Thảo đẹp hay không đẹp, đàn ông dọc phố không ra miệng bình phẩm, ít
nhất là riêng tôi chưa từng nghe thấy một lời nào như vậy từ họ. Tôi chỉ
thấy họ nhìn chị. Những tay sĩ diện cao, thiên về đứng đắn, tất nhiên
không nhìn, tránh nhìn, nhưng chỉ cần kém mực thước đi một tí thì không
làm sao cưỡng mắt được, không tài gì thấy Thảo lại có thể nhịn nhìn.
Thị
hiếu như thế thật là không công bằng. ở phố này, là giai nhân, thiết
tưởng trước nhất người ta phải chấm chị Diễm hoa khôi trường Ngoại ngữ,
kế nữa thì như là chị Bích bác sĩ, chị Hoa diễn viên múa, hay là chị
Thúy bán bách hóa, rồi chị Lan, chị Đào, chị Hậu, nhiều. Tại sao lại là
Thảo?
Tôi thì lẽ dĩ nhiên là tôi biết
Thảo, nhưng là biết thế thôi chứ thực ra chẳng quen biết gì. Cũng khó có
thể xem nhau là láng giềng, mặc dù chung số nhà.
Hồi
đó cha tôi tiêu chuẩn Tông Đản, cùng với ông Lâm, cán bộ đồng cỡ, hai
gia đình được trên cho hưởng trọn diện tích ngôi nhà chính, một biệt thự
Tây hai tầng kiểu cách. Chúng tôi dùng cổng lớn mặt phố. Còn gia đình
Thảo và năm hộ nữa thì sống ở dãy nhà phụ sân sau, họ thường đi lối cửa
ngách thông ra ngõ hẻm. Đời sống của những “người sân sau” ấy chẳng khác
nào như là mặt trái của ngôi biệt thự. Chỗ chui ra chui vào của cả sáu
gia đình đều chật chội khổ sở, già trẻ lớn bé đóng hộp. Tất cả nấu nướng
cùng một khoang bếp, tắm táp cùng một hốc tường, phơi phóng, hít thở
đấu hót, cãi cọ, chuyện gẫu, nuôi lợn, nuôi gà tất cả trong cùng một
khoảnh sân tù hãm. Tất cả đều nghèo túng. Tất cả đều đầu tắt mặt tối.
Chúng
tôi thì khác. Như tôi, từ bé đã được cha mẹ cho ở phòng riêng. Anh tôi,
chị tôi cũng thế, mỗi người mỗi phòng, tự mà bày biện, tự mà sắp xếp,
tung tẩy tự do, một mình thoải mái.
Phòng
tôi, ban công trông xuống sân sau. Từ ban công cúi nhìn, mắt chạm ngay
cánh cửa liếp căn hộ gia đình Thảo, một căn buồng hũ nút không cửa sổ,
ngày xưa là cái ga-ra. Nhà nọ neo người, chỉ hai bố con., Bà mẹ mất đã
từ nhiều năm trước. Ông bố lệt bệt đau ốm, thường xuyên liệt giường.
Được hai người anh thì một tử trận, một ở tù. Sinh kế trong nhà cậy cả
vào Thảo. Học hành dang dở chẳng có nghề gì, Thảo đi đêm, về hôm đắp đổi
đủ nghề. Nghe nói toàn những nghề rất mạt với rặt là những cái lối kiếm
tiền không biết nhục. Các bà các chị ở sân sau những khi quần tụ trong
bếp hay rồng rắn chầu chực bên cái máy nước giỏ giọt vẫn ưa khơi những
tai tiếng của Thảo ra làm đầu câu chuyện. Sống ở trên lầu, dù có buông
kín rèm và đóng chặt cửa sổ, chúng tôi cũng không thể tuyệt đối bỏ ngoài
tai những mớ lao xao hắt lên từ cuộc chung đụng nghèo khó ở dưới sân.
Nhưng
cũng là láng máng biết vậy chứ những mảnh đời sân sau ấy chẳng bận tới
tôi. Nếu như riêng Thảo đã có thể phần nào khiến tôi để ý thì cũng chỉ
là vì hồi đó tôi cứ mãi lấy làm lạ về cái nhìn của những thằng bạn và
những ông anh trong phường. Tôi tin thẩm mĩ của mình không khờ khạo, tôi
cũng biết mình như ai chứ chẳng lẽ lại không, nhưng tôi chịu không thấy
được ở Thảo có gì đáng ham hố. Trông cuộc trần ai kiếm sống Thảo hoàn
toàn chìm lặng giữa bao người, chẳng một nét nào nổi bật, chẳng thể ăn
đứt được ai, nhất là ở một địa bàn dồi dào sự xinh tươi như khu phố của
chúng tôi. Những lúc này lúc khác gặp Thảo, ở cổng nhà, ở trong sân, ở
ngoài đường, thường là tôi giả tảng chẳng thấy, lờ đi, cùng lắm thì cũng
chỉ là chiếu lệ đôi ba lời gì đó trống không ra điều chào hỏi.
Sướng
thân tọa hưởng phúc ấm gia đình, đầu óc nhẹ nhõm, tâm tư tôi sạch bong,
không khi nào phải hoài hơi nghĩ này nghĩ nọ gì hết. Cả với những người
thân yêu ruột thịt tôi cũng bàng quan huống hồ với một thân phận mù mờ
sống chìm khuất mé sau nhà như Thảo.
Vậy
mà rốt cuộc chính là vì Thảo nên vào mùa hè năm đó, năm tôi mười bảy
tuổi, tôi đã lẳng lặng bội phản người chị gái của mình, và rồi sau đấy,
lại vẫn vì Thảo, tôi phản bội tiếp cả người anh trai. Đến bây giờ, khi
cái uẩn khúc gia đình ấy bị lộ ra, mặc dù đã bao năm trời trôi qua, mọi
sự đã an bài, anh trai tôi và chị gái tôi vẫn không tha thứ, anh chị tôi
từ mặt tôi. Cho đến tận bây giờ, trong kí ức tôi, kí ức một đời sống mờ
nhạt, thông thường, không hề biết tới những xáo trộn, không chịu lướng
vướng với ai một chút nợ lòng nào, vẫn cứ còn thỉnh thoảng phảng phất
hiện lên hình bóng của mùa hè năm ấy, một mùa hè râm ran tiếng ve sầu,
ngạt ngào hương thơm hoa sữa, một mùa hè đã xa lắc xa lơ từ tận những
năm nảo năm nào.
° ° °
Mùa
hè năm ấy, chị tôi đi lấy chồng. Chị không hề hay biết, nhưng tôi thì
tôi biết, biết tỏng từ trước lễ cưới một vụng lén tày đình của ông anh
rể: song song với yêu chị tôi, anh còn cặp với một người đàn bà khác.
Khuất tất khó tha đó của anh chính tôi bắt quả tang. Chính tôi dự vào
cuộc vây lùa đêm ấy ở Bách Thảo. Và mặc dù chưa phải là đã tóm được rành
rành trai trên gái dưới, nhưng cũng gần như vậy.
Trai
gái thời nay nghe kể về những “vụ việc” khó tin thời ấy hẳn phải lấy
làm buồn cười lắm, nhưng vào thời chúng tôi những chuyện như thế chẳng
có gì là buồn cười.
Thật ra thì vào thời
nào Hà Nội của chúng ta cũng là thành phố của tình yêu. Xưa hay nay
chẳng bao giờ là không nhan nhản những đôi lứa đang dập dìu. Có điều,
thời hiện đại bây giờ người ta luyến ái nhau một cách vừa thoải mái
thoáng rộng lại vừa kín đáo. Không cần phải là hạng con nhà người ta
cũng có thể có phòng riêng. Không phòng riêng thì ngăn riêng, những góc
nhỏ xinh xắn ấm cúng để tự tình. Nhưng trước kia thì khác. Trước kia
ngay trong nhà mình người ta cũng chẳng đào đâu ra một góc cỏn con cho
riêng mình. Các mối tình vì thế phải hướng ngoại, gần gũi nhau ở bên
ngoài bốn bức tường. Bởi vậy mà lại có vẻ nườm nượp, có vẻ lộ liễu hơn
hẳn thời hôm nay. Hồi đó, đôi nào hơi chậm chân thì chỉ mới tối đã chẳng
hòng kiếm gì nổi trong công viên một ghế đá còn rỗi. Trong những góc
thật khuất, mỗi băng ghế thậm chí có thể có đến hai cặp đồng sở hữu.
Không còn ghế, thiên hạ kê dép ngồi phệt, san sát, ngổn ngang, kín nghịt
bãi cỏ. Mùa hè, các công viên nội thành đều quá tải, người ta đành đưa
nhau sang tận mạn tối đến bên kia hồ Tây, bãi Tứ Liên, đê Nhật Tân.
Người ta lần vào cả trong vùng đổ nát quanh nhà máy điện Yên Phụ. Lắm
đôi gần như bạ chỗ nào cũng xong, miễn tôi tối, văng vắng và kin kín một
chút. Các chàng các nàng mê mẩn quên giờ giấc, quên lời thầy mẹ dặn dò,
quên những bất trắc lúc canh khuya, quên cả chuyện có thể gặp chúng tôi
đi tuần.
Anh rể tương lai của tôi đã gặp
phải chính một rắc rối như thế đêm ấy. Một đêm không trăng sao. Nửa đêm
về sáng lại mất điện, Bách Thảo um tùm cây cối tối mịt mùng. Tôi cùng
mấy anh chị em trong tổ dân phòng khối phố rẽ vào đó kiểm tra đột xuất
giấy tờ của các đôi. Bốn bề tối câm nhưng tinh mắt chúng tôi vẫn lập tức
phát hiện thấy từ bên hồ có người đang dắt xe băng nhanh qua bãi cỏ.
“Đứng lại! Dân phòng đây!”. Người kia lao vụt cái xe ra khỏi vệ cỏ, phóc
lên yên và cuống cuồng đạp phóng đi. Chúng tôi rầm rộ đuổi theo. Chiếc
xe nọ thục mạng phi trên lối cỏ ven hồ và vùn vụt ngoặt gấp vào khúc
quanh dưới chân núi Nùng, mất hút. Những luồng sáng đèn pin rọi với theo
cho thấy kẻ trên xe tháo thân có một mình. Bực tức, chúng tôi xấn tới
chỗ mà ban nãy gã đó đã dắt xe chạy ra. Ánh đèn châu lại chiếu sáng vạt
cỏ bên một gốc xà cừ. Vẫn còn một chiếc xe đạp và vẫn còn một người bị
rớt lại đó. Một ả. Ả đứng xoay lưng lại những luồng sáng đèn pin. Có lẽ
do quá hoảng, ríu chân nên cô nàng không chạy được, tay dắt xe mà không
dắt đi nổi.
“Tuột xích hả?” - Anh tổ trưởng dân phòng lên tiếng.
Ả nọ
làm thinh. Tổ trưởng cáu:
“Đứng có mà lơ tơ mơ giả câm giả điếc nhá!”
Anh nạt: “Đêm hôm mò vào đây làm gì. Qua đây xem cái mặt nào. Giấy tờ
đâu? Cô là ai?”.
Là Thảo. Buông tay khỏi chiếc xe, Thảo xoay người lại,
ngẩng đầu lên, làn tóc như sóng, xõa xuống. Cái áo cánh cửa hàng cúc
không cài. Tất cả những luồng sáng như nín thở, như ngây hết ra, mãi rồi
mới loạc choạc chiếu tản đi.
“Tưởng ai!” - Tổ trưởng chúng tôi nói, thở
dài.
Anh rọi đèn ra đằng sau Thảo, soi lên chiếc xe đạp vừa đổ ngả vào
thân cây. Im lặng một lát, anh nói, nhát gừng, giọng rất khàn:
“Xe cô,
nó vồ. Xe nó, nó khoá trái, ôm chìa chạy mất dép... Cái thằng đó (là)
thằng nào thế, sao thằng đểu, thằng hèn thế mà cũng theo?”
Nhưng chỉ hỏi
vậy thôi, chẳng hỏi gì thêm, anh quay lưng bỏ đi. Mọi khi, trường hợp
như thế này, đối tượng phải bị điệu về trụ sở dân phòng để lập biên bản.
Sẽ không có chuyện nhu nhơ. Thế mà trận này với Thảo, chẳng hiểu tại
sao mọi người rất nương tay. Chẳng căn vặn gì, chẳng tra xét gì cả, anh
em trong tổ im ắng rút theo tổ trưởng. Mỗi mình tôi nán lại. Kì cạch tôi
dùng dao nhíp cậy khoá xe. Bánh trước cái khoá dây, bánh sau cái khoá
càng cua, đều không có chìa. Thảo im lặng đứng bên soi đèn cho tôi. Sau
thoáng chốc sửng sốt ban đầu, tôi đã mau chóng nguội hết kinh ngạc, dù
sự thể thật quá khó tin. Chiếc xe Mipha bị lẳng lại đây là của Hằng, chị
gái tôi. Chị Hằng vẫn thường đổi xe cho anh Quân, để anh ấy diện, còn
chị, chị ưa cái Thống Nhất cà tàng của anh. Ban nãy, khi những vệt đèn
pin rọi rượt theo tay đàn ông, soi trúng lưng, trúng gáy y, tôi đã ngờ
ngợ. Quả nhiên, đích thị, là anh Quân. Chỉ tuần sau thôi là anh ấy với
chị tôi tổ chức, thiếp mời đã in xong, mấy bữa nay tôi đang có nhiệm vụ
đi rải.
Tôi ném thia lia hai cái khóa
khốn nạn ra thật xa trên mặt hồ. Vừa khi đèn đã cạn pin. Trong Bách Thảo
dòng điện vẫn chưa hồi. Thảo không nhìn thấy mặt tôi, có lẽ chẳng biết
tôi là ai, mà chị cũng chả hỏi, chẳng nói năng gì, chẳng cả cảm ơn nữa.
Đón lấy ghi-đông từ tay tôi, nhưng suýt thì chị làm đổ xe. Hương hoa sữa
về khuya như sánh lại, ngào ngạt, bứt rứt trong không khí. Ở vòm lá bên
trên chúng tôi, một con ve sầu lên tiếng muộn màng vào lúc nửa đêm.
Trong bóng tối, tôi chỉ thấy được Thảo trăng trắng mờ mờ, gương mặt,
cánh tay, bờ vai.
Thực tình tôi không
biết là tại làm sao mà lúc ấy mình lại như thế. Bỗng nhiên, hoàn cảnh
bất ngờ với chính mình, tôi đưa tay lên ngực Thảo, và rất run, những
ngón tay tôi lụng vụng, lóng ngóng, rờ tìm, cài lại được một, rồi hai
cúc áo. Thảo đưa tay lên gỡ nhẹ tay tôi. Ngay lúc đó trong Bách Thảo đèn
sáng trở lại, nhưng chỗ chúng tôi đứng vì rất khuất nên ánh đèn không
rọi vào được, vẫn tối đen.
° ° °
Sự
việc đêm ấy, có nguyên cả một tổ dân phòng chúng tôi chứng kiến, tưởng
là nhất định sẽ ầm lên, vậy mà chìm hẳn. Chẳng ai bảo ai mọi người như
thể đồng lòng bao che cho Thảo. Bản thân anh Quân thì lẽ dĩ nhiên là rất
kín miệng, nhất là anh bình tĩnh. Sau đêm đó, để nghe ngóng, anh chỉ
nhãng ra có đúng một hôm thôi không tới. Chị Hằng tôi và cha mẹ tôi chưa
kịp lấy làm lạ, tôi đã thấy anh mở cổng dắt xe đạp vào nhà. Vẫn chiếc
xe đạp Đông Đức xanh nõn chuối ấy của chị tôi. Thái độ của anh rất đỗi
đàng hoàng, hoàn toàn là như không vậy. Chẳng phải là anh giả đò. Tính
anh như thế. Dáng vẻ nhũn nhặn, ăn nói cầu hòa, nhưng anh luôn có đức
tin tuyệt đối vào bản thân mình, một lòng tự tin kín đáo nhưng chắc
nịch. Tôi tự hỏi không biết anh đã bắt đầu lòng thòng với Thảo từ khi
nào, trước hay là sau khi quen biết chị Hằng. Chắc là sau, chắc là anh
ấy “tăm” được Thảo nhân những lần đến với chị tôi.
Chẳng
thể ghét anh ấy được. Chẳng thể khinh được, trái lại. Anh ấy lừa dối
chị tôi nhưng bù lại cũng hiển nhiên là anh ấy yêu chị ấy. Yêu đàng
hoàng, yêu minh bạch, và đã yêu liền một mạch nhiều năm rồi. Còn chị Hằng
thì phải nói là đã yêu hơn cả yêu. Chị có vẻ như là muốn chết đi được
vì được yêu. Lắm khi bắt gặp cái nhìn của chị hướng tới anh, tôi phát
sợ. Một cái nhìn đắm đuối, van vỉ, chứa chan lòng ngưỡng mộ, sự trung
thành.
Trước ngày cưới cả tuần chị tôi
sống trên mây. Chị như ngây đi. Làm sao mà tôi dám nhẫn tâm nói hở ra
một lời nào có thể làm lật ngược mất của chị cái niềm hạnh phúc nom đến
là thương tâm ấy. Không phải chỉ trong những ngày của hôn lễ mà mãi đến
tận nhiều năm về sau tôi đã tuyệt đối không hé răng. Trong cư xử hàng
ngày tôi cũng luôn giữ được vẻ bề ngoài thật là bình thường với chị. Cả
với ông anh rể nữa. Tôi không biết là anh có biết tôi biết không, nhưng tôi đã
cố tỏ ra là chẳng hay biết gì hết. Sớm thích nghi với vị thế một thằng
em vợ, tôi sống thiện chí, không hề nói gì hay làm gì khiến anh khó
nghĩ. Ngay cả với việc anh về ở rể, tôi cũng dễ dàng đồng ý theo mọi
người. Tôi chỉ không chịu chiều ý cha mẹ muốn tôi đổi chỗ nhường cho cặp
tân hôn căn phòng của tôi rộng hơn.
Nhè
ngay cái phòng trông xuống sân sau ấy mà xây tổ ấm, ai đời lại như thế
bao giờ. Tôi thấy có cái gì thật quá đáng, một cái gì ang ác trong hạnh
phúc của anh Quân chị Hằng, trong tiếng họ nói họ cười, trong cái cách
hai anh chị sau ngày cưới rảo quanh suốt lượt hàng xóm láng giềng, chào
hỏi và ra mắt. Khi hai người gõ cửa căn buồng ga-ra, tôi đứng ở ban công
nhìn xuống. Nghịch cảnh quá thể bi hài. Đã thế, vào thăm nhà Thảo đương
khi ông thân của chị bệnh nặng nên cặp mới cưới còn tốt bụng tha theo
một túi nặng những đường sữa với cả một bịch các thứ thuốc bổ. Nhiều năm
sau này khi vỡ nhẽ mọi sự, chị tôi không uất anh Quân mà uất tôi. Chị
hận nhất là cái chuyện ngày hôm đó tôi đã mặc kệ chị bị hố, bàng quan
nhìn chị lễ mễ quà cáp tươi rói theo chồng vào thăm nhà “con đĩ”. Chị
bảo sự im lặng đáng sợ ấy của tôi là biểu hiện tối đa một lòng dạ bạc
bẽo. Tôi không biết làm sao phân trần. Chị tôi mắng vậy cũng chẳng sai.
Dửng dưng ơ hờ, thản nhiên vô sự, cái tật đáng khen ấy ở tôi hình như
ngay từ hồi ấy đã rất trầm trọng. Thế nhưng tình thật mà nói thì không
phải tôi không biết băn khoăn là gì. Còn đầy băn khoăn nữa là khác.
Trò
đời đối với tôi quả là kì lạ. Anh rể tôi rõ ràng đã mặt thớt phớt tỉnh
Thảo, nhẫn tâm thoải mái vui duyên mới ngay kề nhà Thảo, vậy mà chẳng
hiểu sao đã chẳng hề kích lên ở chị một mảy may nỗi oán hờn. Âm thầm chị
bưng bít cho anh, kệ cho anh được ung dung mặc sức, không hề có thoáng
qua một lời, một cử chỉ, một biểu hiện nào lộ ra là đã từng biết anh.
Chị chỉ đã lẳng lặng tránh đi, như để khỏi nhìn thấy anh ấy, khỏi trông
thấy, nghe thấy sự sung sướng, sự mãn nguyện của anh ấy, của chị tôi.
Ban ngày không bao giờ Thảo có nhà, song cũng thường xuyên đi vắng suốt
tối, nhiều hôm phải gần sáng mới lần về. Qua những lời bàn tán vọng lên
từ dưới sân, tôi biết Thảo vừa được nhận vào làm nhân viên hợp đồng ở
quốc doanh chiếu bóng, song tôi cũng biết là chẳng một rạp xi-nê nào
trong thành phố có suất chiếu muộn đến như vậy.
Đêm
hè, mắc màn ngủ ngoài ban-công, tôi có thể nghe thấy gần như tất cả
những động tĩnh của Thảo, từ lúc vừa lạch xạch dắt xe đạp về cho tới tận
khi đã ngả lưng. Mọi sinh hoạt của Thảo: xách nước, nấu cơm, giặt giũ,
thay chăn chiếu và vệ sinh cho ông bố già đau ốm đều ẩn vào đêm. Le lói,
giữa canh khuya, cả khu nhà chỉ một mình căn buồng của chị còn thức, im
lìm vệt sáng đèn vẽ hờ theo khe cửa. Đôi tai đã trở nên quá nhạy của
tôi có thể nghe thấy tiếng cánh cửa liếp của căn buồng ga-ra nhẹ nhàng
hé mở, nghe thấy Thảo bước ra sân. Tôi có thể nghe thấy ở chỗ hốc tường
góc cuối sân, sau manh chiếu che buồng tắm chầm chậm tiếng nước dội,
từng gáo nhỏ một, se sẽ.
Từ sau cái đêm ở
Bách Thảo, bỗng dưng tôi thành ra như là người đa cảm. Một trạng thái
từa tựa như cơn sốt âm ỉ, khiến tôi bơ phờ, bải hoải, lại vừa chộn rộn
bứt rứt. Vốn chẳng ưa thích gì lắm phim ảnh mà dạo đấy tôi lại năng đi
xem. Nhưng chỉ đến duy nhất rạp Bắc Đô bên gậm cầu, một cái rạp hạng
bét. Mua vé xong, bao giờ tôi cũng đợi buổi chiếu bắt đầu được vài phút
mới vào. Hướng dẫn chỗ ngồi cho khách không phải khi nào cũng là Thảo
nhưng tôi cầu mong là chị và lạ thay đã luôn luôn được như thế. “Xin quý
khách đi lối này. Xin hãy thấp người xuống”, chị nói, thầm thì. Chỉ
những dịp ngắn ngủi chẳng nhìn thấy gì, trong bóng tối nóng ngột, rối
bời, loang loáng ấy, là tôi được nghe Thảo nói với chính tôi và được vài
bước chân đi sát kề, gần như nép vào chị.
Nỗi
niềm thầm lén của tôi cứ mờ mờ mịt mịt như vậy mãi. Thảo chắc là chẳng
hề biết đến sự hiện diện của tôi cả trên ban-công lẫn trong rạp chiếu
bóng. Nhưng, như là để bù lại, tôi luôn nằm mộng thấy Thảo. Thảo thường
đến với tôi vào quãng trước hừng đông. Buổi sáng thức dậy, một làn hương
mơ hồ như là hương thơm của giấc mơ vẫn còn vương vấn mãi.
° ° °
Năm
ấy, sau Tết ta, ông thân của Thảo qua đời. Người ta bảo rằng ông cụ mất
đi thật là đúng lúc. Chỉ nán lại thêm dăm bữa nữa là cụ sẽ phải gánh
theo xuống mồ trọn vẹn điều nhơ nhục của cô con gái.
Nhưng
mà cái điều nhơ nhục ấy thực ra là một mối tình. Mối tình của Thảo với
Minh, anh trai tôi. Đang là nghiên cứu sinh ở Liên Xô, Tết ấy anh Minh
được gia đình triệu về để lấy vợ. Cố nhiên không phải là lấy Thảo. Tôi
chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao nữa. Hồi đang ở nhà chưa đi du
học, ông anh tôi tính còn khệnh hơn cả tôi, có bao giờ mà anh lại để mắt
đến Thảo. Ý trung nhân của anh là chị Diễm, một bông hồng thướt tha,
đoan trang, kiều mị vào cỡ nhất cả khu phố. Ông bố của chị cấp ngang thứ
trưởng ấy bị đột quỵ mà anh Minh phải cấp tốc về nước tổ chức cưới chạy
tang.
Chẳng khác nào là một dị bản của
đám cưới anh Quân chị Hằng, hôn lễ chị Diễm anh Minh cũng đã định ngày,
cũng thiếp mời đã gửi, và cũng thế, phút cuối cùng, lại là Thảo xen vào.
Chỉ có điều là ở dị bản anh đàn ông đã không bỏ của chạy lấy người,
không im lìm chùi xóa nhẵn nhụi dấu vết cuộc dan díu. Có thể là vì mới
từ xứ nọ tự do luyến ái trở về nên anh Minh không úp mở gì hết, chẳng
chút ý tứ giữ gìn.
Vừa chân ướt chân ráo
về nước đã bập liền vào Thảo và đã lập tức yêu cuồng lên. Sự bội tình
của anh mau chóng rành rành ra trước mắt thiên hạ. Hầu hết nữ phái,
nghĩa là già nửa dư luận trong phố sôi lên phẫn nộ, cả mẹ tôi nữa, và
nhất là chị Hằng tôi. Nhưng anh trai tôi, con người của học hành, đạo lí
và khuôn phép đã trở nên đặc biệt cứng đầu, ngày một thêm bạt mạng. Sự
việc ầm ĩ lên chỉ tổ giúp anh gạt nhanh mọi do dự. Công nhiên dẹp bỏ đám
cưới, anh tàn nhẫn cắt đứt với chị Diễm. Anh gần như là phô trương thái
độ bất tuân phụ mẫu và bất cần thiên hạ. Còn non tháng nữa là phải quay
sang Liên Xô, anh đã dứt khoát dời khỏi nhà cha mẹ, chuyển tới ở nhờ
nhà bạn. Giận điên người, song thân tôi tống hết ra cửa mọi thứ của nả
và quà cáp anh tải từ bên tây về. Minh liền khuân tất xuống phòng Thảo.
Trước lúc bỏ đi, đứng ở cổng, anh xấc xược tuyên bố rằng nếu không vì
ngại cho Thảo bị người ta dồn nén thì anh đã chẳng sá gì mà không vào
sống với Thảo một phòng. Chờ bốn chín ngày của ông cụ xong là cưới - Anh
tôi hùng hổ dọa thế. Bấy giờ tuy phải ngả theo quan điểm chung của cả
nhà, mà thực lòng tôi phục anh tôi sát đất.
Và
có vẻ như là anh tôi thậm chí làm liều. Có vẻ như anh chẳng còn thiết
gì bản luận văn đang dang dở ở bên Nga. Ngày nào anh cũng về nhà, nhưng
chẳng lên với gia đình, chỉ cứ buồng Thảo chui vào, ngồi chơi đến chớm
khuya mới tạm biệt. Ngày nào mẹ tôi và chị Hằng cũng ít nhất một trận
làm dữ, nhưng Minh Thảo mặc kệ, hoặc đóng chặt cửa, hoặc xe máy dong
nhau ra phố. Hôm giỗ bốn chín ngày ông bố, Thảo biện mấy mâm cơm mời
suốt lượt các gia đình trong cùng số nhà. Gia đình chúng tôi chẳng ai
xuống. Cố nhiên là trừ anh Minh. Anh ở bên Thảo từ sáng đến tận tối,
xăng xái chạy ra chạy vào đi lên đi xuống phụ giúp chị. Anh thay mặt chị
đón khách tiễn khách. Anh qua lại các mâm trong nhà ngoài sân, mời
nước, mời thuốc, tiếp rượu, chuyện trò thưa gửi. Như là một với Thảo,
anh xưng chúng tôi, và tự nhiên như tây gọi Thảo bằng em của anh trước
mặt mọi người.
Tôi thẫn thờ đứng ngoài
ban-công rất lâu, nhìn, vô hạn buồn nản. Anh Quân đã đứng cạnh từ lúc
nào, tôi chẳng biết. “Nó giỗ bố nó hay nó làm lễ lên giường với ông anh
cậu thế, tôi đố cậu phân biệt được đấy?” Nhếch mép, Quân cười. Một cái
cười khẩy, tuy nhiên méo xệch. Anh châm một điếu thuốc và lập tức sặc
sụa. Nồng nặc xồng xộc lên mùi rượu. Xưa giờ, rượu và thuốc là hai thứ
ông anh rể của tôi đặc biệt gớm ghét. Nom anh bơ phờ, mặt mày xọm
hẳn, tái dại.
Tôi và anh Quân tuy chưa
bao giờ là quá thân mật nhưng đã luôn hữu nghị với nhau. Thời gian trôi
qua mới hơn nửa năm song tôi đã gần như quên hẳn cái hành vi bần tiện
của anh ở Bách Thảo. Cả những khi thấy anh lúi húi tỉ mẩn lau chùi kì cọ
chiếc xe đạp Mipha ấy tôi cũng gắng không cho một ý nghĩ mỉa mai nào
gợn lên trong lòng. Thực tình là tôi chẳng muốn nhớ. Dù sao đi nữa thì
anh Quân cũng quả thật người tử tế. Với cha mẹ tôi, anh hết sức hiếu
thảo, chu đáo mọi bề, không chê vào đâu được. Với chị Hằng, anh tận tình
yêu thương, nhất là từ khi biết mình sắp thành ông bố trẻ con. Tôi
không nghĩ rằng anh đóng kịch. Hoàn toàn không có vẻ gì là kịch. Vả
chăng kịch để làm gì.
° ° °
Tối
hôm ấy tôi đi ngủ sớm mong trốn khỏi những gì trong đầu và tiếng ồn
dưới sân. Nhưng mãi mới thiếp đi được. Quãng nửa đêm lại bị thính giác
lay thức. Có ai đó lẻn vào phòng, tới sát giường. Tối om, nhưng tôi biết
ngay đấy là Quân. Anh đứng im bên giường tôi một lát rồi nhón quay bước
trở ra. Tôi đếm được từng bước chân cực kì rón rén của anh xuống cầu
thang, tôi nghe anh lẹp nhẹp đi qua sân sau. Ngồi dậy trong màn, không
cần phải ra hẳn ngoài ban-công, tôi cũng biết là anh dừng bước trước cửa
buồng của Thảo. Anh không gõ cửa mà cào cào như mèo cào vào cánh cửa
liếp. Tôi thậm chí nghe được tách một cái tiếng công tắc đèn bật lên.
Cánh cửa nhà Thảo hé mở rất nhẹ. Tôi không thể biết phản ứng của Thảo sẽ
như thế nào: hét lên, nức lên, gào khóc, nguyền rủa, xua đuổi, tôi chỉ
hiểu rằng, ngay bây giờ đây, ngay tức thì thôi anh Quân sẽ lộ tẩy chân
tướng, đồng thời tai tiếng cũng sẽ đến với gia đình tôi, chị Hằng tôi sẽ
khổ, sẽ nhục, ngay bây giờ.
Nhưng, tịnh
không có gì xảy ra hết. Chỉ có tiếng cánh cửa khép lại. Im ắng hoàn
toàn. Không có tiếng chân anh Quân quay lên. Tôi mở cánh cửa lách ra
ban-công. Đã quá nửa đêm. Mưa phùn rét mướt. Sau cánh cửa đóng chặt,
buồng Thảo còn để đèn, nhưng chỉ một lát thì tắt, cửa vẫn đóng chặt kín
bưng. Có lẽ do khí lạnh và hơi ấm mà tôi trở nên bất động và vô cảm, tôi
không nghĩ gì hết, cứ đứng ì người ra thế ngoài ban-công. Hồi lâu, rét
run tôi đành loạng choạng trở về giường. Giấc mơ quen thuộc lúc gần sáng
không còn đến với tôi nữa, thay vào đấy là tiếng chân anh Quân rón rén
lên cầu thang mà tôi nghe thấy vào lúc gần sáng.
Giờ
đây ngẫm lại những ngày tháng đó, thú thực tôi không hiểu nổi con người
mình. Cùng một lúc cả chị tôi, cả anh tôi, cả cha mẹ tôi bị người ta lừa
dối, vậy mà tôi nín nhịn đứng ngoài cuộc, khách quan nhìn ngó và lắng
nghe. Những đêm đen vụng trộm của ông anh rể thì cứ lặng lờ tái diễn.
Đêm ấy, đêm sau, rồi lại đêm sau nữa... rất êm, rất khéo, tuy nhiên hành
tung của anh vẫn là rất liều lĩnh và lộ liễu. Nửa đêm, tiếng chân xuống
cầu thang. Tiếng chân đi ngang qua khoảnh sân sau lép nhép bùn. Tiếng
mèo cào vào cánh cửa. Tiếng cửa mở ra thật nhanh, khép lại thật nhanh.
Gần sáng, lại những tiếng động đó nhưng ngược trình tự. Cửa mở ra. Tiếng
chân nhón bước lên cầu thang... Vậy mà chẳng ai hay.
Hai
kẻ báng bổ ấy mới may mắn làm sao. Cả khu nhà với bao nhiêu những tai
những mắt đã không hề bị đánh động. Còn chị Hằng tôi bụng mang dạ chửa
mà đêm đêm cứ li bì mê mệt chẳng khác nào uống quá liều thuốc ngủ. Rốt
cuộc chỉ một mình tôi sống trong đêm với cái cuộc tình dễ sợ và ảm đạm
như của loài ma ấy. Cả khi thức cả khi ngủ lẫn khi chập chờn, tâm trí
tôi luôn mấp mé, chầu chực ở sát bên cặp tình nhân tham tàn, hai con
người ma dại đó, như thể phấp phỏng canh chừng cho họ.
Nhưng
mỗi sáng ra trở dậy, ngó vào buồng ăn, anh Quân chị Hằng thân thương
bên nhau, điểm tâm và trò chuyện, tôi không sao nuốt nổi suất quà sáng
của mình. Và bởi sức người có hạn, không kham nổi nửa, tôi xin cha mẹ
cho phép chuyển vào nội trú trong kí túc xá sinh viên.
Mẹ
tôi nhất định không bằng lòng, buồn bực trách cứ tình cảm gia đình của
anh em chúng tôi quá ư nhạt nhẽo. Nhưng cũng nhờ những lời mẹ phàn nàn
nên tôi mới được biết rằng không chỉ anh Minh và tôi mà cả anh Quân cũng
đang muốn bỏ nhà ra đi. Anh rể tôi được điều vào Sài Gòn giữ chân
trưởng ban đại diện của cơ quan ở trong ấy. Mặc dù chị tôi còn vài tháng
nữa là sinh, mặc dù cha tôi thừa sức can thiệp để anh tôi không phải
đi, nhưng anh đã nhất quyết. Anh đã định ngày, ngay đầu tuần sau: đã đặt
vé xe lửa. Mẹ tôi vừa bực vừa thương anh Quân gàn tính, vì việc chung
quên tình riêng, bỏ nơi đầy đủ sung túc xông vào trong đó chuốc lấy kham
khổ, chấp nhận cuộc sống “nhá bo bo đắp đổi qua ngày”.
Song
thân tôi đã luôn sai lầm về anh Quân. Chị tôi cũng vậy, cả tôi nữa,
không bao giờ có thể lường hết được bụng dạ anh ấy. Tôi cứ nghĩ anh buộc
lòng phải ra đi như vậy là chấm dứt một lần cho xong với Thảo. Anh ấy
đã không còn cách nào khác, tôi nghĩ như thế. Thế nhưng, cách ứng phó
của anh với đời thực là đa dạng và uyển chuyển hơn tôi tưởng rất nhiều.
Bởi vì, rốt cuộc, anh Quân đã không hề phải trốn chạy đi đâu hết. Người
phải lầm lũi trốn đi là Thảo.
Bỗng dưng,
Thảo từ bỏ cửa nhà, biến đi biệt tích. Đột ngột, một buổi sáng, căn
phòng ga-ra của chị đã thuộc sở hữu của nhà hàng xóm kề vách, cả đồ đạc
nữa. Có lẽ chỉ những láng giềng sân sau của chị là biết trước sự tình.
Chúng tôi, những người ở nhà trên thì không hề hay. Ngay tôi cũng bị bất
ngờ, tôi không cảm thấy gì hết, không nghe thấy gì bất thường dưới
phòng chị đêm chị ra đi. Điều duy nhất tôi lấy làm lạ là không nghe
tiếng ông anh rể lần mò xuống đó đêm hôm ấy.
Còn
ông anh trai của tôi thì có thể nói như là bị trời giáng. Hôm trước anh
còn tới chơi, còn ngồi hết buổi tối trong phòng của Thảo. Hôm sau, thậm
chí cả một phong thư, một lời nhắn nhủ Thảo cũng không để lại cho anh
tôi. Toàn bộ cửa nhà đồ đạc Thảo nhượng lại cho người ta thật mau và
thật êm để lấy có vài chỉ, lại lặng thinh khăn khói lặn không sủi tăm
như thế, hẳn là đi vượt biên rồi, mọi người trong khu nhà đều nói vậy.
Anh tôi tê điếng, tái dại, loạng choạng bỏ lên nhà nằm lịm.
° ° °
Anh
trai thì suy kiệt tinh thần, anh rể sắp lên đường, chị gái bụng mang dạ
chửa, tất nhiên tôi không thể lập tức bỏ nhà vào ở trong kí túc xá. Đấy
là những ngày khó chịu không tả được, không khí trong nhà khiến tôi khó
thở. Tuy rằng mừng trong bụng với việc Thảo đã chịu “buông tha” cho anh
Minh nhưng mẹ tôi, chị tôi vẫn thấy sự dứt tình trắng trợn và trơ trẽn
ấy xúc phạm quá xá danh dự gia đình chúng tôi. Cứ bữa cơm tối đông đủ cả
nhà là hai người căm phẫn nói chuyện về Thảo. Cha tôi thì nóng ruột và
giận dữ vì sự kém cỏi bản lĩnh của anh Minh. Gay gắt chỉ trích trạng
thái tinh thần lệt bệt kéo dài của anh. Cha tôi đòi hỏi và thúc bách anh
mau vực mình lên, nhanh chóng thu xếp sự nghiệp phó tiến sĩ. Anh tôi lúc
cãi lại, lúc lì ra thằm lằm, lúc vùng vằng buông bát buông đũa bỏ về
phòng riêng nằm vật.
Tôi thì vẫn như
thông lệ, chẳng nói năng gì, không can dự. Tôi chỉ ngầm quan sát anh
Quân. Tôi thấy anh quá ư điềm nhiên, một vẻ điềm nhiên mà tôi nghĩ là
trên mức cần thiết. Anh từ tốn lên tiếng dàn hòa mọi người, khuyên mẹ và
chị Hằng quên “cô ta” đi, xin cha tôi bớt giận, thông cảm cho nỗi đau
của anh Minh, vân vân và vân vân. Nhưng chẳng cần phải là kẻ thâm trầm,
sâu sắc gì cho lắm, tôi cũng bắt gặp những thoáng chốc bần thần trên
gương mặt anh. Càng cận ngày anh lên tàu vào Nam những thoáng chốc như
thế tôi càng bắt gặp nhiều hơn. Dù có tài thánh cũng không ai trên đời
này có thể hoàn toàn giấu tiệt được thực chất tâm trạng mình, nhất là
tâm trạng do dự, nỗi phân vân, sự ngán ngại.
Đến
khi chỉ còn một ngày nữa là khởi hành thì ông anh rể tôi bỗng nhiên
thay đổi. Anh công khai trở nên đăm chiêu. Anh ưu tư ra mặt. Anh rối bời
vì âu lo cho tình trạng sức khỏe của chị tôi. Rồi bất ngờ anh tuyên bố
không thể ra đi, hoàn cảnh gia đình lúc này đang rất cần anh, nhất là
chị Hằng, vì vậy anh cần phải ở lại. Anh xin cha tôi nói với trên thôi
không điều động anh nữa. Mặc dù không hài lòng với sự rút lui quá cấp kì
của anh Quân, nhưng cha tôi công nhận sự rút lui ấy là hợp tình hợp lí,
và việc gì chứ việc giữ anh lại ở ngoài này thì trong tầm tay ông, ông
thu xếp được ngay.
Chị tôi vui mừng, hoan
hỉ dỡ bỏ tư trang của anh ra khỏi va li. Còn tôi thì được nhiệm vụ ra
ga “đá” lại cho anh cái vé tàu Thống Nhất. Cầm tấm vé trên tay tôi chợt
hiểu. Mấy bữa trước cứ lấy làm lạ là vì sao anh Quân lại phải chịu khổ
sở thế không chịu đi máy bay.
Hôm sau,
trước giờ đoàn tàu Nam chuyến chiều tối chuyển bánh, tôi lần ra ga để
được nhìn thấy Thảo. Tôi tuyệt đối không mảy may hồ nghi gì chuyện đấy.
Chiều
xuân, mưa phùn, nhưng trong mưa vẫn gió bấc lùa hun hút. Trên sân ke
xám xịt, ướt át, lạnh lẽo đông nghịt hành khách và người đưa tiễn. Giữa
đông người như vậy mà tôi tìm ngay được Thảo, trông thấy Thảo ngay là
nhờ cái nhìn không lẫn vào đâu được của những anh đàn ông. Những cái
nhìn mà tôi đã quá quen, những cái nhìn của sự không thể nhịn được mỗi
khi người ta nhác thấy Thảo.
Còi tàu đã
rúc lên, Thảo vẫn dưới ke, trong mưa. Va-li trên ghế đá. Vẫn còn vài
hành khách tới trễ, tay xách nách mang hộc tốc đi mau qua cửa kiểm soát,
vội vội vàng vàng chạy qua màn mưa đã bắt đầu nặng hạt, chen lên toa.
Thảo nhìn họ, nhìn về phía cửa phòng chờ, nhìn những người tiễn đưa đang
dạt ra đứng tránh mưa dưới mái hiên. Chị nhìn cả tôi, vào tôi nữa. Tuy
nhiên, là một cái nhìn trống không, nhìn mà không thấy gì cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét