CHƯƠNG 6
Một tay Ali cầm chặt ngọn đèn pha, bàn tay kia sử
dụng chiếc cán quay bên dưới và điều khiển quầng sáng trượt trên mặt nước biển.
Không thấy gì.
Thằng con trai lái trực thăng đã biến mất. Mặt Ali
nhăn nhúm. Người ngoài không nghe tháy tiếng chửi của gã, bởi gã bị câm.
Khẩu súng máy đứng bên cạnh ngọn đèn pha. Nó được buộc
trên một cái giá quay, nhằm cho khẩu súng có một tầm nhả đạn tối ưu. Mặc dù
vậy, Ali vẫn chưa bắn trúng người đàn ông kia và điều đó khiến hắn vô cùng bực
tức.
Chính Basil Proctor ra lệnh cho gã bắn rơi trực
thăng. Người lái máy bay đã không trả lời theo đúng mật mã qui định trước.
Basil Proctor vốn đa nghi như một con chó sói già nua. Trước khi bước chân vào
mạo hiểm, hắn thà nhả đạn một trăm lần. Trong những chuyện này, Ali cho tới nay
luôn là tay chân đáng tin cậy đến mức tuyệt đối.
Nhưng lần này gã không gặp may.
Nhiều phút đồng hồ ròng rã, gã dùng ngọn đèn pha ra
soát mặt biển. Không kết quả. Tên con trai xa lạ kia đã biến mất. Thay vào đó,
Ali nhìn thấy chiếc áo phao cấp cứu dập dềnh trên sóng. Ali cười. Gã cho rằng
tên phi công giả mạo kia đã chết đuối. Rất có thể một viên đạn đã găm trúng nó
mà Ali không hề nhận ra.
Gã tắt đèn. Từ lỗ cửa dẫn xuống dưới lô cốt vang
lên giọng nói của tay triệu phú.
- Ali! Xuống đây!
Tên Ả Rập tuân lời. Đưa những bước chân thoăn thoắt
theo những bậc cầu thang xuống dưới. Basil Proctor ngồi đợi trong ghế lăn. Ánh
mắt gã không hứa hẹn điều gì hay ho. Gã xòe những ngón tay gầy khẳng như tay
nhện nắm chặt lấy thành ghế. Luồng sáng Néon từ trên trần phòng khiến cái đầu
trọc của gã bóng lên như cái sàn nhảy.
Hình như Proctor đọc thấy chuyện không ổn qua nét
mặt của Ali.
- Mày không bắn trúng nó phải không? – Gã giận dữ
hỏi.
Ali lắc đầu. Rồi gã Ả Rập ngập ngừng, muốn ra hiệu
thanh minh. Nhưng không còn kịp nữa rồi.
Cái khuôn mặt vốn gớm ghiếc của Proctor bây giờ
càng trở nên kinh khủng hơn. Bàn tay phải của gã thọc tay xuống lớp chăn phủ
chân và rút ra một ngọn roi cán ngắn. Nỗi sợ hãi chập chờn cháy trong mắt Ali.
Basil Proctor cười đểu giả. Cán roi ngắn thật,
nhưng làn roi bằng da của nó dài trên bốn mét. Phần đầu ngọn roi được buộc bằng
ngững quả cầu con con bằng thép.
Basil Proctor điều khiển chiếc roi quất điệu nghệ.
Xoay cổ tay, gã quật tới.
Tên người Ả Rập đứng nghiêm như một bức tượng. Nét
mặt gã không hề thay đổi, gã nuốt trọn mười roi. Đánh xong chừng đó gã mới dừng
tay.
- Lần sau thì bắn cho tốt hơn! – Tên triệu phú rít
lên. Công cụ tra tấn lại biến xuống dưới lớp chăn phủ.
Ali lảo đảo. Quần áo của gã rách tươm. Nửa người
trên và mặt chằng chịt vết roi. Máu tụ lại chảy dọc thân thể hắn thành những
vệt đỏ lòm.
- Cút đi! – Proctor ra lệnh.
Ali len lén bước khỏi phòng. Gã phải giơ tay vịn
vào tường cho khỏi ngã.
Basil Proctor xoay cái ghế lăn, bật động cơ, rời
phòng qua một cửa nâng bằng thép.
Tay triệu phú đang rất giận dữ và có phần hoảng sợ.
Gã cảm thấy cơ hội của gã đang giảm xuống. Việc Rick Terry không trở về cùng
chiếc máy bay là dấu hiệu đầu tiên. Chắc Rick Terry đã bị tên phi công lạ mặt
kia khuất phục. Tên này bay về hướng đảo với mục đích gì?
Có phải nó là một cảnh sát viên? Tại sao bọn chúng
phát hiện ra dấu vết của gã nhanh khiếp thế? Đột ngột, tên triệu phú hy vọng kẻ
lạ mặt kia còn sống sót trong trận tấn công bằng súng máy. Basil Proctor giờ
rất muốn nói chuyện với anh ta, trước khi đẩy anh ta vào bàn tay tử thần.
Chiếc ghế lăn đi dọc dãy hành lang chật hẹp, dừng
lại trước môt cánh cửa cũng bằng thép. Proctor bấm bộ phận điều khiển từ xa và
chờ cho tới khi cánh cửa từ từ xoay vào bên trong. Vẫn còn một vấn đề khiến
Basil Proctor lo lắng.
Đội thuỷ thủ!
Lẽ ra đêm nay nó phải đầy đủ quân số. Phải đúng số
mạng người của thủy thủ đoàn đã chìm xuống cách đây hai trăm năm. Basil Proctor
đã lo lắng thất chu đáo, đã rủ rê tất cả một người phòng trường hợp bất trắc
như Adam Preston. Chẳng lẽ mọi cố gắng của gã đếu uổng phí, bởi chuyện đúng hẹn
bây giờ đã lộ rõ là việc bất khả thi. Tay lạ mặt kia ngồi một mình trong máy
bay trực thăng. Thuyền trưởng Barell sẽ phản ứng ra sao đây? Liệu hắn ta có
đồng ý hoãn đến một thời điểm muộn màng hơn, hay hắn sẽ đơn giản cắt đứt quan
hệ?
Thế thì thật khủng khiếp, bởi có nghĩa là Proctor
sẽ phải sống tiếp quãng đời còn lại trong tư thế một cái giẻ rách tàn phế, ngay
cả khi gặp may và được bọn ma cướp biển tha mạng sống.
Với những bức tranh tương lai u ám trong đầu, tay
triệu phú cùng với chiếc ghế lăn tiến vào phòng riêng. Cánh cửa đóng lại đằng
sau lưng hắn.
Căn phòng này là hỗn hợp của một xưởng điện tử và
một phòng khách. Chiếm một nửa phòng là một dãy bàn với vô số màn hình. Một cái
bàn với bao nhiêu nút bấm và công tắc tạo thành trái tim của toàn khu lô cốt.
Ngồi ở đây, Basil Proctor có thể kiểm soát tất cả.
Hắn có thể mở và đóng các cánh cửa, hắn có thể canh
chừng tất cả các căn phòng. Kể cả không phận quanh đảo.
Công cụ trợ giúp hắn là một giàn máy radar đã được
cài trên đảo. Đúng thế, mọi việc rất trôi chảy, tốt đẹp, nếu không có cái gã
phi công lạ mặt kia...
**********
Chàng thanh tra cảm nhận rõ ràng những thanh gỗ rất
cứng dưới lưng mình, nhưng không nhìn thấy chúng. Anh nghe thấy giọng của những
người đàn ông mà vẫn không thấy một bóng người nào.
Anh nằm giữa nước, nhưng những đợt sóng biển không
chạm vào người anh.
Một nghịch lý, phi logic và đầy bí ẩn.
Nhưng là hiện thực. John Singlair đang nằm trong
tay những kẻ vô hình. Chúng thoải mái bàn luận về anh.
- Nó sẽ hợp với đội thủy thủ của chúng ta đấy. –
Một kẻ nói.
- Đúng thế, nó to và khỏe.
- Chờ xem thuyền trưởng Barell quyết định thế nào?
Thuyền trưởng Barell! Giờ thì John Singlair tin
chắc rằng anh đang nằm trong tay bọn ma cướp biển. Tuyệt vọng, anh tìm cách nhớ
lại câu chuyện đó. Barell đã đến đây từ xứ Ấn Độ, mang trên tàu một loạt hàng
quý giá dành riêng cho Hoàng Gia Anh. Đến bãi biển này, Barell lạc vào một trận
bão chết chóc. Con tàu Cornwall Love, một con tàu đã ngạo nghễ chống lại sóng
gió của cả Đại Tây Dương lẫn Thái Bình Dương, lại chìm xuống trong phần đuôi
kéo dài của con kênh ngăn cách nước Anh và đại lục. Thật không thể nào hiểu
nổi. Ngày đó người ta đã bàn tán về những thế lực siêu nhiên, bởi không ai tìm
thấy dấu vết nào của con tàu lẫn thủy thủ đoàn. Cứ như thể địa ngục đã há mõm
nuốt chửng lấy nó.
Toàn bộ thủy thủ đoàn chết đuối, nhưng những linh
hồn đó không siêu thoát. Những gã đàn ông đó vẫn tồn tại trong một vương quốc
màu xám, nằm ở khoảng giữa thế giới này và địa ngục. Chúng bị nguyền rủa, và
nếu không có ai bẻ gãy lời nguyền đó thì những hồn ma cứ thế lang thang trên
mặt biển, xuyên suốt mọt thời gian.
John Singlair thầm nghĩ như thế. Anh chỉ không biết
chuỗi suy luận của anh gần đúng với sự thật tới mức nào. Con thuyền bắt đầu
chòng chành. John nghe thấy tiếng bước chân nặng trịch và một giọng ra lệnh rất
hách.
- Vào vị trí, bọn lừa ngu! Nếu không thì ngọn roi
của ta sẽ thúc các ngươi vào việc đấy! Không được phép để thuyền trưởng chờ!
- Con thuyền tăng tốc. Một bàn tay vô hình cứng như
thép tóm lấy John Singlair, nâng anh lên.
Cơ thể John bây giờ nằm lưng chừng không khí. Anh
muốn gạt cánh tay đó sang một bên, nhưng ngón đòn của anh chỉ chém vào khoảng
không.
Gã đàn ông cười lớn. Giọng cười rùng rợn, hể hả và
đểu giả. John Singlair trong bộ quần áo ướt sũng dán chặt vào da đột nhiên rơi
vào hoảng loạn. Bọn ma cướp biển này có thể giết chết anh mà anh hoàn toàn
không nhìn thấy điều gì. Có kẻ nào đó đang nhìn thấy anh, kẻ đó có thể đâm một
con dao găm vào ngực anh, hoặc xả một lưỡi kiếm suốt thân thể anh.
Một tình huống khủng khiếp.
Những đợt sóng đập vào một mạn thuyền vô hình.
Những tia nước bắn tóe lên người chàng thanh tra. Nước mặn khiến cho mắt anh
cay xè. Anh giơ tay gạt nước.
Gã đàn ông đang tóm lấy anh cười lớn.
- Tao là hoa tiêu Howard! – Gã kêu bằng cái giọng
rất cao. – Mày nhớ cái tên đó cho kỹ đấy, chắc chắn tới đây mày sẽ làm việc
theo lệnh tao. Tao nhắc trước, liệu hồn thì đừng có bướng!
Gã lắc lắc cơ thể chàng thanh tra như người ta lắc
một con búp bê. Thế rồi gã buông cho anh rơi xuống. Thân hình John đập thẳng
xuống những tấm ván vô hình. Cuộc đời nghề nghiệp đã dẫn anh chứng kiến biết
bao sự kiện. Anh đã chiến đấu chống lại những con ma cà rồng, người sói, những
quái vật và ma quỷ. Nhưng những vụ án đó không thể so sánh với những gì mà an
đang phải trải qua.
John hoàn toàn không có khả năng kháng cự. Anh nằm
gọn trong bàn tay của những con người rùng rợn hư vô. Những kẻ không thể bị tấn
công.
Bỗng một giọng thét lên:
- Chào Cornwall Love!
- Mạn trái mạnh lên! – Howard gào lớn. – Bọn sâu bọ
nhà các ngươi, chèo mạnh nữa, quỷ tha ma bắt.
Con thuyền nhỏ xoay lại.
John Singlair nhìn trân trối lên bầu trời đêm. Mặt
trăng treo lơ lửng trên cao như một quả cầu vàng. Mặc dù con tàu Cornwall Love
chắc ở ngay trước mặt họ, nhưng chàng thanh tra chỉ nhìn thấy nước. Lũ ma thủy
thủ giờ chỉ chăm chú vào chuyện chèo thuyền. John Singlair liều mạng ngồi thẳng
người lên. Không kẻ nào quan tâm tới anh.
Thế rồi trong cõi vô hình hiện lên một bức tường
sương mù chắn trước con thuyền nhỏ, trông nó như vừa mọc thẳng lên từ làn nước.
Vô vàn những xoáy nước cuộn tròn, vô vàn những làn hơi nước bốc lên tạo thành
những hình ảnh kéo dài, tơi tả, lơ lửng trên mặt nước trong một màu xám trắng.
John Singlair nhìn ra những đường viền của con tàu.
Đó là một con tàu chiến với những cột buồm rất to.
Làn vải bố của những cánh buồm đang giật phần phật trong gió, vậy mà kỳ quái
làm sao, con tàu không dịch chuyển. Nó lơ lửng sát trên mặt nước. Có một đám
người tụ tập ở mũi tàu, những gã đàn ông dữ tợn trong những bộ quần áo sặc sỡ
và được vũ trang tới tận răng. Có một gã đàn ông khiến John đặc biệt chú ý. Gã
mặc một bộ quân phục màu xanh, đi ủng cao, quần đút vào trong ủng. Hai vạt áo
khoác phanh ra. John thậm chí nhìn thấy cả làn vải lót bên trong. Gã mặc quân
phục đội một cái mũ ba chòm trên đầu. Ngang hông là một chiếc dây lưng rất đẹp,
phía bên phải là một cây kiếm ngắn trong một bao đựng bằng da. Gã đang đặt hai
bàn tay lên mạn tàu, nhìn con thuyền nhỏ tiến lại bằng ánh mắt chờ đợi.
Cả chiếc thuyền bây giờ cũng hiện hình. John nhìn
thấy quanh mình là những hình người đánh kinh sợ. Gã Howard là một tên đàn ông
to cao như một khúc tủ đựng quần áo. Với bộ mặt xồm xoàm râu ria và chỉ có một
tai. Đôi mắt đen nằm rất sâu trong hai cái hang hốc. Khi cười, gã nhe ra những
cái răng trắng nhởn.
John nhìn thấy cả một tên chột mắt. Hắn đeo một cây
kiếm cong ở hông bên phải và nhìn anh không chớp mắt. Chắc tên đao phủ này lại
đang mừng về kẻ tử tù mới của hắn.
Bọn người chèo thuyền gồm đủ mọi sắc tộc. John nhìn
thấy những đứa con lai, những tay người da đen, người Trung Quốc, kể cả những
tay người Bắc Âu tóc trắng.
Nhưng tất cả lũ chúng đều có một điểm chung. Dù là
bọn cướp biển đứng trên Cornwall Love lẫn nhóm bên dưới con thuyền nhỏ đều có
những bộ mặt nhợt nhạt đến kỳ quái. Thanh tra John tin rằng anh đang nhìn thấy
cả những khúc xương ánh lên dưới phần da.
Con thuyền nhỏ bây giờ đã chìm hẳn vào phía bên
trong bức tường sương mù và trôi song song với tàu Cornwall Love. Những mái
chèo được thu lên, dây cáp trên tàu được ném xuống.
Một cú đá thúc John Singlair đứng dậy. Khi gã đàn
ông đó muốn đá lần thứ hai, John Singlair tóm lấy cổ chân gã, vặn lại.
Anh cảm nhận một làn da lạnh toát. Da của người
chết. Rõ ràng không thể nhầm lẫn.
Tên cướp biển thét lớn, xoay người lại và rơi qua
mạn thuyền, rớt xuống nước.
Thế rồi, một cảnh tượng khủng khiếp diễn ra. Nước
bên dưới sôi lên sùng sục làm nổi vô vàn bong bóng và sủi bọt như một nồi cháo
phù thủy. Tên cướp biển vừa lăn qua mạn thuyền hoảng hốt vùng vẫy tay chân. Gã
muốn co người cố bám lấy mạn thuyền nhưng không được. Hai bàn tay chết chóc
chạm được vào vách thuyền, nhưng rồi một tiếng thét vang lên, cả hai bàn tay ấy
trượt xuống.
Và hiện nguyên hình một bộ xương!
Bộ xương trôi lập lờ trên mặt nước như một miếng
giấy.
Như đã hóa đá, tất cả những tên cướp biển còn lại
đứng đờ đẫn nhìn cái chết của đồng bọn. John Singlair nhanh như chớp hiểu ra
rằng một khi lũ ma này ở trạng thái vật chất hóa, nước biển mặn sẽ trở thành
một dung dịch giết chúng. Nếu anh lao qua ván thuyền xuống dưới kia, sẽ chẳng
kẻ nào nhảy theo, truy đuổi anh.
Hành động!
Chàng thanh tra nhảy lên, nhưng có vẻ như quỷ Satan
đã tiên đoán trước chuyện này. John không nhìn thấy một chiếc ghế dài nhỏ nên
bị vấp. Anh ngã xuống, kịp lăn người đi vài vòng, nhưng không ngăn trở được cả
đám người kia đổ dồn về phía mình. Bọn cướp biển giờ đã tỉnh khỏi cơn ác mộng.
Thằng một mắt là đứa đầu tiên bay về phía John. Nó
hung dữ giơ con dao cắm. Chỉ cần một nhát duy nhất, nó có thể xẻ John ra làm hai.
Nhưng chàng thanh tra co chân lên, đạp trúng vào ngực tên cướp biển, đẩy hắn
bay qua đầu anh.
Tiếng thét xé tan bầu trời, thằng một mắt rơi xuống
nước. Không còn lấy một cơ hội duy nhất, gã rơi thẳng vào sự hủy diệt.
Chẳng bao lâu thêm một bộ xương thứ hai trôi lập lờ
trên mặt nước. Chỉ đáng tiếc John không được nhìn cảnh tượng đó.
Đối phương quá đông. Thình lình một sợi dây thònh
lọng bằng da siết quanh cổ anh, siết một cách tàn khốc. Chàng thanh niên cong người
lên. Sợi dây da khiến anh nghẹt thở. Bọn đàn ông đó chắc chắn sẽ siết cho anh
chết luôn nếu tên thuyền trưởng không can thiệp.
- Dừng tay! – Gã gào lên oang oang. – Tao muốn bắt
sống nó.
Bọn cướp biển tuân lời. Từ từ chúng nới lỏng dây
thòng lọng. John Singlair bắt đầu thở được. Thế là bọn cướp biển quàng hai vòng
dây nữa quanh vai anh. Bằng cái lối quấn buộc đơn giản đó, chúng đưa anh lên
tàu Cornwall Love.
John được đưa đến trước thuyền trưởng Barell, nhân
vật bí hiểm của không biết bao nhiêu huyền thoại. Nhân vật đã chết trước đây cả
hai trăm năm trời hay ít ra thì John cũng đã tưởng như vậy cho tới hôm nay.
Làn da tên thuyền trưởng cũng trong suốt. John nhìn
thấy những khúc xương ánh lên bên dưới, mùi xác chết bay quanh tanh tưởi lợm
giọng.
Hai tên cướp biển tóm chặt lấy cánh tay John. Thêm
một lần nữa, anh cảm nhận rõ cái lạnh rùng rợn tỏa ra từ những thực thể đó.
Không, chúng không còn là người nữa , mà là những sản phẩm của bóng đêm, những
linh hồn bị nguyền rủa, đẩy vào cảnh sống đời ma quỷ.
- Ta là thuyền trưởng Barell! – Gã đàn ông mặc bộ quân
phục màu xanh tự giới thiệu.
- Tôi biết .- John đáp.
Anh và tên thuyền trưởng đứng đối mặt nhau bên dưới
cánh buồm lớn nhất. Gần chỗ họ có một cầu thang dốc xuống, dẫn vào lòng con
tàu. Trên một bục nhỏ là bánh lái tàu khổng lồ làm bằng gỗ, đang được hai gã
đàn ông giữ chắc.
- Ra mi biết ta? – Thuyền trưởng hỏi.
Gã có một giọng quen ra lệnh, rất vang và rất hách.
Hai môi gã hầu như không còn hiện lên nữa. Chúng nhợt nhạt hơn cả da mặt, cho John
biết rằng cả tên thuyền trưởng lẫn bọn đàn ông kia đều không còn một giọt máu
trong cái cơ thể còn nguyên vẹn.
- Mi đã giết mất hai thủy thủ của ta. – Thuyền
trưởng nói. – Vì thế mi phải chết!
- Tôi không còn cách nào khác! – Thân hình John
căng lên. – Tôi phải tự vệ!
Tay thuyền trưởng đấm nắm đấm tay phải vào bàn tay
thứ hai đang mở rộng ra.
- Không một ai được phép kháng cự trước ta và trước
đội thuỷ thủ của ta! Và không một ai dám trái lời ta. Kẻ nào làm điều đó hoặc
sẽ bị chặt đầu hoặc sẽ bị treo cổ! Đêm hôm nay đã được số phận để trả lại cho
chúng ta hình dạng bình thường của con người. Chỉ còn một chuyến hàng nữa thôi
là đội thủy thủ của chúng ta sẽ đông đủ. Nhựa sống của lũ người kia sẽ được
chuyển sang cho bọn ta. Lời nguyền của Maharadscha sẽ được giải tỏa và bọn ta
sẽ được tự do. Nhưng chính mi đã làm hỏng tất cả! Nên bây giờ mi sẽ phải chết.
Vì mi phá kế hoạch mà chúng ta phải chờ thêm bảy năm nữa. Bảy năm, cho tới đêm
kế hoạch kế tiếp. Mà tới thời gian đó, liệu chúng ta có tìm được người giúp đỡ
hay không, trong khi không một ai biết được hoàn cảnh này. Kẻ giúp đỡ ta hiện
thời là Basil Proctor. Nó đã mua hòn đảo này, và đã xây một lô cốt ở đây. Bọn
ta đã ký một hợp đồng với nó. Lẽ ra nó sẽ nhận được kho báu của quỷ, và trở về
với hình dáng ngày trước, còn bọn ta thì nhận được linh hồn của nhiều người. Nó
sẽ rất muốn được trả thù mi đấy, nhưng ta không để cho nó lấy mất niềm vui đó.
Chính bản thân ta sẽ giết mi! Treo nó lên cột buồm!
Tên thuyền trưởng chưa nói hết câu, những dáng
người rùng rợn kia đã nhảy xổ vào chàng thanh tra.
John Singlair dồn sức kháng cự. Những ngọn đòn
karaté của anh đập hai tên đầu tiên xuống đất. Thế nhưng bọ ma cướp biển đâu
biết đến nỗi đau thể xác. Ngay lập tức, chúng lại nhảy vọt lên.
Một tên tóc vàng cao lòng khòng đập một cây đinh ba
xuống đầu John. Bàn tay phải của anh gạt tránh, đồng thời, chân trái của chàng
thanh tra đạp trúng vào người con ma cướp biển.
Tên tóc vàng bị giật lùi trở lại. Rồi có kẻ nào đó
đứng sau lưng đạp thẳng vào hõm đầu gối John làm cuộc giằng co của chàng thanh
tra chấm dứt.
Trong tiếng kêu, John bị lũ đàn ông ma quái kéo đến
cột buồm. Chúng bẻ quặt hai tay anh sau lưng, vòng quanh cột buồm rồi buộc hai
cổ tay anh lại với nhau. Thuyền trưởng Barell đứng cách đó không xa. Gã chống
cả hai nắm đấm lên ngang hông, vừa nhìn quân làm việc vừa ném về phía John
Singlair những ánh mắt căm hờn.
Chàng thanh tra bây giờ đứng hơi cao hơn lũ người
còn lại. Anh có thể nhìn qua đầu lũ cướp biển. Cả con tàu vẫn chìm trong bức
tường sương mù. Cái khối khổng lồ màu xám trắng đó đang cuộn sóng lên, chuyển
động. Thỉnh thoảng lại có những dải sương rất dài bò lên trên mạn tàu.
Khi còn ở dưới con thuyền nhỏ, John đã nhìn được
vào phần bên trong bức tường sương mù này, nhưng bây giờ anh không thể nhìn ra
phía ngoài kia. Anh không biết những gì đang xảy ra đằng sau bức tường bí hiểm
đó.
Bọn cướp biển đã tạo thành một hình bán nguyệt bao
quanh tù nhân. Mỗi đứa cầm trong tay một ngọn cờ. Trên nền vải trắng có vẽ một
cái đầu lâu màu đen. Tên cướp biển râu ria xồm xoàm vừa vẫy vẫy cái cờ trong
tay vừa hét lên:
- Trả thù! Trả thù!
Thuyền trưởng Barell tỏ vẻ hài lòng. Gã lớn giọng,
gào lên một mệnh lệnh vang dọc boong tàu.
- Gọi đao phủ lại đây!
Và đao phủ tiến lại!
Khi John nhìn gã đàn ông đó, anh thấy rõ một luồng
khí lạnh chạy dọc sống lưng mình. Tên đao phủ trông thật đáng sợ.
Đầu gã trọc lóc, nữa thân trên để trần. Gã mặc một
cái quần rất chật như thể không còn gì chật hơn, cả hai bàn tay nắm chặt cán
của một con dao quắm. Tảng ngực dày đặc những sợi lông quăn tít. Hai hàm răng
nhe ra phô một nụ cười tởm lợm. Ánh mắt lóe sáng nỗi ham mê giết chóc.
- Đây là Ramon! – Thuyền trưởng giới thiệu tên đao
phủ. – Nó sẽ chẻ mày ra làm hai phần! – Nói xong, Barell cười lên rùng rợn và
Ramon hòa vào tiếng cười đó.
- Nhưng chưa tới lúc đâu! – Thuyền trưởng Barell
gào lên chát chúa. – Phải mang những đứa khác lại đây đã. Không thành người
được trong đêm nay thì ta cũng không để đứa nào sống sót. Chúng ta sẽ mở một
bữa tiệc máu. – Bàn tay phải của hắn giật về phía trước. – Đây là đòn trả thù
cho sự xuất hiện của mi ở đây. Ta sẽ nói với bọn kia rằng một mình mi phải gánh
chịu mọi tội lỗi, phải chịu trách nhiệm cho cái chết của chúng. Bọn tù nhân
cũng sẽ được chứng kiến cái chết của mi trước hết, và bảy năm nữa chắc chắn bọn
ta sẽ hóa giải được lời nguyền!
Thuyền trưởng Barell quay người đi. Gã nhìn bọn đàn
ông ma thuộc quyền gã và đọc trong bộ mặt chúng lòng trung thành, sẵn sàng theo
gã đi khắp mọi nơi.
- Nhanh lên, đưa mấy cái giẻ rách kia lại đây!
Nhanh lên đấy. Cho tới khi trời sáng là mọi việc phải xong xuôi.
Reo hò ầm ĩ, một nửa tá tên cướp biển nhảy ra mạn
tàu. Bám vào những sợi xích sắt, chúng trèo xuống con thuyền nhỏ đang chờ bên
dưới.
Thanh tra John Singlair bị trói vào cột buồm của
con tàu ma. Hiếm khi nào mà tình huống của anh lại vô vọng như hiện thời.
Lần này, có lẽ cái chết sẽ là chung cuộc .....
Khi Basil Proctor nhìn thấy bức tường sương mù, gã
đàn ông tham lam biết rằng mọi việc vậy là kết thúc. Con tàu lẽ ra không được
vật chất hóa sớm như thế này. Quá trình đúng quy định chỉ bắt đầu lúc trời gần
sáng, với đầy đủ mạng người cho cả nhóm linh hồn đã bị Maharadscha giam cầm
suốt hai trăm năm qua. Con tàu đã hiện lên sớm bởi có chuyện bất thường.
Tay triệu phú nhìn trân trối qua một khung cửa sổ
của lô cốt. Gãcó thể nhận ra dải sương mù, thậm chí có những lúc còn nhìn xuyên
qua được nó. Những dáng người đang hiện lên lờ mờ trên boong tàu. Gã nhìn thấy
cảnh John Singlair bị đưa lên đó, gã quan sát cuộc chống chọi của John với
những tay cướp biển. Thế rồi người lạ mặt tóc vàng bị trói vào cột buồm.
Sau đó, một con thuyền nhỏ tách rời tàu lớn. Bọn
chèo thuyền đang gắng sức làm việc. Chúng hợp lực chống chọi với những con sóng
rút khỏi bờ muốn đẩy lui chúng ra xa.
Basil Proctor muốn đón chúng. Cùng với chiếc ghế
lăn, tên triệu phú đi dọc những dãy hành lang. Vừa đi hắn vừa cất tiếng gọi
Ali, nhưng sao tên người Ả Rập không thấy xuất hiện khiến nỗi giận dữ của tên
triệu phú càng bốc cao hơn.
Không một tiếng động, cái ghế lăn từ từ chui qua
những khúc hành lang. Như một con quỷ con, Basil Proctor ngồi trên ghế. Khuôn
mặt gã nhăn nhúm lại trong căm hận. Thỉnh thoảng gã lại lẩm bẩm phun ra những
câu không ai hiểu nổi.
Đến trước cửa ra, gã dừng lại.
Giống như bên đường dẫn vào một nhà để xe loại lớn,
cánh cửa thép từ từ kéo lên cao. Basil Proctor cùng chiếc ghế lăn dừng ở cửa ra
vào, chờ phía kia tiến tới.
Chiếc thuyền nhỏ đã được lái vào vịnh, đáy nó đã
chạm cát. Bọn đàn ông nhảy xuống. Bốn tên cướp biển kéo con tàu lên hẳn trên bờ.
Chúng vừa làm việc vừa chú ý để nước biển không chạm vào da thịt.
Một tên thoáng có một phút thiếu tập trung. Đột
ngột, gã giật nảy người và bắt đầu thét lên chói gắt. Một làn sóng đã chồm lên
chân hắn. Chỉ trong chớp mắt, nước mặn đã bóc phăng đi lớp thịt chân, những
khúc xương trắng hếu lòi ra. Tên cướp biển nhìn trân trối xuống vết thương bên
dưới bằng nỗi kinh hoàng khủng khiếp nhất.
Vệt phân hủy lan ra. Ngay trong những phút sau đó,
nó đã bám tới cổ chân. Tên cướp biển tru lên trong nỗi sợ mù lòa.
Lúc đó, bọn đàn ông đứng xung quanh ra tay can
thiệp. Trước khi tên cướp biển kịp đề phòng, tòng phạm của nó đã tóm lấy nó,
giơ lên cao và ném xuống biển.
Những tiếng thét cùng hắn chìm xuống sóng. Chỉ vài
phút sau, bộ xương người đã được sóng biển tấp lên bờ rồi dừng lại giữa hai
vách đá nhỏ. Một lời cảnh báo kỳ quái cho thế giới đi sau. Basil Proctor lạnh
lùng quan sát cảnh tượng đó. Gã cũng không chớp mi lấy một lần khi năm tên đàn
ông còn lại đi về phía gã.
Cầm đầu nhóm là tên lái tàu Howard.
Gã dừng lại trước mặt tay triệu phú.
- Hỏng cả rồi! – Gã thét vào mặt Basil Proctor. –
Chúng ta không đầy đủ quân số cho thủy thủ đoàn. Mi đã làm hỏng việc!
Proctor giơ những ngón tay méo mó lên chống đỡ.
- Không phải! – Gã tru lên. – Tôi đã.....
- Câm mồm!
Howard giơ tay táng thẳng vào khuôn mặt xấu xí của
tên triệu phú. Ngón đòn quá nặng, suýt chút nữa thì Proctor đã cùng chiếc ghế
lăn ngả nghiêng sang một bên. May mà gã còn kịp giữ được thăng bằng trong giây
cuối.
Howard phá ra cười.
- Đó chỉ lá một phần nhỏ của những gì đáng ban
thưởng cho mày. Gìơ thì dẫn chúng tao đến chỗ bọn tù. Nhanh lên!
Proctor xoay ghế lăn. Gã trôi từ từ vào phần bên
trong lô cốt.
Bọn đàn ông đi theo. Howard đi đầu. Lũ cướp biển đã
rút vũ khí ra. Những lưỡi gươm và những lưỡi dao găm lóe ánh thép trong bầu
không khí lạnh lùng của những cây đèn néon. Tiếng gót ủng nện xuống nền bêtông
nghe như tiếng súng.
Cả năm gã đàn ông trông đều hung dữ, thô dại. Hai
trong số chúng buộc trên đầu những cái khăn màu đỏ chói. Một tên khác đeo một
chiếc khuyên bằng vàng rất lớn bên tai trái, trên dây lưng giắt bốn con dao. Cả
nhóm đứng lại trước chiếc thang máy nằm lọt trong một hốc tường nhỏ. Bàn điều
khiển lóe sáng khi ca bin đi lên trên.
Không một tên đàn ông nào nhìn thấy Ali, gã người Ả
Rập đang nấp trong một góc hành lang. Gã lé mắt nhìn ra và một nụ cười ma quỷ
thoáng đọng lại trên làn môi mỏng dính. Thang máy mở ra. Ca bin đủ rộng để chứa
tất cả.
Hai cánh cửa dịu dàng khép lại. Thế rồi thang máy
rít lên, lao xuống dưới.
Xuống tới nơi, bọn người đó lại đi dọc hành lang
khác. Hành lang kết thúc trước một cánh cửa, đằng sau đó là khoảng hầm chứa tù
nhân.
Dưới lệnh phát ra từ bộ phận điều khiển từ xa, cánh
cửa được kéo sang bên.
Những dáng hình hung tợn bước vào nhà giam, nơi
chứa những con người tội nghiệp đang sợ hãi ngồi co quắp lại như một bầy thú
nhỏ, đờ đẫn nhìn về phía trước. Sau cái chết của Adam Preston, họ đã từ bỏ mọi
niềm hy vọng.
Chỉ trừ một người còn đủ lòng dũng cảm để cất cái
đầu người chết sang bên, những người khác không ai dám nhìn vào ánh mắt đã tắt
ngang đó.
Năm con ma cướp biển nhanh chóng tản ra trong
phòng. Chúng chia nhau đứng để quan sát toàn bộ đám tù nhân.
Basil Proctor cùng ghế lăn dừng lại bên cánh cửa.
Gã đàn ông đang rất khó chịu trong người. Cặp má gã vẫn còn cháy bừng lên vì ngón
đòn ban nãy, mồ hôi túa ra từ tất cả những lỗ chân lông.
Howard nắm lấy quyền chỉ huy.
- Đứng lên! – Gã ra lệnh cho các tù nhân.
Không ai phản ứng. Những ánh mắt sợ hãi của nhóm
người khốn khổ hướng về phía những gương mặt nhợt nhạt của bọn ma cướp biển.
Nỗi giận dữ bốc bừng lên trong Howard. Gã đã quen
thấy người ta tuân lệnh ngay lập tức. Chuyện chậm chạp này chưa bao giờ xảy ra.
Mặt đằng đằng sát khí, gã hoa tiêu rút kiếm ra khỏi bao. Lưỡi kiếm rít lên
trong không khí, lao về phía Cliff Kelland.
Mary Kelland hét lớn.
Tiếng hét của cô hòa lẫn tiếng tát khi lưỡi kiếm
đập ngang má Cliff.
Người đàn ông giật nảy người lên. Da gò má anh bị
rách. Một vài giọt máu bật ra từ vết thương. Trông chúng như những hòn ngọc nhỏ
thẫm màu trên làn da sáng.
Howard xoay người, lưỡi kiếm xoay theo.
- Còn đứa nào dám chần chừ nữa không? – Gã hỏi.
Không câu trả lời. Tên cướp biển cười lớn.
- Đứng dậy, mày đi đầu! – Gã hét và tóm lấy tóc
Linda Grey. Người đàn bà rên rỉ, thân thể mềm như cọng bún.
Nathan Grey đứng dậy, muốn giúp vợ mình, nhưng một
tên cướp biển đã chặn ngang đường. Mũi dao của hắn chỉ vào giữa ngực người
chồng.
Điếng hồn, người đàn ông lảo đảo lùi về.
Howard đã thả Linda ra. Người đàn bà cùng ông già
tóc bạc cất bước, lảo đảo đi về hướng cửa. Khi đi ngang qua chỗ Basil Proctor,
ông già tóc bạc rít lên trong nỗi căm hờn.
- Người ta phải xẻ mi ra làm bốn miếng, đồ con lợn!
Chính mi đã lừa bọn ta vào đây!
Gã đàn ông trong ghế lăn không trả lời.
Điều duy nhất gã quan tâm tới lúc này là tình huống
tồi tệ của bản thân gã.
Một hàng người buồn bã chuyển động dọc hành lang
hướng về thang máy. Những bàn chân lê lết thảm hại, những bờ vai trĩu xuống, họ
đi về hướng số phận u ám đang chờ đợi.
Họ phải chia làm hai nhóm theo thang máy đi lên vì
ca bin không đủ rộng để chứa tất cả. Có hai tên cướp biển ở lại canh chừng.
Cuối cùng đến lượt Basil Proctor. Hắn đi cùng Howard. Khi hai tên đàn ông rời
thang máy, da mặt tên triệu phú tứa máu, còn tay lái tàu thì phì ra nét hả hê
trong một nụ cười tàn nhẫn.
Mọi người ra tới phía ngoài. Đã rất lâu rồi những
tù nhâ mới được đứng giữa bầu trời trong lành, họ hít không khí thật sâu vào
phổi. Mắt họ nhìn con tàu ma đang thấp thoáng hiện ra phía sau bức tường sương
treo lơ lửng trên mặt nước mà lấy làm kinh sợ.
- Ta đi tới đó. – Howard giải thích và bật cười
chát chúa.
Những con ma cướp biển xua đám tù nhân đi về hướng
khuôn vịnh nhỏ. Con thuyền đủ lớn để chở tất cả một lần. Nhóm tù nhân ngồi sát
nhau trên ghế dài. Bọn đàn ông phải chèo thuyền.
Giọng ra lệnh chát chúa của tên
lái tàu làm nhiệm vụ giữ nhịp. Và cứ như thế, những con người đó được đưa về
với Tử Thần đang chờ họ.......
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét