Thứ Ba, 17 tháng 11, 2015

CHỨNG HÔI MIỆNG


Hôi miệng là một triệu chứng thường gặp, được định nghĩa như là sự hiện diện dai dẳng hay thường gặp của một mùi trong hơi thở làm khó chịu.

1. Nguyên nhân:

Trái với thành kiến phổ thông, hơi thở không phản ảnh tình trạng tiêu hoá, nghĩa là việc thức ăn được tiêu hoá tốt hay không trong bao tử, trong ruột, hay một bệnh gì đó trong ống tiêu hoá.

Thực quản nối liền miệng với dạ dày được xẹp lép xuống trong tình trạng bình thường. Chỉ lúc ợ hơi thì khí trong dạ dày mới thoát ra ngoài và ảnh hưởng đến hơi thở.

85% nguyên nhân ở miệng: đa số các trường hợp hôi miệng do những thức ăn còn dính trong miệng bị các khuẩn gram âm yếm khí (hay kỵ khí), làm cho lên men, tạo nên những hợp chất bay hơi như hydrogen sulfide và methyl mercaptan.

Nướu răng bị bệnh, như trong trường hợp bệnh nha chu, nướu bị loét hay các mô bị chết (hoại tử). Bệnh nha chu là bệnh nhiễm khuẩn mãn tính của nướu răng và xương bao bọc quanh chân răng; nếu không chữa, bệnh nặng có thể đi đến rụng răng.

Viêm nướu răng do nướu răng phản ứng với plaque, là những chất dẻo và dính (“cao” răng) do vi khuẩn đọng lại, để lại trên mặt ngoài của răng. Dần dần, chất vôi calcium đọng thêm vào, biến thành đá răng, cần được nha sĩ dùng dụng cụ lấy ra. Viêm nướu là bước đầu, sẽ tiến triển thành viêm nha chu.


Bệnh nha chu là một yếu tố cơ nguy làm tăng tỷ lệ bệnh tim mạch, bệnh sưng phổi, tình trạng có bầu sinh non sinh con nhẹ cân.

Nếu nướu răng lành mạnh, các vi khuẩn này có thể tồn tại trên mặt trên của đoạn lưỡi phía sau, về phía họng. Những yếu tố sau đây làm vi khuẩn nảy nở nhiều hơn: các tuyến nước bọt giảm sản xuẩt nước bọt, nước bọt không lưu thông tốt, ứ đọng, và nước bọt quá kiềm. Bình thường pH nước bọt từ 6.3 - 7.5; thường hơi acid, nhưng lúc các tuyến nước bọt được kích thích lúc cần tiêu hoá nhiều thì đổi qua kiềm (pH8).

2. Nguyên nhân hiếm gặp:

•    Ung thư mũi và họng,

•    Nhiễm trùng xoang, mũi;

•    Vật lạ trong mũi gây nhiễm trùng làm một mùi rất thối toát ra từ mũi em bé, có thể cộng thêm chảy máu và mủ từ mũi;

•    Một số người bị áp xe trong phổi do một vật lạ do bất cẩn họ hút vào cuống phổi, làm tắc nghẽn cuống phổi, vùng phổi bị cô lập, hay cuống;

•    Phổi dãn nở một cách bất bình thường tạo nên một túi chứa nhớt, sẽ bị các vi khuẩn yếm khí chiếm đóng và gây ra áp xe phổi.

3. Một số chất trong thức ăn uống (tỏi, hành, rượu) có thể đi vào hơi thở để tạo nên một mùi thoang thoảng, có thể làm khó chịu nhưng thường không thối rõ rệt.

4. Một số bệnh làm cho hơi thở có mùi: người tiểu đường nặng hơi thở như mùi trái cây, người suy gan có thể có mùi "chuột", mùi mốc, hay mùi sulfur; người suy thận có thể có hơi thở mùi ammoniac.

Định bệnh:

Bác sĩ thử ngửi mùi hơi thở bệnh nhân (sniff test). 48 giờ trước khi khám, bệnh nhân tránh ăn tỏi và hành, và 2 giờ trước khi khám, bệnh nhân không ăn, nhai, uống nước, súc miệng hay hút thuốc lá. Bệnh nhân thở ra bằng miệng về phía mũi bác sĩ ở khoảng cách 10cm, lần thứ nhì thở qua mũi, miệng ngậm lại. Nếu hơi thở qua miệng là hôi thối nhất, nguyên nhân có lẽ nằm ở miệng. Nếu hơi phà qua mũi là hôi nhất, nguyên nhân nghi ở mũi. Nếu thở bằng miệng và thở bằng mũi hôi giống nhau, nguyên nhân nằm trong phổi, hoặc nguyên nhân là một bệnh ảnh hưởng toàn thân (theo Merck Manual).

Nếu không tìm ra nguyên nhân, bác sĩ có thể dùng muỗng plastic cạo phía sau lưỡi bệnh nhân, đợi 5 giây đồng hồ, rồi ngửi cách 5cm.

Ngoài ra bác sĩ cần xem kỹ vùng răng miệng, nướu răng, mũi và xoang.

Có khi bệnh nhân bị ám ảnh là hơi thở mình bị hôi, mặc dù người chung quanh không nhận thấy gì cả, và bác sĩ làm test như trên cũng không ngửi thấy (psychogenic halitosis = bệnh hôi miệng do nguồn gốc tâm lý).

Trị liệu:

1. Đối với chứng khô miệng vì ít nước miếng, nhất là người già:

• Bảo vệ sức khoẻ răng miệng: đánh răng mỗi lần 3 phút, ít nhất 2 lần mỗi ngày, có thể dùng máy đánh răng, dùng bàn chải tốt, đánh đúng hướng dọc theo kẽ răng. Dùng chỉ răng để thanh toán thức ăn giữa các kẽ răng, nhất là những răng cấm phía sau;

• Có thể dùng máy bơm và xịt nước mỗi lần sau khi ăn xong để rửa sạch các kẽ răng. Coi chừng tăm xỉa răng không đúng cách, quá nhiều, có thể làm hư nướu răng mà không lấy được các mảnh vụn thức ăn;

•    Khám nha sĩ để cạo cao răng định kỳ, trám các lỗ sâu răng và chữa bệnh chu nha nếu có;

•    Thuốc súc miệng để giảm plaque và giảm khuẩn, vd chlorhexidine (prescription in U.S.);

•    Giữ gìn răng giả đúng vệ sinh;

•    Nếu nghẹt mũi vì dị ứng, hay nếu thở bằng miệng ban đêm (vd. vì mập) cần để ý vì thở miệng làm miệng khô;

•    Sáng nên chải răng và ăn sáng nhẹ.

2. Chúng ta có thể thử những biện pháp sau cho chứng khô miệng:

•    Nhờ bác sĩ gia đình xét lại toàn bộ tình hình, bác sĩ nha khoa xem lại sức khoẻ răng miệng;

•    Nhờ bác sĩ giúp tính lượng nước uống đầy đủ, bảo đảm dinh dưỡng tốt;

•    Xem trong các thuốc đang uống có những thuốc ảnh hưởng đến lượng nước miếng (thuốc trị dị ứng như Benadryl [diphenhydramine], thuốc ho);

•    Bỏ hoặc cai thuốc lá, rượu;

•    Dùng "nước miếng nhân tạo" xịt vào miệng; giúp miệng đỡ khô, như Biotène Moisturizing Mouth Spray; kẹo ngậm (lozenges) chống khô miệng, kích thích tiết nước miếng, kẹo có chứa chất xylitol là một loại đường lấy từ thực vật, không làm hư răng (vd XyliMelts for Dry Mouth).

Tóm lại nên chú trọng về vệ sinh và sức khoẻ răng và miệng nhiều hơn là dùng những thuốc tác dụng trên bộ phận tiêu hoá như dạ dày (những thuốc “thuốc trị đau bao tử” như ranitidine, omeprazole làm giảm bớt acid trong dạ dày), ruột và gan.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét