Thứ Bảy, 31 tháng 1, 2015

CÁI XÍCH ĐU KỲ QUÁI

Ầu ơ…Gió đưa bụi chuối…ờ…ơ…sau hè……Anh theo vợ bé…ờ…ơ…Ầu ơ…Anh theo vợ bé bỏ bè con ơ…ớ…thơ…ơ…ơ…!
 
Điệu hát ru cứ xoáy vào tâm trí tôi vào mỗi đêm trăng sáng. Nó làm tôi day dứt không yên trong những đêm khó ngủ. Xung quanh phòng tôi có rất nhiều cây, cứ vào mùa đông, rơi vào những đêm rằm thì sương giăng giăng. Đứng trong cửa sổ nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ ảo ảo, như khói tủa mùa đốt đồng. Chính những lúc như thế, tiếng hát ru lại dập dìu, phảng phất đâu đây. Lời ru ai oán, thê lương làm rệu rã cả lòng người.
 
Tính ra tôi ở đây đã được năm năm. Một thời gian đủ dài để hiểu từng tấc đất, ngọn cỏ, quanh ngôi nhà cổ. Nhà bà Tám có đến năm bậc chứ không phải là tam cấp, cất ba gian theo kiểu cổ xưa. Tôi nhớ khi còn ở thị xã với gia đình, những căn nhà kiểu này thường gọi là “nhà xưa” bởi trông nó xưa cũ và buồn ảm đạm.
 
Duyên số đẩy đưa tôi đến với căn nhà, bắt đầu từ lúc tốt nghiệp sư phạm. Ra trường, tôi nhận công tác tại vùng xa… Thế là biết nơi đây! Còn một lý do khiến một cô giáo trẻ như tôi gắn bó với “nhà xưa”, là dạy kèm thằng cháu nhỏ của bà chủ nhà. Thằng Tân vừa vào lớp bốn, tính hiếu động và thích chạy vòng quanh cái sân rộng lớn như sân bóng. Cây cối ở quê rất phong phú, nào: xoài, mít, đu đủ, mía…đều có cả. Vì vậy lúc vào hè, thời tiết oi ả, mới thấy giá trị đích thực của sự mát mẻ ở vùng đồng quê thanh vắng. Tất cả những việc này chung qui rất ưng ý, bởi tôi là mẫu người thích không gian và sự tĩnh lặng…
 
Lâu ngày nhẵn mặt là thế, mà tôi cố công tìm mãi vẫn không biết tiếng hát ru xuất phát từ đâu. Cứ mỗi dịp sáng trăng, nó lại cất lên ai oán. Có lúc tôi tưởng ở ngay cạnh nhà, lúc lại thấy nó dập dìu như xa xa vẳng đến. Quanh đây cũng có nhà ở, nhưng cách rất xa. Từ khoảng cách như thế mà tính, không thể nào lời ru bay đến đây được. Vả lại tôi đã tìm hiểu và biết những mái lá ấy không hề có trẻ nhỏ thì ru hát để làm gì…
 
Người già thường hay cưng cháu. Vì lẽ đó tôi được ở trong “nhà xưa” miễn phí, với một trách nhiệm phù hợp với bản thân là: “Dạy cho thằng Tân học hành mau tiến”. Ngoài giờ lên lớp và dạy thằng Tân, thời gian còn lại của tôi là ngồi bên chiếc bàn đặt cạnh khung cửa sổ. Soạn giáo án, viết thư nhà đều là đây. Và… nghe tiếng ru hời cũng từ đây.
 
Bà Tám đã ngoài bảy mươi. Con cháu đi làm xa, chỉ mỗi hai bà cháu và cô Hai phụ việc ăn uống, sống trong căn nhà rộng thênh thênh. Vì vậy khi tôi về đây cả nhà vui hẳn ra, ngay cả cô Hai thỉnh thoảng cũng cười khi thấy tôi đi dạy về - một điều hiếm thấy đối với thằng Tân hay quấy phá. Tranh thủ những lúc rỗi việc, tôi hay bắt chuyện với cô Hai. Biết đâu khi giao lưu với người đàn bà lớn tuổi này, tôi lại thỏa mãn tính tò mò của mình về những lời ru ma quái.
 
Thế nhưng mọi việc lại làm tôi thất vọng, cô Hai bao giờ cũng lắc đầu khi tôi đề cập đến lời ru. Sắc mặt người đàn bà trở nên tái đi khi nghe tôi nói đến điệu ru văng vẳng vào đêm trăng sáng. Về phần bà Tám thì cương quyết hơn. Bao giờ bà cũng gạt phăng những nghi vấn của tôi với một câu gọn lỏn: “Cô giáo mải việc nên mệt mỏi nghe lầm đó thôi. Tôi sống hơn bảy mươi năm trong căn nhà này, đâu có nghe ai hát hò gì bao giờ.”
 
Câu nói của bà Tám làm tôi bán tín bán nghi, nghĩ trong nhà có việc nên giấu không cho ai biết, nửa còn lại cho rằng mình lo nghĩ vẩn vơ sinh ra mộng tưởng. Nhưng…tôi là người được xếp vào loại có cá tính mạnh mẽ, gặp khó khăn ít chịu lùi bước, sao lại tự gây ảo giác về lời ru. Từ ngày đó tôi mãi băn khoăn với những nghi vấn trong lòng nhưng không có lời giải đáp. Sau cùng quá mỏi mệt, tôi gạt chúng qua một bên rồi quên bẵng.
 
Học kỳ cuối của năm, tôi tất bật với việc ôn luyện cho học sinh nên sức khỏe sút hẳn. Có hôm về thăm nhà, ai nấy đều quở: “Lúc này sao con nhỏ ốm ra”. Nhưng tôi không còn thời gian lo cho bản thân, vì “đàn em thân yêu” cứ đeo bám cô giáo suốt buổi.
 
Ngày tết Đoan Ngọ, phụ huynh học sinh thi nhau mời cô giáo đến nhà dùng bữa. Rồi hội hè nối tiếp nhau đến ngày rằm lúc nào cũng không hay. Tôi có thói quen hay đi lễ chùa vào những ngày rằm. Hôm đó, sau khi vào chùa Hang thắp nhang, về đến nhà tôi liền lăn quay ra ngủ lúc nào không hay. Nửa đêm, tai tôi chợt nghe thấy tiếng ru quen thuộc nổi lên văng vẳng…Lần này cũng một giai điệu, nhưng lời ru đã biến đổi:
 
“ Gió đưa cây cải về trời… Rau răm ở lại chịu đời đắng cay…” “ Má ơi đừng gả con xa… Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu…”
 
Đêm khuya thanh vắng, lời ru vang lên rất rõ không thể nhầm lẫn được. Có điều tiếng ru bị gió đu đưa, lúc xa lúc gần, nghe có lúc như mất hẳn, lúc lại nổi lên mồn một sát bên tai.
 
Tôi lắng nghe xung quanh. Cả nhà đều đã ngủ. Hôm nay tôi nhất định phải khám phá cho được cái bí mật chất chứa lâu nay. Đẩy khẽ cánh cửa phòng, tôi bước lên nhà trên không một tiếng động. Nhấc thanh cài và hé nhẹ cái cánh cửa cũ kỹ, tôi lách người bước ra bãi cỏ trước sân nhà. Ánh trăng lung linh soi tỏ mấy cây hoàng hậu và hàng râm bụt được cắt tỉa gọn ghẽ. Từ chỗ này tôi có thể quan sát phía bên kia sân vườn, nhưng lại không nhìn được cái cửa sổ phòng mình. Bởi nó đã bị ngăn cách bởi một hàng chuối xanh um, lá đung đưa trong ánh trăng vằng vặc. Tôi bước khoảng mươi bước về phía trái của sân vườn nhưng chợt đổi ý định. “Bên đó nhìn đã thấy, không nên phí sức”. Vừa quay người tôi chợt phát hiện cánh cửa sổ phòng bà Tám vừa có ai dùng tay khép lại. “ Ồ! Như vậy đâu phải chỉ có riêng tôi nghe thấy tiếng hát ru. Bà Tám cũng nghe, nhưng không muốn nhận đó thôi…”Ánh mắt tôi chợt dừng lại nhìn vào cái xích đu nằm dưới cửa sổ phòng bà Tám và phòng tôi. Cái xích đu đang động đậy như có ai dùng tay đẩy. Không! Không phải đẩy, mà như có ai đang ngồi trên đó chơi đùa thì phải…
 
Tôi không muốn tin vào mắt mình, nhưng không thể phủ nhận sự chuyển động của cái xích đu. Phía trên chiếc xích đu có một vùng sương mờ ảo như bóng người đang ngồi, đầu hơi cúi xuống vỗ về một đứa trẻ vậy. Tôi hơi chùn bước khi phát hiện điều này. Người cảm thấy gai gai trong nỗi sợ thoáng qua. Rồi khi nhớ đến lời nói của bà Tám hôm nào, tôi quyết tâm trong lòng: “Nếu không làm rõ sự thật thì chính tôi mới là người đang hoang tưởng”. Khi cách chiếc xích đu khoảng ba bước chân tôi chợt dừng lại. Nhìn chiếc xích đu bất động tôi thấy hoang mang. Không lẽ tôi đang tự kỷ ám thị về cái xích đu? Có khi nào vừa tỉnh cơn ngáy ngủ khiến tôi nhìn gà hóa cuốc! Chiếc xích đu nằm bất động, vùng sương trắng cũng không còn. Vậy lúc nãy tôi vừa thấy cái gì cơ chứ? Trong đầu tôi thoáng hiện ra ý nghĩ ma quái và bắt đầu sợ hãi…Nhưng lúc này sợ có ích gì? Bởi tôi đang đứng quá gần chiếc xích đu với ý nghĩ mới chui ra trong nỗi sợ sệt: “Đã sợ thì đừng đến. Đã đến rồi chạy cũng không kịp”. Và sự bình tĩnh vốn có ở tôi lại xuất hiện với dáng vẻ hùng dũng tạm bợ. Tay hơi run, tôi vịn vào hai sợi dây và bắt đầu ngồi lên cái xích đu…Trọng lượng cơ thể khiến chiếc xích đu chao đi rồi theo quán tính bắt đầu dao động.
 
Tôi nghĩ chiếc xích đu này họa hoằn chỉ có mỗi thằng Tân là hay ngồi. Bởi nơi đặt nó khuất sáng, xung quanh chỉ toàn cây lá nên ít ai lai vãng. Thế nhưng sự chuyển động của cái xích đu làm tôi kinh ngạc. Thay vì phải kêu cót két bởi lâu ngày ít ai sử dụng, nhưng ngược lại nó quay rất êm và không gây bất cứ tiếng động nào. Cơn sợ hãi lúc đầu vừa lắng xuống bỗng chợt bùng lên khi tôi có cảm giác ai đó vừa lắc đẩy chiếc xích đu. Lúc đầu cái lắc hơi nhè nhẹ, sau trở thành những cái dặt ngang mạnh mẽ như muốn hất tôi xuống đất. Hoảng sợ tôi định đứng lên thì trớn của nó đã đẩy tôi ngã lăn trên nền cỏ ẩm ướt. Cổ chân tôi đau điếng, khiến một chân phải bước lò cò đi tìm chiếc dép. Tôi đứng ngây người nhìn chiếc xích đu đầy vẻ sợ sệt xen lẫn ngạc nhiên. Trong đầu tôi hiện lên ý nghĩ về lời ru của một ai đó bên chiếc xích đu, trước lúc tôi mò đến phá bỉnh và…phải trả giá về sự tò mò của bản thân. Oan hồn ru con ư? Rõ ràng lời ru và chiếc xích đu có quan hệ với nhau, mặc dù lần đầu tiên tôi thấy nó chuyển động mà không có ai ngồi. Tiếng ru nhất định xuất phát từ đây! Và có nghĩa là, chiếc xích đu đã từng chuyển động mỗi khi lời ru cất lên. Điều đó chứng minh về những vòng quay êm ái khiến ai cũng phải ngạc nhiên khi ngồi lên nó, nhưng…không lâu.
 
Sáng hôm sau nhìn bước chân của tôi, cô Hai kinh ngạc hỏi:
 
- Chân cô giáo bị làm sao vậy?
 
Tôi nhìn cô Hai cười sượng sùng:
 
- Tôi ngồi xích đu, bất ý nên bị té trẹo chân ấy mà.
 
Không đợi tôi nói hết câu, cô Hai đã thảng thốt:
 
- Cô ngồi lên chiếc xích đu ư? Sao lại như thế…Ở nhà này ngoài thằng Tân ra, không ai…không ai…
 
- Không ai như thế nào hở cô Hai?
 
Lời cô Hai mang tính lảng tránh:
 
- Cô giáo không nên ra đấy làm gì… Cứ biết thế là đủ rồi!
 
Cuộc nói chuyện như vậy là kết thúc, để lại sự ấm ức trong tôi. Cái chân trở nên đau đớn đến nỗi tôi phải bó ngải cứu hết mấy hôm. Sau đó tôi ra chợ và mua về một cái lục lạc của trẻ nhỏ hay chơi. Cả nhà không ai biết gì, bởi tôi biết có nói ra cũng không ai đồng tình với sự ương bướng của mình. Trời vừa chạng vạng, tôi đem cái lục lạc treo dưới cái xích đu với lời tự thưởng về sự thông minh của bản thân. Bây giờ không cần phải làm gì, ngoài việc cắt bớt mấy tàu lá chuối che quanh khung cửa sổ. Sau đó là chờ đợi.
 
Ngồi trong phòng với tâm trạng thấp thỏm rất là bực bội, tôi với tay lấy mấy quyển sách trên kệ ra xem. Kệ sách này là “tài sản” của “nhà xưa”. Nó lam nham bụi đóng bởi ít ai đụng đến, mặc dù có đôi lần tôi dùng chổi quét qua quít. Lần theo từng gáy sách, tôi chợt chú ý đến một quyển sổ nho nhỏ, bìa đã ngả màu, nằm chen lẫn trong mớ sách hỗn độn. Lấy nó ra trước ánh đèn tôi lật qua loa vài trang và phát hiện đây là một quyển nhật ký có thâm niên đáng nể. Mấy trang đầu viết nhăng nhít những sự kiện đáng nhớ, nhưng năm tháng rất xa. Sau đó như tức giận điều gì nên chủ nhân của nó xé đi, cũng may trên giấy còn lưu một số chữ đủ để phán đoán đây là một quyển nhật ký. Dòng chữ theo thời gian đã mờ nhạt, tôi phải đưa lại gần ánh đèn mới đọc được lõm bõm mấy chữ: “Nhỏ bạn sinh con mà mình cứ nôn nao… Anh ấy đi, ở nhà vắng ngắt… Con thú nhồi bông xinh ơi là xinh… Mình thích hát ru lắm… Ầu ơ cho ai… Nước mắt chảy ướt cả gối… Chắc anh ấy chán mình rồi.
 
14.8.1981… Hôm nay Vu Lan trăng đẹp lạ thường… ”Sau nữa là những trang còn lành lặn, viết đầy những câu ca dao rất lý thú:
 
“Má ơi con má chính chuyên 
 
Ghe bầu đi nối một thiên cá mòi 
 
Không tin mở hộp ra coi 
 
Rau răm ở dưới cá mòi ở trên…” 
 
“Chiều chiều hái mướp nấu canh 
 
 Chạy ra xách chảo gặp anh trèo giàn 
 
Thôi thôi thiếp chẳng thương chàng 
 
Đôi bông thiếp trả đôi vàng thiếp xin…” 
 
 “Má ơi con vịt chết chìm 
 
Thò tay xuống vớt, cá lìm kìm nó cắn tay…” 
 
Kế bên những trang giấy đó, là một khoảng bỏ trống bị xé toạc, với dòng chữ thấp thoáng bên góc trái mà ý nghĩa có trời mới hiểu được. Tôi kiên nhẫn lật những trang tiếp theo và cuối cùng cũng thỏa nguyện. Có hai ba trang trong quyển nhật ký bị nhảy cóc do cảm hứng của “tác giả” nên may mắn còn nguyên vẹn. Thời gian ghi trên quyển nhật ký cách nhau cả tháng, khiến tôi phải suy nghĩ và diễn giải nhiều:
 
- “Ngày 8.9.1981. Hôm nay tính theo âm lịch là ngày 11 tháng 8, tiết bạch lộ, có sương. Tôi ngồi bên chiếc xích đu với những con búp bê nhồi bông rất dễ thương. Không biết mình chơi với những con thú bao lâu rồi? Chỉ biết đã thành thói quen khi anh ấy đi vắng. Tôi hiểu, khi người đàn bà không thể sinh con là một điều đau đớn nhất trong đời. Chồng dù thương, lâu ngày vẫn lạnh nhạt. Họ nhà chồng nhìn mình với ánh mắt thật khó tả. Có thể họ cho rằng, không sinh con là chuyện do mình gây ra, nên ánh mắt mọi người thật ghẻ lạnh. Sự khác biệt này chỉ có người trong cuộc mới hiểu, khi nhìn những đổi thay từng ngày trong mắt của người thân.
 
Nói ra ai cũng gật đầu cảm thông, nhưng thật giả tạo khi hiểu rằng, với cánh đàn ông việc có vợ mà không sinh con đã là bỏ đi. Ở nơi này người ta ủng hộ: “Không sinh con đâu phải tội của riêng mày”, nhưng nơi khác lại cho rằng: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại...” Chén trà tiệc rượu, lâu ngày ai mà chẳng dao động. Nỗi buồn đó đeo bám theo tôi với ước muốn mãnh liệt từ trong sâu kín: có một đứa trẻ để ru hời.
 
Càng lâu không có con, tôi càng yêu thích điệu hát ru. Những câu ca dao ngày thơ nhỏ, cảm nhận qua lời ru của mẹ, nay lại sống dậy với niềm tin cháy bỏng: Được hát ru cho đứa con riêng mình.
 
Nhưng đâu phải ở đời niềm ao ước nào cũng được thỏa nguyện! Nếu được như vậy không phải mọi người đều hóa thành tiên hay sao? Tôi thích một đứa con, nhưng đó vẫn là chuyện của riêng mình chứ không thể bắt mọi người ban phát cho được. Và khi con người không quán xuyến được chuyện cá nhân thì đừng trách ông xanh sao vô tình chẳng đoái hoài đến.
 
…Ngày buồn quạnh quẽ cứ trôi. Với những con thú bông chơi đùa thay cho niềm mơ ước. Anh ấy ngày một xa vắng hơn… Tôi biết, nếu không có được một đứa con thì sớm muộn sẽ mất anh. Mất anh bởi chính cái điều mà cả hai đều ao ước. Và cháy bỏng nhất vẫn là người cùng một lúc phải đối diện với hai khó khăn: giữ được chồng và thiên chức của người đàn bà…
 
Nếu một ngày nào đó tôi vẫn đơn độc bên cái xích đu, thì cũng không trách được khi anh đi khỏi một gia đình mãi mãi chỉ có “hai người”…Buồn sao là buồn…!”
 
- “21.1.1984. Tiết đại hàn rơi vào ngày 19 tháng 12 âm lịch, năm Quý Hợi. Chỉ còn mười hai ngày là Nguyên Đán. Thời tiết lạnh quá mà tôi vẫn ngồi bên chiếc xích đu với những con thú tẻ nhạt. Bây giờ chỉ còn tôi trong những đêm se lạnh, ốm o, gầy guộc, với chứng suy nhược cơ thể và căn bệnh tim kéo dài bấy lâu. Tôi biết mình sẽ chết với giấc mơ chưa thành hình, nhưng vẫn ra ngồi bên chiếc xích đu để ru bài hát của ngày nào. Tay tôi vuốt ve lên con thú nhồi bông với sự dịu dàng của người mẹ. Nước mắt đã chảy xuống trong tiếng nấc nghẹn ngào. Tôi không biết nên trách người hay trách số phận, khi cuộc đời nhỏ nhoi muốn đánh đổi tất cả để một lần được làm mẹ… nhưng… mãi mãi cách xa… Còn lại tất cả là điệu ru ai oán được lưu truyền, nhưng đến tôi đã gián đoạn.
 
Ầu ơ…Gió đưa bụi chuối…ờ…ơ…sau hè…Anh theo vợ bé…ờ…ơ…Ầu ơ…Anh theo vợ bé bỏ bè con ơ…ớ…thơ…ơ…ơ…! 
 
Dù sao đi nữa tôi vẫn muốn được làm mẹ. Cho dù… phải tái hiện ở kiếp sau… Như thế tôi cần phải tập hát ru. Hát cho thật hay để sau này đứa con ra đời sẽ nghe chính lời ru của mẹ nó. Trong tiếng kẽo kẹt của võng nôi, không thể thiếu lời hát ru. Con người có thể truyền nòi giống thì lời ru không thể mất đi cho những người như tôi được…”
 
…Đọc đến đây tôi chợt nghe tiếng lục lạc khua khe khẽ dưới khung cửa sổ. Bước đến gần tôi nhìn thấy cái bóng lờ mờ trong làn sương trắng, đang đung đưa trên cái xích đu. Từ nơi ấy vang lên những lời ru quen thuộc, nhưng nó không còn làm cho tôi kinh sợ như buổi đầu nghe thấy nữa. Bây giờ tôi hiểu ai đã hát ru, khi đôi lần bà Tám hay than phiền về người con gái lớn bất hạnh của mình. Cô Hạnh mất cách đây đã mấy mươi năm. Lúc còn sống, người quanh đây đều khen đức hạnh và tình yêu trẻ của cô. Điều này giải thích vì sao chỉ có bé Tân là ngồi lên được cái xích đu. Trong khi tôi lại bị trẹo chân. Nhìn trang nhật ký khiến tôi chạnh lòng. Con người có thể đánh mất nhiều thứ từ những toan tính mưu sinh, nhưng cái không thể đánh mất là thiên bẩm. Không riêng về việc duy trì nòi giống và phong tục tập quán, những đức tính sẵn có khác như: nhân hậu, trung tín, thủy chung v.v… nếu mất đi thì buồn thật…Và nếu như không ai than phiền về điều đó thì điệu ru bên chiếc xích đu thật đáng sợ biết bao.
 
Riêng tôi lại thấy rằng, từ đây nếu lời ru có vô tình bay vào tai trong những đêm khó ngủ, thì thật hạnh phúc. Bởi ý đồ chính của người ru vẫn là tìm đến một giấc ngủ say, cho một tâm hồn thơ dại và hồn nhiên…

Thứ Sáu, 30 tháng 1, 2015

NGỰC NHỎ CÓ LỢI CHO SỨC KHỎE

Rất nhiều phụ nữ tự ti vì bộ ngực nhỏ của mình, tuy nhiên họ lại không biết rằng đây là lợi thế hơn những người sở hữu vòng một "khủng".

1. Dễ đạt khoái cảm


Theo Womenshealth, người ngực to cần kích thích lâu hơn và khó đạt khoái cảm hơn là người ngực nhỏ do người ngực to có nhiều mô mỡ hơn người ngực nhỏ, nên khiến dây thần kinh cảm giác nằm sâu nên khó đạt khoái cảm hơn người ngực nhỏ.


2. Giúp bạn trẻ lâu hơn


Người ngực to sẽ nhanh bị xệ ngực khi tuổi càng cao vì vậy người ta cũng có thể dựa vào ngực để đoán tuổi. Tuy nhiên, người ngực nhỏ sẽ khiến ngực lâu chảy xệ vì vậy mà giữ dáng đẹp và lâu hơn, trẻ lâu hơn người ngực to.

Sở hữu ngực nhỏ giúp bạn lựa chọn trang phục, đặc biệt là áo ngực dễ dàng hơn. Ảnh minh họa.

3. Giảm đau lưng


Lợi thế của những cô nàng ngực nhỏ là sẽ không bao giờ phải chịu đựng cơn đau lưng như phụ nữ ngực to.

Sở hữu bộ ngực to sẽ khiến cơ thể phải chịu lực nặng lớn phía trước để nâng đỡ, dây nịt ngực sẽ thít chặt phần lưng và vai khiến da bạn sau mỗi khi mặc xong sẽ để lại trên da những vết hằn đau.


4. Tránh chảy xệ


Một nghiên cứu của Pháp cho thấy mặc áo ngực có thể khiến ngực bị chảy xệ. Hơn nữa, phụ nữ trong quá trình mang thai sẽ có bộ ngực phát triển to hơn bình thường.

Bởi vậy, người có ngực to khi mang thai sẽ khiến ngực bị chảy xệ, to quá khổ và sau sinh sẽ bị xệ hơn người ngực nhỏ.


5. Hoạt động thoải mái


Những cô nàng ngực to sẽ khiến việc hoạt động gây khó khăn khi hoạt động thể thao, chạy nhảy khiến vòng một bị rung chuyển mạnh, còn những cô nàng ngực nhỏ và vừa có thể hoạt động thoải mái mà tránh được những cái nhìn khiếm nhã của phái mày râu.


Những cô nàng ngực to sẽ khó hoạt động thể dục, vui chơi, chạy nhảy hơn vì vòng một bị rung lắc mạnh. Ảnh minh họa.


6. Có lợi cho sức khỏe


Núi đôi nhỏ không táo áp lực cho các dây thần kinh khi bị kéo căng để chịu trọng lực tà đôi gò bồng đảo to lớn khiến vùng cổ và đầu thường xuyên bị đâu nhức. Hơn nữa, ngực nhỏ cũng giúp bạn ngăn ngừa và phát hiện căn bệnh ung thư vú dễ dàng hơn.

NHÓM ĐẠO WYANG (16)

CHƯƠNG 16

Dù Konda đã ra tay thật nhanh, Bogan đã được chuẩn bị tinh thần trước, ông ngay lập tức rút ra những kết luận đúng đắn.

Trước khi bóng đen vác liềm đánh tới, ông già đã né sang bên. Lưỡi liềm đen vút vào khoảng không, con rối xoay theo.
Lúc đó, Bogan thò tay xuống túi áo trái. Bằng một cử chỉ duy nhất, ông rút con búp bê ra, giơ cao. Cho tới nay, ông vẫn giấu nó. Giờ thì ông có thể cho gã em trai thấy ông không phải vô phương tự vệ như hắn tưởng.

NHÓM ĐẠO WYANG (15)

CHƯƠNG 15

Người Kéo là một nỗi nguy hiểm chết chóc! Suko biết rõ điều đó, anh vào cuộc bằng toàn bộ sức lực và kinh nghiệm, giữ cẩn trọng tối đa.

Trước khi Người Kéo kịp nhào xuống một bóng người đang khum lại trong một góc phòng, Suko đã lao tới bên nó và rút ra cây roi trừ quỷ. Ba làn roi được làm từ da vị thần Nyrana hùng mạnh. Nó đã không ít lần hủy diệt “Pháp Thuật Đen” và Suko hy vọng cả lần này, món vũ khí cũng sẽ chẳng bỏ rơi anh.Anh quất tới. Có lẽ hơi quá vội vàng. Ba làn roi không đập trúng đầu Người Kéo như ý Suko, trúng lệch sang bên một chút, đập vào phần thân trái của hình rối sống. Nhưng chỉ như vậy cũng là đủ rồi.

NHÓM ĐẠO WYANG (14)

CHƯƠNG 14

Hai chúng tôi nhảy vào căn hộ, nhưng cảnh giác tối đa. Vừa nhảy, chúng tôi vừa rút súng. Hai nòng Beretta chỉ lên trần. Chỉ một nửa nháy mắt là đủ cho chúng tôi hạ súng, ngắm và nhả đạn.

Suko lao sang hướng phải, tôi sang trái. Cả hai chúng tôi đều khom người xuống, chúc chĩa vào phòng.

Đó là một căn phòng lớn. Bình thường phải là nơi sinh sống cho cả gia đình, nhưng bây giờ nó là địa điểm của nỗi sợ, bởi hai người đàn ông đang ở trong mối nguy hiểm chết người. Họ đang bị hai cái bóng tấn công.

NHÓM ĐẠO WYANG (13)

CHƯƠNG 13

Khi đứng trước cánh cửa dẫn xuống tầng hầm, Bogan Kulani có cảm giác ông sắp mở nắp một chiếc quan tài khổng lồ để rồi sẽ tự nguyện chui vào đó. Người đàn ông thấy mình thật khác lạ, như vừa uống cả một bình acid. Dạ dày ông cháy như lửa, co kéo cơ thể. Mồ hôi đã thấm đẫm ông từ đầu xuống chân, và nó vẫn tiếp tục tuôn ra từ tất cả các lỗ chân lông.

Bàn tay phải ông cầm chặt con búp bê Voodoo. Pháp thuật chống lại pháp thuật. Ai sẽ chiến thắng?
 
Ông đã được sống yên tĩnh nhiều năm qua ở xứ người. Ông đã đoạn tuyệt với cuộc sống trên đảo Java. Vậy mà mọi nỗi kinh hoàng bây giờ lại quay trở lại, đổ xuống gia đình ông.

NHÓM ĐẠO WYANG (12)

CHƯƠNG 12

Cái tên gọi chẳng sai chút nào. - Suko nói khi tôi dừng xe lại.

- Cậu muốn nói gì kia?
 
- Chẳng phải người ta gọi kiểu chung cư này là Nhà Mồ sao?
 
- Ừ, đúng. Cậu có lý. - Tôi ngồi trên ghế, cúi người xuống và nhìn qua tay lái ra phía trước. Trước mặt tôi là một mảng tường rất rộng với những lỗ hổng hình chữ nhật giống hệt nhau, gây ấn tượng như những bộ đồng phục xám ngắt.
 
Sự hiện diện của chúng tôi đã bị phát hiện, Một bầy trẻ tiến lại gần chiếc Rover. Chúng đi không nhanh, vừa đi vừa chần chừ, như thể còn phải đánh hơi hai chúng tôi trước đã. Chẳng mấy khi có người lạ lạc vào thế giới này.

NHÓM ĐẠO WYANG (11)

CHƯƠNG 11

Họ đã đục đi hai khoảng tường ngăn trong căn hộ, tạo nên một căn phòng tương đối lớn, không gian sinh hoạt chung của cả gia đình. Đây là nơi người ta sinh sống, là nơi chuyện trò với nhau, là một khúc quê hương ngay giữa lòng thành phố London. Kể cả đồ đạc ở đây cũng giống kiểu đồ đạc quê nhà. Người ta ngồi trên chiếu, ăn bằng những cái bàn nhỏ và thấp, đồ ăn được nấu ngay trên bếp gas nằm trong một góc phòng. Quanh bếp treo lủng lẳng những nồi niêu xoong chảo.

Những khuôn cửa sổ trong căn phòng rộng này được giữ nguyên. Chúng rất nhỏ. Cả khi mặt trời ngoài kia rất sáng, trong phòng vẫn lờ mờ tối. Thêm vào đó là những tấm rèm cửa được kéo kín. Nguồn ánh sáng trong phòng bây giờ là dãy nến đứng trên một bàn thờ nhỏ, treo ảnh một vị thần. Một vị Phật đang ngồi giạng chân, miệng mỉm cười không ngơi.

NHÓM ĐẠO WYANG (10)

CHƯƠNG 10

Nó đã đập trúng gã thanh niên thấp lùn. Cơ thể gã vắt ngang tay vịn cầu thang, đầu ngả ra phía ngoài và máu đang phun ra khỏi một vết thương ngang cổ như nước phun ra từ vòi dẫn.

Bạn hắn đứng sát tường, mặt nhợt như vôi, toàn thân cứng đờ. Kẻ giết người chắc đã bất ngờ nhô ra như một bóng đen, lướt vụt qua và chém gã thấp lùn bị thương nặng.
 
Nhưng hắn đâu rồi?
 
Tôi đẩy Suko tiến qua ngưỡng cửa, quay sang trái và nhìn thấy một vệt đen đang nhảy nhót trên tường nhà. Thoạt đầu, tôi tưởng đó là ánh nắng bị hắt lại từ một vật thế đang chuyển động.
 
Nó là một cái bóng, và nó có một hình dạng đặc biệt. Một hình người với hai cánh tay tới khuỷu. Từ đó trở xuống là hai cái kéo.

NHÓM ĐẠO WYANG (9)

CHƯƠNG 9

Không một ai muốn tin, nhưng đó là một sự thật. London cũng có những khu Getto riêng của nó.

Thành phố rộng khổng lồ này đang oằn lưng dưới gánh nặng quá khứ, bởi đế quốc phải trả nợ cho những tội lỗi thực dân mà nó đã phạm phải.
 
London có tất cả các màu da. Trong khi những di dân da đen hội nhập khá tốt thì những người da vàng lại gặp không ít khó khăn. Đa số người châu Á cũng chẳng muốn hòa mình vào xã hội, họ thích sống riêng với nhau, và các Getto đua nhau xuất hiện.

NHÓM ĐẠO WYANG (8)

CHƯƠNG 8

Hồi ức về gã đàn ông khiến Bogan run rẩy toàn thân. Bao nhiêu năm nay ông không nghe tin về hắn. Hắn đã biến khỏi gia đình, như thể chưa bao giờ tồn tại. Từ khi còn rất trẻ, hắn đã chọn đi một con đường khác với tất cả những người trong gia tộc Kulani. Càng ngày hắn càng xa rời họ hơn, càng ngày hắn càng dấn sâu hơn vào con đường của bóng tối, bởi hắn tin rằng chỉ có nó mới có thể mang lại cho hắn quyền lực.

Hắn đã tụt sâu. Tụt xuống thật sâu vực thẳm của địa ngục. Thế giới đen đón nhận hắn, cuốn hắn vào những nếp gấp rùng rợn của hắn để rồi lại nhổ hắn ra. Bây giờ, hắn đã trở lại, mang theo cái chết và sự hủy diệt.
 
Bogan Kulani chầm chậm quay người lại. Khuôn mặt ông đã ngả màu xám ra nứt nẻ như khuôn mặt búp bê mà ông vừa vẽ. Ánh mắt trống rỗng mặc dù con ngươi ẩm ướt. Nước mắt tràn qua mi, lăn theo hai bên má, xuống cằm.Khi nhấc chân lên đê bước đi, Bogan mới thấy nó run tới mức nào.

NHÓM ĐẠO WYANG (7)

CHƯƠNG 7

Nó là hiện thân của sự tàn khốc tột cùng. Người Kéo cũng có tay, nhưng từ khuỷu trở xuống, tay của nó biến thành kéo. Hai lưỡi kéo được mài sáng loáng, chỉ cần một cú cắt là đủ để tách rời đầu người khỏi cổ.

Có phải con trai ông đã chết bằng cách đó? Có phải con trai ông cũng đã nhìn thấy Người Kéo và chịu kết cục tàn khốc?

Cổ họng Bogan khô khốc. Vị mật đắng dâng lên. Bản năng giục Bogan chạy trốn, nhưng ông không làm được. Ông không thể rời ánh mắt khỏi tấm rèm kia, nơi bóng đen đang biểu diễn một điệu nhảy kỳ quái, đôi bàn tay giết người khua vung thật nhanh.

NHÓM ĐẠO WYANG (6)

CHƯƠNG 6

Đôi bàn tay như hai bụi cây già cỗi của ông giơ ra, kéo hai cánh rèm thật kín. Giờ thì chẳng ai có thể nhìn qua lần cửa kính vào trong này.

Giữ bí mật là tối quan trọng, bởi việc ông sắp thực hiện đây chỉ dính dáng tới một mình ông. Phải, chính ông, con người già cả nhất, con người khôn ngoan nhất, người cho tới nay luôn biết quyết định và thực thi mọi chuyện.
 
Trong phòng không chỉ tối, mà còn ngột ngạt. Nó ngập trong mùi thuốc lá và gia vị. Một bầu không khí lạ kỳ, bí hiểm, khôn ngoan, như thể đã được tiêm đầy kiến thức về những gì sắp tới.
 
Người đàn ông già nua biết rõ từng việc. Ông đi ngang qua căn phòng, rồi ngồi xuống chiếc ghế tựa. Ông gác cả hai tay lên hai tay ghế, thở thành tiếng. Vừa thở, ông vừa quay đầu nhìn vào tấm gương treo trên tường. Nó được treo ở đây để đuổi hắt ma quỷ ra ngoài, nhưng nó đã không đủ mạnh. Con quỷ đã tới đây, đã không bị tấm gương hù dọa như lời truyền từ thời xưa để lại.
 
Ông già nhìn thấy mình trong gương.

NHÓM ĐẠO WYANG (5)

CHƯƠNG 5

Tôi đang cùng vợ chồng Conolly ngồi tiếp một vị khách từ New York thì có tiếng “bíp” phát ra từ người Bill.

Bốn người chúng tôi đều nghe thấy âm thanh đó, nhưng chỉ riêng Sheila nhăn mặt. Chị không thích chồng mang điện thoại di động tối ngày. Bill muốn năng động như mọi nhà báo khác. Anh quyết tâm theo mode, bất chấp mọi lời cằn nhằn của Sheila. Anh rút điện thoại ra khỏi túi quần.
 
- A, Suko đó hả. Nhớ bọn mình quá phải không?
 
Suko ở đầu dây bên kia chắc gọi tôi.
 
- Đúng là John đang ở đây. Cậu nói chuyện với cậu ấy này!

NHÓM ĐẠO WYANG (4)

CHƯƠNG 4

Fahran Kulani không biết cái gì đã khiến anh thức dậy. Một tiếng động nào đó hay chỉ là cảm giác bất an. Anh không rõ, chỉ cảm thấy mình như đang bị trói vào một đống bùn. Thật khủng khiếp, lực ấn đè lên toàn thân anh lúc này chỉ có thể so sánh với một cơn ác mộng kinh hoàng.

Anh nghe hơi thở mình hào hển, khàn khàn.Anh vẫn nằm nghiêng, cổ đau nhói lên, nhưng bây giờ nó giống như một lực kéo ép anh nằm yên. Mồ hôi phủ đẫm toàn cơ thể và dính dính đặc biệt trên mặt. Fahran đưa lưỡi liếm quanh môi và nhận ra vị mặn. Thêm vào đó, anh còn thấy buồn nôn.
 
Anh đã uống quá nhiều. Chất cồn khuấy đảo trong dạ dày anh, muốn đưa tất cả lên trên.Không khí trong phòng thật ngột ngạt.Mùi mồ hôi trộn lẫn hơi rượu tỏa khắp phòng. Fahran ngửi thấy hỗn hợp đó, nhưng anh không phiền lòng, nó không khiến anh sợ hãi. Nỗi sợ hãi của anh nằm ở chỗ khác.

NHÓM ĐẠO WYANG (3)

CHƯƠNG 3

Fahran Kulani cảm thấy nó thân hình cô gái đang nóng lên trong vòng tay ôm của anh. Chàng thanh niên chắc chắn cô sẽ không từ chối lời đề nghị anh.

Cô gái rên rỉ khe khẽ. Fahran Kulani siết chặt tay hơn.
 
- Em đã bao giờ làm tình với một người châu Á chưa? - Anh thì thào vào tai cô.
 
- Chưa.
 
- Em có muốn không?
 
Cô gái cười lảnh lót.
 
- Xem đã...
 
- Ngay lập tức?

NHÓM ĐẠO WYANG (2)

CHƯƠNG 2

Thật ghê tởm, cả người tôi bây giờ bốc mùi máu. Thanh tra Tanner đang đi cạnh tôi cũng im lặng. Một dấu hiệu cho thấy tình hình chẳng bình thường.

Thật ra đây không phải một vụ điều tra chính thức. Chính Tanner đã mời tôi đi cùng anh trong tư cách bạn bè. Một đồng nghiệp trẻ tuổi đang gặp bế tắc trong việc điều tra một vụ án đã tìm đến anh, nhờ giúp đỡ.
 
Tanner đã đến hiện trường. Anh gọi điện cho tôi và nói rằng tội phạm ở đây nhìn như thế có mang màu sắc nghi lễ.
 
Tanner và tôi là một đôi bạn cũ, đã nhiều lần cộng tác điều tra. Tôi thật khó mà từ chối lời đề nghị của anh. Tanner cũng không quên cảnh báo tôi phải chuẩn bị tinh thần.
 
Có một người chết. Người chăn cừu chủ nhân của trang trại đã bị giết. Các chuyên gia xác định anh bỏ mạng vì cú chém bằng một miếng thép lớn và rất sắc, một lưỡi kiếm hay một con dao quắm.
 
Chúng tôi đậu xe bên cạnh trang trại. Đợt khám nghiệm hiện trường đầu tiên đã kết thúc. Trong cả khu vực hiện chỉ có Tanner và tôi.
 
Như cả mấy thập kỷ qua, chánh thanh tra Tanner hôm nay cũng lại đội mũ phớt. Cái mũ như đã dính chặt vào dáng người anh. Hai làn môi anh ngậm một điếu xì gà lạnh, chỉ còn một nửa chiều dài nguyên thủy. Nó chuyển động theo mỗi bước chân đi, chĩa ra phía trước như một ngón tay màu nâu, hăm dọa.
 
Tanner đút hai tay vào áo khoác. Dưới áo khoác là bộ complé xám như thường ngày, một chiếc cà vạt rộng bản đã trải qua không ít cuộc vật đổi sao dời, dĩ nhiên cả làn áo veston cũng không thể thiếu.
 
Mùi máu thật trầm trọng. Nó thổi về hướng tôi như một đám mây vô tận, như thế ngọn gió đang chú tâm chọc cho tôi nổi giận. Dù đã kiểm tra rất kỹ lưỡng, các chuyên gia của Ban trọng án vẫn không tìm được một dấu vết nào đáng kể. Chỉ duy nhất một vài dấu chân người.
 
- Tôi đã cố tình không cho chuyển chúng đi. - Tanner giải thích rồi hắng giọng vài lần.
 
- Cái gì kia?
 
- Xác súc vật bị giết.
 
- Xin lỗi, tôi đang mải nghĩ chuyện khác.
 
- Chưa xử lý xong vụ vừa qua hả?
 
- Cũng gần gần như vậy. Bọn chúng tôi đã bị thua một vố. Địa ngục và tay Satan đã giở trò độc địa và xỏ mũi được chúng tôi.
 
Tanner lắc đầu.
 
- Chẳng biết đến bao giờ thì cậu thắng được quỷ sứ đây?
 
- Tôi thật không biết.
 
- Nhưng cậu biết hắn rất rõ mà.
 
- Không đâu, Tanner. Chẳng một ai biết rõ quỷ Satan. Nó vừa là tất cả vừa không là gì hết. Mỗi lần nó hiện hình thành con vật có sừng, đó là chẳng qua nó muốn làm vừa lòng loài người, vì chúng ta vốn quen hình dung ra nó như vậy. Nó cũng có thể là một con rắn, một con thỏ, một người đàn bà sang trọng, một người đàn ông đẹp đẽ, ai mà biết được...
 
- Vậy là nó ở khắp mọi nơi.
 
- Gần gần thế. Nó bắt chước mọi thứ ở mọi ngóc ngách xó xỉnh và thỉnh thoảng, nó ra bộ tử tế với con người bằng cách hiện thành những hình dáng mà họ muốn thấy.
 
- May mà đó là chuyện của các cậu. Tôi chỉ phải vật lộn với những kẻ sát nhân mình trần mắt thịt. Nhưng trong vụ này, quả thật tôi không được chắc chắn cho lắm. Bởi chẳng có người bình thường nào lại đi vào chuồng súc vật mà giết cừu và dê. Tôi chẳng quen ai kỳ quái thế.
 
- Chờ xem sao.
 
Chúng tôi đã đi qua bãi cỏ. Khoảng đất sát chuồng không còn cỏ mọc nữa. Đất lộ ra màu nâu, dày đặc vết chân người và thú.
 
Tôi dừng lại vì chợt phát hiện ra những vệt đen trên mặt đất. Tanner khẽ gật đầu.
 
- Đó là máu khô. Đoạn mở đầu cho những gì mà cậu sẽ nhìn thấy ngay thôi.
 
Cánh cửa chuồng đã được đóng lại và niêm phong. Trong khi Tanner xé dấu niêm phong, tôi đưa mắt nhìn quanh. Tia nhìn của tôi lướt qua bãi cỏ, quay về con phố với hai hàng dương đứng viền hai bên, đều tăm tắp như hai đội lính chì. Ở phía xa kia, lấp ló qua những tán lá là những mái nhà đang óng ánh dưới nắng tháng tư.
 
Đó là một ngày xuân đẹp tuyệt vời. Thời tiết xấu đã lui bước, cả lớp mây xám cũng đi theo. Bầu trời chỉ ra một màu xanh ngăn ngắt với lác đác vài nhóm mây trắng nõn như bông.
 
- Cậu vào đi, John.
 
Tanner đã kéo cửa ra, tôi bước vào khoảng tối hình chữ nhật.
 
Nếu suốt cả thời gian qua tôi đã phải chống chọi với mùi máu ghê tởm thì bây giờ, cái mùi tra tấn đó còn nồng sộc lên gâp bội khi tôi bước qua ngưỡng cửa, vào trung tâm hiện trường.
 
Mùi máu nằm như một đám mây vô hình trĩu nặng, dính là là trên nỗi kinh hoàng đang bày ra trên mặt đất.
 
Đúng nó là hiện thân của cái Ác, của nỗi kinh hoàng.
 
Tôi không biết có bao nhiêu cừu và dê đã bị tên sát nhân giết chết, nhưng chắc chắn phải trên một tá. Những con thú còn sống đã được đưa đi nơi khác. Trong chuồng giờ chỉ còn xác thú.
 
Nhưng đó không phải là những cái xác bình thường. Thủ phạm đã ra tay có hệ thông. Xác súc vật nào cũng được hắn lột da bằng một bàn tay thạo nghề.
 
Tôi đứng đó, không nói gì. Tanner đến đứng cạnh tôi.
 
- Cậu có nhìn kỹ từng con thú thì cũng vậy thôi, John. Con nào cũng giống con nào.
 
- Bị lột xác.
 
- Chính thế.
 
Đám xác thú đang bóng lộn lên. Ruồi nhặng đã đánh hơi thấy và đang kéo về từng đàn từng lũ, vừa kêu vù vù vừa lượn quanh những đông thịt đang ánh màu đỏ tím. Một bức tranh ghê tởm!
 
Đã có một kẻ điên khùng mất trí, một tên bạo dâm đến hoành hành nơi đây. Nhưng hắn đã làm việc rất có hệ thống. Hắn không chỉ giết, mà còn lột xác kỹ từng con vật. Mà chắc chắn hắn làm việc đó chẳng phải chỉ để cho vui.
 
- Cậu muốn xem thêm không? - Tanner hỏi.
 
Tôi nhún vai.
 
- Đâu có được gì? Nhìn ở đây cũng đã đủ rồi.
 
Tanner để tôi yên vài phút và đứng chờ bên cửa. Rồi anh lên tiếng.
 
- Dĩ nhiên chúng tôi đã điều tra hoàn cảnh sống của người chăn cừu. Anh ta sống ở đây một mình. Một bà chị của anh ta sống gần Windsor. Chúng tôi đã gặp bà ta, nhưng bà ta nói hầu như chẳng còn quan hệ gì với em trai. Ho đã không gặp nhau trên ba năm nay. Anh Carpenter này cũng chẳng có con cái.
 
- Trông không hay chút nào. - Tôi nói.
 
- Đúng thế! - Anh mỉm cười với tôi - Lúc điều tra xong và chẳng thu được kết quả nào, tôi đã nghĩ hay là gọi điện cho anh bạn già John Singlair, có lẽ cậu ta có sáng kiến chăng.
 
- Làm sao mà tôi có sáng kiến được?
 
Khuôn mặt vốn đầy nếp nhăn của Tanner bây giờ càng nhăn nhúm nữa.
 
- John, tôi đâu có chờ cậu đưa ra giải pháp. Nhưng tôi nghĩ là có thể cậu đã trải qua một vụ án tương tự, bởi vì mọi việc ở đây tôi thấy đều bốc lên mùi một vụ án theo nghi lễ. Hay tôi nhầm?
 
- Có lẽ.
 
Tanner gầm gừ.
 
- Hôm nay cậu lắm lời ghê!
 
- Tôi biết nói gì bây giờ? Tôi cũng đang đứng trước một câu đố khó và đâu có phải siêu nhân.
 
Chánh thanh tra nhìn lên trời và nói khẽ, với bản thân anh hơn là với tôi.
 
- Hay có nhóm đạo nào giật dây vụ này?
 
- Sao anh lại nghĩ thế?
 
- Có những nhóm đạo rất điên khùng. Tôi có thể tưởng tượng chuyện có đứa thích khoác lông thú mà nhảy múa quanh một bàn thờ kỳ quái, thờ một thần tượng nào đó. Có thể đó là một động cơ chăng?
 
- Có thể.
 
- Nhưng cậu không muốn nhảy lên con tàu này đúng không?
 
- Đúng, Tanner, tôi không muốn. Tôi chẳng biết một thông tin nào cả. Điều chắc chắn duy nhất chỉ là đã có một người bị giết và cả một loạt súc vật bị giết rồi bị lột da.
 
- Đừng quên con chó của người chăn cừu!
 
- Nhưng nó đâu có bị lột da.
 
- Đúng. Chính vì thế mà tôi cho rằng thủ phạm chỉ muốn có da cừu và da dê. Mọi chuyện khác đều không quan trọng. Hắn chỉ quan tâm đến hai loại súc vật này. Và tôi rất muốn tìm ra động cơ, cậu hiểu chứ?
 
- Dĩ nhiên, tôi cũng sẽ rất quan tâm.
 
Tanner nheo mắt trái nhìn tôi.
 
- Vậy mà cậu vẫn không muốn lên tàu, John?
 
- Không.
 
- Đáng tiếc.Tôi đặt một bàn tay lên vai anh.
 
- Đừng giận, Tanner, nhưng đây thật không phải vụ của tôi.
 
- Nó có thể trở thành một vụ của cậu.
 
- Ai nói với anh thế?
 
Tanner gõ tay lên ngực.
 
- Đây, John, cảm giác của tôi. Nó nói rất rõ ràng là trong vụ này còn nhiều điều bí ẩn hơn là ta tưởng.
 
- Còn gì nữa?
 
- Không biết. Tôi sẽ khuyên anh bạn phụ trách vụ này bắt tay khám nghiệm lại từ đầu, không chừa một chi tiết nào.
 
- Không đến nỗi tồi.
 
- Có điều chắc chắn sẽ không có kết quả.
 
Tôi nhún vai.
 
- Nếu có tin gì mới, Tanner, làm ơn cho tôi biết nhé?
 
- Thôi được. Tôi hiểu rồi. Cậu muốn quay về cái văn phòng đẹp tuyệt vời của cậu.
 
- Vâng, đúng thế! - Tôi gật đầu hối hả - Tôi nhớ bốn bức tường ngột ngạt đó muốn chết đây.
 
- Đi, tôi đưa cậu quay trở lại.
 
Trước khi đi, tôi quay nhìn căn chuồng một lần nữa. Nó đã trở thành một hiện trường khủng khiếp, thành một địa điểm của tội phạm, bởi người ta có thể phạm tội với cả súc vật.
 
Mùi máu còn bám chặt lấy khoang miệng. Tôi châm cho mình một điếu thuốc lá, nhưng nó không xua đuổi được mùi máu. Chỉ sau ba hơi thuốc, tôi đã quẳng nó ra xa.
 
Chúng tôi đi về bằng xe của Tanner. Trên đường về tới tòa nhà của Scotland Yard, hai chúng tôi kiểm lại một số lý thuyết và khả năng nhưng không tìm ra lời giải.
 
- Ít nhất thì cũng giữ vụ này lại trong đầu. - Chánh thanh tra yêu cầu khi đưa tay cho tôi bắt.
 
Tôi búng tay vào vành mũ anh.
 
- Đừng lo, tôi sẽ nhớ. Và tôi chờ anh gọi điện lại.
 
- Để báo lời giải hả?
 
- Dĩ nhiên rồi. Hiện chúng tôi đang bận quá.
 
Tanner giơ ngón tay trỏ đe dọa.
 
- Đứng quên linh cảm của tôi, John. Đừng quên đấy!
 
- Tôi sẽ nằm mơ thấy nó.
 
- Thế thì tốt.
 
Tôi đóng cửa xe lại và biến về hướng cổng vào tòa nhà của Scotland Yard.
 
Văn phòng của chúng tôi cũng đã đón xuân về, chẳng phải qua khuôn cửa sổ, mà qua cô nàng Glenda Perkins hôm nay ăn bận thật tươi tắn. Không phải váy dài trang nghiêm, mà là một chiếc quần lửng ngang bụng chân rộng thùng thình. Vải màu đen lốm đốm những chấm tròn vàng. Chiếc áo thun bên trên cũng màu đen. Làn áo khoác mỏng nhẹ dài tới ngang lưng lại vàng màu vàng sáng của những chấm tròn.
 
- Đẹp lắm! - Tôi nói và được thưởng cho một cái nhăn mũi, như thể Glenda phát ngán lên khi phải nhìn thấy tôi.
 
- Em sao thế? - Tôi hỏi.
 
- Nhiều sao lắm!
 
- Chuyện gì vậy?
 
Cô gái đánh hơi.
 
- Anh thối quá, John Singlair. Em phải nói thật, anh bốc mùi thối rùng rợn.
 
Tôi nhăn mặt.
 
- Này, người ta chào nhau như vậy đó hả? Em thật không biết ngượng.
 
- Nhưng mà Glenda nói đúng đấy! - Suko lên tiếng từ khuôn cửa vào phòng làm việc - Cậu thối thật mà.
 
Tôi xoay người lại. Bạn tôi dang tựa người vào khuôn cửa và đưa tay bóp mũi.
 
Tôi ra vẻ vô tội và nhún vai.
 
- Hai người làm sao thế? Tôi bốc mùi gì hả?
 
Suko bỏ ngón tay khỏi mũi.
 
- Mình có thể nói rất chính xác. Cậu thối mùi máu và mùi chuồng cừu.
 
- Đúng.
 
- Thế anh lang thang đi những đâu vậy hả? - Glenda chen vào. - Em cứ tưởng Tanner và anh...
 
- Phải, bọn anh vào chuồng...
 
- Vậy là người ta đuổi anh ra khỏi nhà và anh đi tìm nơi ở mới.
 
Tôi cười rộng miệng, muốn tiến tới bên cô thư ký nhưng Glenda đã nhanh chóng né sang bên.
 
- Đừng có mó vào tôi, anh chàng ở chuồng.
 
- Anh sẽ không tìm nhà mới đâu, anh sẽ chuyển thẳng đến ở nhà em.
 
- Chắc không?
 
- Chắc chắn!
 
- Anh nhầm to rồi, anh thợ săn ma!
 
- Nói nghiêm chỉnh nhé! - Suko lên tiếng - Vụ đó có gì đặc biệt không?
 
Chẳng cần giải thích lâu la vì lý do Tanner cho gọi đến tôi. Cả hai người nghe chăm chú, nhưng rồi cũng chỉ biết lắc đầu vì họ chẳng hiểu gì. Cả Gelnda lẫn Suko đều không thể hiểu tại sao lại có kẻ vào chuồng giết cừu và dê rồi lột da chúng ra.
 
- Hắn không thể bán nổi thứ da đó đâu. - Glenda nói.
 
- Nhưng liệu hắn có định bán hay không?
 
- Anh có biết khả năng nào khác không?
 
- Không.
 
Suko hỏi:
 
- Cậu thống nhất với Tanner thế nào?
 
- Bọn mình sẽ đứng ngoài cuộc. Mặc dù Tanner có cảm giác rằng vụ này chạy theo hướng của bọn mình.
 
- Mình cũng thấy thế.
 
- Em có cần phải pha cà phê cho anh không hả? - Glenda chen vào.
 
- Bắt đầu đi. - Tôi đáp rồi đi ra cửa.
 
- Cậu đi đâu thế?
 
- Ở khu trực dưới tầng trệt có phòng tắm. Mình thấy như cả người đang bị dính máu vậy.
 
- Mãi mới có được một sáng kiến hay! - Cả hai đồng thanh hát theo lưng tôi.

NHÓM ĐẠO WYANG (1)

CHƯƠNG 1

Cái chết đang tiến qua London.

Chẳng phải là gã Thần Chết xương xẩu vác liềm và mặc áo thụng. Không, lần này nó mang hình dạng một con người. Một người từ xa tới đây, kẻ đã xác định cho mình một nhiệm vụ rõ ràng, kẻ hứa hẹn những người mắc nợ một tương lai u ám. Rồi bầu trời này sẽ nhuộm màu máu. Một đoàn ma quỷ sẽ đổ ập xuống đầu những kẻ đã một lần dám phạm tội với hắn.

Không một ai nhận ra hắn. Ở London này hắn là người lạ.Không một ai nhìn rõ gương mặt đang ẩn xuống bóng tối của vành mũ. Hơn nữa, gã đàn ông cũng tránh không đi vào những nơi sáng đèn.

Buổi tốì hôm nay trời se se lạnh. Gã cũng mặc một chiếc áo bành tô dài như mọi người đi đường khác. Gã quả thật chẳng khiến ai chú ý....

Gã đàn ông đã đi taxi ra một thị trấn ngoại ô. Ở đây, gã gặp một cuộc sống khác với trong London, yên bình hơn, thong thả hơn. Không quá nhiều xe cộ, không khí sạch sẽ hơn, bầu trời trong lành hơn. Đường nối với nội thành là tàu điện ngầm và xe buýt.

Cả ở đây, gã đàn ông cũng né những khu phố đông người. Gã đi men theo phần rìa thị trấn, nơi những ngôi nhà đứng cách xa nhau và những trang trại đầu tiên đã xuất hiện.



Đây là một khu đất đã được khai khẩn. Những cánh đồng bằng phẳng và thảm cỏ nối nhau. Trong bóng chiều, chúng gây ấn tượng một bàn cờ khổng lồ, rãnh ngăn những ô cờ là những dãy rào gỗ hay bằng cây trồng.

Gã đàn ông đứng lại khi đi tới một con phố hẹp, dẫn lên hướng Bắc. Những cây dương cao viền hai bên con đường trải nhựa.

Vào giờ này, trên đường có rất ít xe. Thỉnh thoảng có bóng xe đạp lặng lẽ lướt qua. Gã đàn ông lẩn vào đằng sau một thân cây.

Đã hỏi đường từ trước, gã đàn ông biết hắn phải đi bộ một đoạn mới tới được mục tiêu. Trang trại đó nằm đơn độc giữa đồng như thể có ai đặt nó ở đó rồi quên tới đón.

Làn gió nhẹ nhàng thổi tới, mang theo mùi hương trong lành của hoa trái và mùa xuân.

Đôi môi nhếch thành một nụ cười độc ác gã thầm nghĩ chỉ một chút nữa thôi, mùi hương tự nhiên này sẽ được thay thế bằng một mùi hoàn toàn khác. Bởi cả cái chết cũng có mùi riêng. Dù mỗi lần mỗi khác, nhưng những ai quen biết Thần Chết, luôn có thể nhận dạng nó qua khứu giác.

Gã đàn ông nhảy qua hào nước ven vệ đường. Chân gã thoáng chìm xuống mặt đất mềm, ẩm ướt, rồi cất bước, thẳng tới mục tiêu.

Dù có một đường mòn nhỏ dẫn tới trang trại, nhưng gã đàn ông không dùng nó. Hắn đi xuyên qua bãi cỏ dại, mọc ngang bắp chân.

Trên trời, mặt trăng đang tỏa xuống một thứ ánh sáng nhợt nhạt, trông nó như một chiếc đèn pha chưa được bật hết.

Gã đàn ông đi tiếp. Hắn định hướng bằng cái bóng đen đen của ngôi nhà chính và cả ánh đèn đang hắt ra từ một ngôi nhà nhỏ bên cạnh đó.

Một luồng sáng yếu ớt chỉ tỏa đủ cho hai khuôn cửa sổ nhỏ. Ra tới ngoài, nó lịm đi rất nhanh, chẳng đủ để hắt xuống đất. Khuôn mặt gã đàn ông hầu như bất động. Chỉ có ngọn gió là thổi thẳng vào hắn và chơi đùa với làn áo bành tô rộng thùng thình.

Trong bóng tối, hắn đã ước đoán nhầm khoảng cách. Gã đàn ông cần nhiều thời gian hơn dự định. Tới gần mục tiêu, gã bỗng thấy khó chịu vì một sự kiện ngoài dự kiến.

Gã nghe tiếng kêu vẳng ra từ khu trang trại. Tiếng kêu của những con cừu, tiếng be be của những con dê.

Thật ra, việc đám gia súc kêu có thể là chuyện bình thường. Nhưng yếu tố bất thường là chúng kêu quá lớn, quá hốt hoảng. Đám súc vật trong đó chắc đã cảm thấy có một thế lực khủng khiếp đang tiếng lại gần chúng.

Với mỗi bước chân của gã đàn ông về hướng chuồng, sự hoảng sợ của bầy cừu và dê càng tăng lên.

Chúng sợ hãi, hoảng hốt. Loài cừu và dê vẫn còn tin vào bản năng, chúng biết rất chính xác bao giờ có thể an tâm, bao giờ thì hiểm họa đe dọa. 

Giống như bây giờ...

Ở khoảng đất trước chuồng, cỏ đã bị những bước chân qua lại đạp bẹp. Một thứ mùi gay gắt xông lên, mùi của phân và nước tiểu súc vật. Gã đàn ông nghĩ tới con chó chăn cừu, chắc nó đang phải lần quất đâu đây. Nhưng hiện gã chưa nhìn thấy nó, mà cũng không nghe thấy tiếng sủa.

Con vật ở đâu?

Cửa chuồng chỉ còn cách gã vài bước chân. Ngôi nhà chính nằm ở phía tay phải hắn. Những khuôn cửa sổ tối trông như những con mắt đang quan sát.

Giữa hai khuôn cửa sổ là cửa ra vào.

Gã đàn ông chợt nín thở khi tiếng kẹt cửa vọng tới tai hắn. Rồi hắn nghe tiếng thờ dồn dập của con chó.

- Tìm đi, Blacky, tìm đi!

Tiếng người đàn ông vang lên trong nhà. Người chăn cừu cử con chó ra ngoài xem xét tình hình, chắc anh ta đã nghe tiếng kêu bất thường của đàn gia súc.

Gã đàn ông chuyển động nhanh như chớp. Sau ba bước chân, gã đã chìm vào bóng tôi của bức tường nhà. Mặc dù vậy, con chó vẫn tìm ra kẻ lạ. Nó nhảy những bước dài về phía hắn. Gã đàn ông không nhận ra nó thuộc giống chó nào. Gã tập trung vào những việc khác, rút từ dưới áo bành tô ra một loại vũ khí mà người ta thường dùng để đi rừng vùng nhiệt đới.

Một con dao quắm.

Con vật không biết điều đó. Nó lao tới, miệng há to, cái lưỡi thè dài. Con chó vừa sủa vừa gầm gừ, chạy đến bên gã đàn ông rồi nhảy lên. Một cú nhảy bị cắt ngang chừng. Món vũ khí rít lên trong không khí.

Trúng đích!

Một tiếng rên cuối, máu vọt ra, thân con vật rơi trở lại, đập xuống đất, cong lên, bốn chân giãy giãy, rồi nó nằm im.

Yên tĩnh trở lại.

Gã lạ mặt đứng lại. Gã biết con chó đã chết. Con dao quắm sắc như thể chính quỷ Satan đã ra tay mài nó. Chỉ một cú chặt đã đủ để đầu chó gần lìa khỏi thân.

Một sự yên lặng nặng như chì. Nó như một cơn kinh hoàng khiến người ta dựng tóc gáy. Nhưng kẻ giết chó hả hê tận hưởng sự yên lặng đó. Gã biết rất chính xác việc chưa xong, bởi gã biết người chăn cừu sẽ phản ứng ra sao khi không thấy chó quay trở lại.

Vài giây trôi qua.

Sự yên tĩnh bị phá vỡ. Những con thú trong chuồng lại bắt đầu gào lên. Trong một thoáng, chúng cảm thấy hơi thở của cái chết và đờ đẫn như bị thôi miên.

- Blacky?

Một tiếng gọi gay gắt đập vào tai gã lạ mặt. Người chăn cừu đứng bên khuôn cửa mở. Nếu nhô đầu ra và quay sang trái, chắc anh sẽ phát hiện thấy một hình dáng lờ mờ như một hình rối cắt giấy.

Con chó không động đậy.

Người chăn cừu gọi một lần nữa, rồi đi vào trong nhà, để ngỏ cửa.

Đối với kẻ lạ mặt, đây là một bằng chứng cho biết người chăn cừu sẽ quay trở ra, xem xét tình hình.

Nét cười trên khuôn mặt kẻ lạ bây giờ là một nếp nhăn xấu xí và độc ác. Nó lóe lên như một tín hiệu xuất phát, trước khi gã đàn ông bước về phía ngôi nhà.

Hắn né tránh ánh đèn.

Hắn không lộ người khỏi bóng tôi, bởi hắn thấy mình cũng là bóng tối.

Hắn dừng lại bên khuôn cửa. Từ trong nhà phả ra một luồng hơi ấm áp. Quầng sáng chẳng vượt quá ngưỡng cửa bao xa. Chỉ hai bước chân sau đó, nó đã bị bóng đêm nuốt chửng.

Kẻ lạ mặt hài lòng.

Rồi hắn nghe tiếng chân. Người chăn cừu quay lại, và kẻ lạ mặt siết lấy con dao quắm chặt hơn. Gã đã không cho con chó cơ hội sống. Cả chủ nhân của nó cũng vậy, gã quyết định.

Người chăn cừu tới gần.

Những bước chân ban đầu nghe rất tự tin, nhưng yếu dần khi tới gần cửa, trở nên rón rén, canh chừng.

Người chăn cừu đã linh cảm thấy nguy hiểm. Anh ta biết đã có việc xảy ra, nhưng chưa hiểu rõ nguyên nhân, anh ta trở nên do dự. Chắc bây giờ nỗi sợ hãi đang thít cổ họng nó, kẻ lạ mặt nghĩ thầm, căng người lên.

Đôi mắt dưới vành mũ chuyển động. Đó là hai con mắt thẫm màu nhưng bóng loáng. Cả vành môi hắn cũng mấp máy, nhưng không hề sản sinh một âm thanh nào.

- Blacky...?

Người chăn cừu gọi chó, và kẻ lạ mặt thấy hắn đã đoán đúng. Giọng nói người chăn cừu bây giờ khác hẳn. Nó khàn khàn, sợ hãi, cảm giác bất an chắc đang đè nặng lên anh.

Kẻ lạ mặt nín thở. Hắn cảm nhận rõ nội tạng của hắn đang nóng rực lên. Một dấu hiệu cho thấy hắn sắp ra tay. Hắn không nhất nhất muốn giết người đàn ông này, anh ta không có trong danh sách của hắn. Chỉ khi cần thiết, người chăn cừu mới phải mất mạng.

Lưỡi dao quắm còn ánh lên sắc máu con chó. Sự sợ hãi của đám súc vật trong chuồng tăng lên. Tiếng kêu gào to hơn, vằng ra ngoài. Những con thú bị nhốt bắt đầu trốn chạy. Chúng va vào nhau, húc vào tường, có những tiếng kêu nghe đậm vẻ tuyệt vọng, những con thú linh cảm thấy chúng sắp phải chết.

Một người chăn cừu yêu đàn súc vật của anh ta. Anh ta là chủ nhân, là người chăm lo cho chúng. Anh ta không thể bỏ mặc chúng trong sợ hãi. Anh ta phải ra ngoài xem xét.

Người đàn ông nghĩ vậy và bất chợt, anh rời nhà bước thật nhanh ra ngoài.

Anh lướt qua ngưỡng cửa, kẻ lạ mặt giơ dao lên rồi để cho người chăn cừu đi qua.

Lưng anh bây giờ xoay lại phía gã, anh không nhận ra gã. Chỉ một cú đập bằng sống dao là đủ.
Người chăn cừu đứng lại.

Tương đối gần kẻ lạ mặt, nhưng vẫn còn quá xa cho một cú đánh.

Kẻ lạ mặt phải tới gần anh hơn. Hắn bước tới. Trong đêm, hắn không nhận ra một đoạn gỗ nhỏ, nằm ngoài này đã lâu và hóa khô giòn. Nó gẫy đôi khi bị bàn chân gã đè lên.

Người chăn cừu nghe thấy!

Anh xoay người lại.

Hai gương mặt nhìn thẳng vào nhau.

Một lạnh lùng và lì lợm, như một vệt mặt ma, tràn đầy phấn khích giết chóc. Một sự kinh ngạc đến đờ đẫn.

Người chăn cừu giơ tay phải lên. Mãi bây giờ kẻ lạ mặt mới thấy anh đang cầm súng. Trong tay anh là một khẩu Revolver dài nòng.

Nhưng anh không kịp bóp cò, con dao quắm nhanh hơn. Nó vọt đến cơ thể anh như đã chặt gọn con chó, cả người chăn cừu cũng gục xuống dưới chân kẻ giết người, không một tiếng động.

Kẻ giết người rút dao về. Lưỡi dao ánh thẫm. Máu dính trên đó.

- Lẽ ra mày không nên quay lại. - Gã đàn ông nói bằng một giọng lạ, nghe như giọng châu Á - Tao rất tiếc, nhưng đó là lỗi của mày.

Hắn sải chân bước qua người đã chết, nhắm về hướng chuồng cừu.

Đó mới là mục tiêu chính của hắn. Hắn muốn tới đó, đó mới là nơi hắn thực thi nhiệm vụ.
Gã đàn ông dừng lại bên cửa chuồng.

Những con vật bên trong đã sắp hóa điên. Hắn nghe tiếng kêu gào và rên rỉ, tiếng be be vừa uất hận vừa đau đớn, bởi những con thú trong kinh hoàng đã giẫm đạp lên nhau, làm một số con bị thương.

Điềm tĩnh, gã đàn ông nhìn cánh cửa. Nó chỉ được ngăn từ phía bên ngoài bằng một thanh chắn bình thường. Gã rút nó ra, rồi đặt tay lên nắm đấm.

Bàn tay trái hắn kéo cánh cửa chuồng, bàn tay phải cầm vũ khí.

Căn chuồng chìm trong bóng tối.

Một luồng hơi ấm trộn lẫn mùi mồ hôi thú phả vào mặt hắn. Gã đàn ông nhìn thấy lờ mờ bóng những con vật đang hoảng hốt chuyển động. Gã nhìn thấy những đôi mắt, những thân hình mờ trắng, thỉnh thoảng lại sọc vệt đen, đó là máu đang chảy ra từ những vết thương.

Gã đàn ông xoay xoay con dao trong tay, chùi cán dao vào cùi tay trái.

Máu nhỏ xuống dưới đất...

Rồi hắn tiến vào.

Những con thú kêu to hơn. Giọng kêu của chúng tạo thành một địa ngục sợ hãi. Nhiều con mắt dại đi, trong suốt như băng. Chúng chen chúc nhau dồn vào phía cuối chuồng và gã đàn ông mỉm cười tiến tới.

Rồi hắn ra tay.

Gã ra tay tàn nhẫn, không gì ngăn nổi. Gã làm việc thật chính xác. Một sự chính xác của Tử Thần. Gã như đã trở thành một chiếc máy giết chóc.Trong những giây phút sau đó, gã tiếp tục giết những con vật vô tội, không phương kháng cự. Không một ai ngăn cản gã, không một ai quấy rầy. Gã có đủ thời gian, gã có trọn một đêm để hành động.Và gã đàn ông tận dụng cơ hội đó...