Bạn tin ở linh hồn? Bạn không tin ở linh hồn? Thật khó trả lời, vì đó là một khái niệm mà chưa bao giờ con người thực sự làm chủ. Nhưng giải thích sự tồn tại và vận động của thế giới xung quanh và thậm chí là của chính bản thân mình là nhu cầu không bao giờ vơi cạn của con người. Vì thế, các nhà khoa học vẫn luôn nỗ lực tìm kiếm câu trả lời về linh hồn.
Từ một câu chuyện kỳ lạ tại Tây Tạng
Tại vùng đất huyền bí nhất trên thế giới, Tây Tạng cho đến ngày nay vẫn còn lưu truyền một sự kiện hết sức kỳ lạ về “Người cầu vồng“.
Sự kiện xảy ra năm 1998 tại Kham, khu vực hẻo lánh phía đông Tây Tạng,
sự biến mất kỳ lạ của vị Lạt ma Khenpo A-chos. Ông là một trong các vị
Lạt ma có uy tín nhất trong vùng, thường xuyên thuyết giảng về đạo Phật
dù Chính phủ Trung Quốc có những quy định rất khắt khe về việc này.
Vào tuổi 80, vị Lạt ma
vẫn hoàn toàn khoẻ mạnh. Một hôm, Lạt ma Khenpo A-chos lên nằm trên
giường của mình, miệng lẩm bẩm câu thần chú Tây Tạng “Om mani padme hum” và qua đời. Ngay sau đó, cầu vồng xuất hiện trên căn phòng nhỏ của ông suốt cả ngày.
Những
người học trò của Khenpo A-chos tổ chức lễ cầu kinh để linh hồn người
thầy siêu thoát. Nhưng hiện tượng lạ thường xảy ra: da thịt của vị Lạt
ma bắt đầu hồng hào trở lại. Dường như Khenpo A-chos đang từ từ tái
sinh.
Học
trò của ông đi hỏi ý kiến một vị Lạt ma và được lời khuyên hãy bọc thi
thể của thầy lại và tiếp tục cầu kinh. Họ làm đúng như lời chỉ dẫn. Một
tuần sau, khi mở tấm áo bọc thi thể vị Lạt ma, người ta chỉ thấy vài sợi
tóc còn sót lại trên gối, thi thể của Khenpo A-chos đã hoàn toàn biến
mất. Từ đó người Tây Tạng gọi ông là “Người cầu vồng“.
Bức tranh Ascend in the Empyrean của hoạ sĩ Hieronymus Bosch miêu tả linh hồn về trời (Ảnh: apocalyptic-theories)
Câu
chuyện thần bí lan ra khắp nơi. Cha Francis Tiso – một cha đạo dòng
thánh Benedict tại Mỹ cũng nghe được câu chuyện kỳ bí này. Ông là một
trong những chuyên gia nghiên cứu về đạo Phật và đã có học vị tiến sĩ
trong lĩnh vực này. Cha Francis Tiso tổ chức một chuyến đi đến Kham để
ghi lại lời kể của những người đã chứng kiến sự kiện. Người mà cha Tiso
muốn gặp nhất là vị Lạt ma đã được các học trò của Lạt ma A-chos hỏi ý
kiến.
Vị
Lạt ma nói với cha Tiso rằng sự biến mất của Lạt ma A-chos là do một lực
vật chất xuất phát từ trong linh hồn của ông ấy. Đây không phải là một
câu nói mang hàm ý triết học hoặc ẩn dụ, điều ông muốn nói ở đây là một
sự thực đã xảy ra. Vị Lạt ma đưa cho cha Tiso xem một bức ảnh của Lạt ma
A-chos khi ông đã qua đời.
Bằng mắt thường có thể nhìn thấy rất rõ một luồng ánh sáng phát ra từ
thân thể của Lạt ma A-chos. Xem bức ảnh, cha Tiso thốt lên: “Đây là
sự giao hoà giữa cái có thể và không thể, giữa một con người hiện hữu và
con người siêu phàm. Một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm được cơ sở để
chứng minh rằng nó có thật“.
Điều
mà cha Tiso muốn tìm trong sự kiện xảy ra tại Kham cũng nằm trong vấn
đề lớn mà ông đang nghiên cứu, đó là có hay không sự tồn tại của linh
hồn con người. Hiện nay, những cuộc tranh cãi xung quanh vấn đề này vẫn
diễn ra quyết liệt.
Mấu chốt của vấn đề nằm ở chỗ, nếu có sự tồn tại của linh hồn thì làm
sao để xác định được. Những người cho rằng linh hồn là có thật dựa vào
các tài liệu tôn giáo để chứng minh cho sự tồn tại của nó, còn người
phản đối thì cho rằng các lập luận đó quá mơ hồ và không thể đủ độ tin
cậy khi được kiểm chứng bằng các nghiên cứu khoa học.
Những kiểm chứng khoa học
Nhiều người đã cố gắng
chứng minh sự tồn tại của linh hồn bằng các thí nghiệm khoa học. Một
trong số đó là bác sĩ Duncan MacDougall. Sau khi tiến hành thí nghiệm
trên 7 người chết, ông phát hiện rằng ngay sau khi qua đời, cân nặng của
người chết giảm đi từ 11 đến 43g.
Ông cho rằng đó là phần vật chất mà người ta thường gọi là linh hồn
thoát ra khỏi thi thể. Sau này, nhiều người khác cũng thử lặp lại thí
nghiệm của Duncan, nhưng câu trả lời cho sự tồn tại của linh hồn vẫn
chưa được làm sáng tỏ. Phần trọng lượng bị mất đi đó của con người sau
khi chết được giải thích chỉ đơn giản là sự bốc hơi của lượng nước có
sẵn bên trong cơ thể.
Một
bác sĩ khác cũng cố gắng chứng minh sự tồn tại của linh hồn bằng những
thí nghiệm khoa học, đó là Gerard Nahum, giám đốc bộ phận nghiên cứu của
công ty dược phẩm Berlex. Ông đã bỏ ra 20 năm chỉ để nghiên cứu lĩnh
vực này. Theo Nahum, vấn đề khó nhất để xác định sự tồn tại của linh hồn
là phải tìm được những chuỗi điện từ phát ra từ thi thể người chết.
Ông đặt hàng loạt những máy dò hiện đại xung quanh thi thể (máy viba, máy dò tia hồng ngoại, tia gama, điện từ,…) để tìm ra “linh hồn“.
Nahum chắc chắn rằng sau khi chết, tất cả những gì thuộc về người đó
khi họ còn sống không thể ngay lập tức mất đi hoàn toàn được. Nó sẽ phải
qua một quá trình chuyển biến đến một nơi nào đó trong không gian. Tại
những nơi đó, chúng sẽ được giữ gìn và tồn tại vĩnh cửu.
Nhưng khi ông thử trình bày ý tưởng của mình với các trường đại học tại
Mỹ thì tất cả đều từ chối. Ngay cả nhà thờ Thiên Chúa giáo cũng không
chấp nhận tài trợ cho những nghiên cứu của Nahum. Vì thế những nỗ lực
của nhà khoa học này giậm chân tại chỗ…
Tại
Đại học Virginia, một chuyên gia tâm thần học là Gruce Greyson cũng có
các nghiên cứu liên quan đến sự tồn tại của linh hồn. Greyson là người
đầu tiên tập trung vào tâm lý của những người đang ở ranh giới của sự
sống và cái chết. Ông phát hiện ra rằng một vài người đang hấp hối đều
nhìn thấy một luồng ánh sáng xanh rất mạnh, và cảm thấy một đường hầm
đang dẫn họ về phía trước.
Nhưng thực ra Greyson lại không hoàn toàn tin tưởng vào sự tồn tại của linh hồn. Ông cho rằng, phải có nhiều nghiên cứu nữa thì mới chứng tỏ được sự tồn tại hay không tồn tại của linh hồn.
Những
câu trả lời có căn cứ từ khoa học hoặc tôn giáo hiện nay vẫn chưa thể
coi là thoả đáng. Qua 30 năm tìm hiểu về trạng thái tâm thần của người
hấp hối, ông đã phát hiện thấy khoảng 10% số người trong số các bệnh
nhân suy tim đều có dấu hiệu hoạt động của não trong khi họ đang bất
tỉnh.
Sau
khi được cứu chữa và tỉnh lại, những bệnh nhân này cho biết họ thấy
những hoạt động của bác sĩ và y tá ở một điểm cao hơn. Tiếp tục nghiên
cứu, Greyson cho đặt một màn hình với những giao diện khác nhau bên
ngoài phòng cấp cứu bệnh nhân bị suy tim. Ông cho rằng, nếu thật sự có
sự tồn tại của linh hồn, thì những người bị suy tim sau khi tỉnh lại sẽ
biết được màu sắc của màn hình đặt tại phòng bên cạnh. 50 người đã được
thử nghiệm, nhưng không một ai biết được màn hình có màu gì. Nhà khoa
học giải thích rằng đó là do tác dụng của thuốc gây mê đã cản trở sự
thoát ra của linh hồn.
Pim
van Lommel, bác sĩ chuyên khoa tim người Đan Mạch cũng đồng ý với quan
điểm của Greyson. Lommel cho rằng con người không chỉ có một ý thức,
trong khi họ đang ở trong tình trạng hấp hối thì những ý thức khác hoạt
động và mở rộng phạm vi của nó nhiều hơn so với bất cứ thời điểm nào
trước đó. Lúc đó họ có thể hồi tưởng lại những khoảng thời gian xa xôi
nhất trong quá khứ và cảm nhận được một cách rõ ràng hơn bình thường sự
vật và con người xung quanh. Trong khi đó, thần kinh trung ương của họ
vẫn đang ngừng hoạt động.
Những
giả thiết trên đã đặt ra một sự nghi ngờ đối với kiến thức mà chúng ta
đã biết và thừa nhận từ lâu: Ý thức là sản phẩm của não bộ. Điều đó giờ
đây có thể không còn chính xác nữa. Bởi vì nếu như vậy, ý thức sẽ không
thể tồn tại nếu não bộ ngừng hoạt động. Nhưng các thí nghiệm ở trên thì
đều chứng minh cho điều ngược lại.
Còn
hai học giả của trường Oxford là Stuart Hameroff và Roger Penrose lại
giải thích sự tồn tại của linh hồn bằng quá trình lượng tử. Theo hai
ông, não bộ con người được chia ra làm hàng tỉ ô siêu nhỏ, các ô này
liên kết với nhau thông qua một quá trình di chuyển của các lượng tử.
Khi cơ thể một người ngừng hoạt động, máu sẽ không được chuyển đến các ô
này, và chúng cũng ngừng hoạt động.
Nhưng sự di chuyển của các lượng tử thì không mất đi. Chúng sẽ thoát ra
bên ngoài não bộ và ghi nhận những gì tồn tại ở không gian xung quanh.
Nếu người đó tỉnh lại, các lượng tử sẽ quay trở lại não và hoạt động với
chức năng thông thường của chúng. Những gì chúng ghi lại được khi thoát
ra bên ngoài cũng được não bộ tiếp nhận. Và đó là lý do tại sao một
người hấp hối nhưng sau đó được cứu sống lại có thể biết được những sự
kiện mà anh ta không hề tận mắt chứng kiến hoặc được nghe kể lại.
Vậy
nếu người đó không tỉnh lại được nữa thì các chuỗi lượng tử đó sẽ di
chuyển đi đâu? Tiếp tục mở rộng giả thuyết của Hameroff và Penrose, bác
sĩ Ian Stevenson đã nghiên cứu về khả năng các chuỗi lượng tử đó sẽ được
tiếp nhận trong bộ não của trẻ sơ sinh, hay nói cách khác đó chính là
sự tái sinh.
Sau khi Ian Stevenson mất, con trai ông là Tucker tiếp tục theo đuổi
giả thuyết này. Tucker tiến hành phỏng vấn rất nhiều trẻ em, trong số đó
ông đã tập hợp được 1.400 em có khả năng biết được những sự kiện xảy ra
trước khi chúng sinh. Thậm chí một vài em còn có thể kể rất rõ những sự
kiện trong cả các giai đoạn phát triển rất sớm của lịch sử loài người.
Thực
tế cho đến nay, dù có tập hợp được tất cả các công trình nghiên cứu
khoa học về vấn đề này thì chúng ta cũng không thể nào biết được chính
xác liệu có sự tồn tại của linh hồn hay không, và nếu có tồn tại thì
chúng sẽ tồn tại ở dạng nào. Có lẽ khoa học không phải lúc nào cũng là
giải pháp tối ưu cho tất cả mọi vấn đề. Như lời của vị Lạt ma mà cha
Tiso gặp tại Kham đã nói: “Đó không phải là thứ dành cho đôi mắt, mà
là của trái tim. Đối với chúng ta, có lẽ sự nhìn nhận bằng đôi mắt và
cả sự cảm nhận từ trái tim sẽ cho câu trả lời chính xác nhất”.
Theo SGTT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét