ không để hắn làm vậy: nó sẽ không để cho mẹ chết đói. Nó sẽ không thất bại như bố nó. Nó bèn đưa chân hất tuyết lấp con mèo, cố giấu nó đi.

- Chúng cháu đang nhặt...

Giọng Pavel lạc đi khi người đàn ông lao qua những rặng cây, giơ cành cây lên. Chỉ giờ đây, khi thấy bộ mặt hốc hác và ánh mắt hoang dại của gã này, Pavel mới nhận ra người đàn ông này không muốn con mèo. Hắn muốn nó.

Miệng Pavel há hốc đâu chừng cùng lúc cành cây bổ xuống, đầu cành cây nện vào đỉnh đầu nó. Nó không cảm thấy gì hết, nhưng nó biết mình không còn đứng nữa. Nó đang quỳ. Ngước nhìn lên, đầu ngoẹo một bên, máu trào xuống một bên mắt, nó nhìn người đàn ông giơ cành cây lên định giáng một đòn thứ hai.

***

ANDREI NGỪNG NGÂM NGA. Có phải anh trai vừa gọi nó không? Nó không kiếm được nhiều củi lắm, chắc chắn là không đủ cho kế hoạch của chúng, nó không muốn bị mắng, nhất là sau khi nó đã làm được cừ như thế. Nó rút tay dưới tuyết lên và đứng dậy. Nó nhìn vào rừng, nheo mắt, dù cái cây gần nhất thì cũng chỉ thấy lòa lòa:

- Pavel?

Không có tiếng đáp. Nó lại gọi. Đây có phải trò chơi không? Không, Pavel không giỡn chơi, không vậy nữa. Andrei đi về hướng nó đã thấy anh lần cuối, nhưng nó không thấy gì hết. Thật ngớ ngẩn. Có gì đó không ổn. Nó lại gọi, lần này to hơn. Sao anh nó không trả lời? Andrei quẹt mũi vào ống tay áo và tự hỏi đây có phải là một thử thách không. Anh nó sẽ làm gì trong tình huống này? Anh nó sẽ lần theo dấu vết trên tuyết. Andrei thả mớ củi và quỳ xuống, mò mẫm bò tìm trên đất. Nó tìm thấy dấu chân của nó và lần trở lại chỗ nó bỏ anh trai. Tự hào, nó chuyển sang dấu chân của anh. Nếu đứng lên, nó không thể thấy dấu chân, nên nó khom xuống, mũi chỉ cách mặt tuyết một cánh tay, nó cứ tiếp tục, như con chó đang đánh hơi.

Nó tới được chỗ một cây đổ, những que củi rơi vãi xung quanh dấu chân khắp nơi - một số dấu rất sâu và lớn. Tuyết có màu đỏ. Andrei vốc một nắm, măn măn trong tay, bóp chặt và thấy tuyết hóa thành máu.

- Pavel!

Nó cứ gọi mãi cho đến khi cổ họng rát và giọng lạc đi. Thút thít, nó muốn nói với anh trai rằng anh ăn phần thịt mèo của nó cũng được. Nó chỉ muốn anh quay về. Nhưng chẳng ích gì. Anh nó đã bỏ nó mà đi rồi. Và nó chỉ còn một mình.

***

OKSANA ĐÃ GIẤU một túi nhỏ bột cây ngô, cây rau muối, và vỏ khoai tây nghiền đằng sau mấy viên gạch lò sưởi. Trong các cuộc kiểm tra chị luôn để lửa cháy riu riu trong lò. Những người đi tịch thu được cử đến kiểm cho chắc là chị không tích trữ lúa mì không bao giờ nhìn qua bên kia ngọn lửa.

Đêm nay, gia đình chị sẽ có một bữa tiệc. Chị làm tan vài nắm tuyết, đem đun sôi rồi đổ bột cây ngô vào cho đặc. Chị thêm vào phần xương còn lại trong chai. Khi đã chín, chị nghiền chỗ ấy thành bột. Tất nhiên chị chỉ đang làm trước. Phần việc của Pavel vẫn chưa xong. Nhưng chị cảm thấy chắc chắn là nó sẽ làm được. Nếu Chúa bắt chị chịu gian truân thì Người cũng đã cho chị một đứa con trai để đỡ đần. Ngay cả nếu nó không bắt được con mèo, chị tự hứa cũng sẽ không nổi giận. Khu rừng quá lớn, mà con mèo quá nhỏ, và dù gì tức giận chỉ làm hao sức thôi. Thậm chí, khi chị cố chuẩn bị trước tâm lý đón nỗi thất vọng thì chị cũng không cưỡng được cảm giác chếnh choáng trước viễn cảnh bữa thịt và xúp khoai tây.

Andrei đứng nơi ngưỡng cửa, mặt mày trầy trụa, tuyết dính trên áo, mũi chảy nước mũi và máu. Đôi laptys của nó rách bươm và ngón chân lòi ra. Oksana chạy đến:

- Anh con đâu?

- Anh bỏ con rồi.

Andrei òa ra khóc. Nó không biết anh trai ở đâu. Nó không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nó không giải thích đưọc. Nó biết mẹ sẽ ghét nó. Nó biết sẽ là lỗi của nó, cho dù nó đã làm đúng mọi chuyện, cho dù chính anh trai mới là người bỏ nó.

Oksana nghẹt thở. Chị xô Andrei sang một bên và hấp tấp ra khỏi nhà, nhìn về phía rừng. Không thấy Pavel đâu. Có lẽ nó ngã và bị thương. Có lẽ nó cần được giúp. Chị chạy trở vào nhà, thiết tha tìm câu trả lời, chỉ thấy Andrei đứng bên nồi xúp và chiếc thìa trong miệng. Bị bắt quả tang, nó rụt rè nhìn mẹ, một dòng xúp khoai tây nơi miệng nó chảy giọt xuống. Quá tức giận - vì người chồng đã chết, đứa con trai mất tích - chị chạy lại, đánh nó ngã lăn ra đất, tọng chiếc thìa gỗ vào họng nó:

- Khi tao rút chiếc thìa ra, mày phải kể cho tao nghe xem đã xảy ra chuyện gì.

Nhưng khi chị rút chiếc thìa ra thì nó chỉ biết ho sặc sụa. Điên tiết, chị lại tọng chiếc thìa vào họng nó:

- Cái thằng vô tích sự, vụng về, đần độn này. Con trai tao đâu? Nó đâu rồi?

Chị lại rút chiếc thìa ra, nhưng nó vẫn khóc và nghẹn. Nó không nói được. Nó cứ khóc và sặc và thế là chị đánh nó, thụi vào lồng ngực nhỏ bé của nó. Chỉ khi nồi xúp sắp trào thì chị mới dừng lại. Chị đứng lên, bắc nồi xúp trên bếp xuống.

Andrei thút thít giữa sàn nhà. Oksana nhìn nó, cơn giận nguôi dần. Nó còn bé quá. Nó rất yêu anh trai. Chị quỳ xuống, bế nó lên, rồi đặt nó trên ghế. Chị lấy chăn quấn quanh người nó và múc xúp vào bát cho nó, một suất thịnh soạn hơn mọi khi nó được ăn. Chị cố bón cho nó, nhưng nó không há miệng. Nó không tin chị. Chị đưa thìa cho nó. Nó nín khóc và bắt đầu ăn. Nó ăn xong bát xúp. Chị lại múc đầy. Chị bảo nó ăn chậm thôi. Nó không nghe, chén hết bát thứ hai. Rất khẽ chị hỏi đã có chuyện gì và lắng nghe nó giải thích vệt máu trên tuyết, những cành củi bỏ lại, không thấy anh đâu, và dấu chân in sâu. Chị nhắm mắt.

- Anh con chết rồi. Anh con bị bắt ăn thịt rồi. Con hiểu không? Khi các con đang săn con mèo đó thì có người đang săn các con. Con hiểu không?

Andrei vẫn im lặng, nhìn chằm chằm những giọt nước mắt của mẹ. Thực ra, nó không hiểu. Nó nhìn chị đứng lên ra khỏi nhà. Nghe thấy tiếng mẹ, nó chạy ra cửa.

Oksana đang quỳ trên tuyết, ngước nhìn vầng trăng tròn.

- Con cầu xin Chúa trả lại con trai cho con.

Giờ thì chỉ có Chúa mới có thể mang nó về.

Vài người hàng xóm xuất hiện trước cửa nhà họ. Họ nhìn Oksana. Họ nghe chị khóc. Nhưng nỗi đau kiểu này không có gì là lạ, nên nguời ta cũng chẳng đứng nhìn lâu.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét