CHƯƠNG 3
Tất cả những bạn bè ở London của tôi đều bị sốc trước cái chết của Tanith.
Tôi gọi điện báo cho họ biết, và dĩ nhiên câu hỏi đặt ra là liệu tôi có cần giúp đỡ gì không.
Tôi muốn tự mình xem xét trong giai đoạn đầu, nhưng cũng thông báo địa chỉ để bạn bè biết cần phải tìm tôi ở đâu khi cần thiết.
Vùng
quê mà người dân Pháp gọi là Bretangne có một bãi biển rất dốc ở phía
Tây. Người ta gặp ở đây những vệt đá kỳ lạ, nhiều vách núi hùng vĩ, mọc
thẳng đứng như những bức tường chống giữ những con sóng tràn vào từ
ngoài khơi. Tôi đã biết những tảng đá tương tự như vậy ở miền Cornwalll,
mà dân cư ở Bretangne cũng thưa thớt y như vùng đất anh em của nó tại
nước Anh. Có những bãi biển rất dài hoàn toàn chẳng có một ngôi làng
nào, chỉ lâu lắm mới có một trang trại cô đơn, hoặc nhô lên một thành
lũy rất cổ. Một mảnh đất tuyệt vời với những người yêu thiên nhiên, cô
độc mang đạm dấu ấn của ngọn gió tây.
Một mảnh đất thấm đẫm những huyền thoại bí ẩn.
Từ Paris, tôi thuê một chiếc xe và cùng nó đi về hướng Tây.
Trước
mắt tôi là một bài toán khó. Tôi phải tìm cho ra ngôi nhà nơi người họa
sĩ đó đang sinh sống. Nó không nằm trong một ngôi làng, mà cũng chẳng
nằm trong thị trấn. Chắc chắn người đàn bà này sống trong một ngôi nhà
hẻo lánh bên cạnh những vách đá, để có thể toàn tâm toàn lực phục vụ cho
công việc của mình.
Chiếc Ranault ngoan
ngoãn thực thi nhiệm vụ, nhưng tôi bỗng thấy mệt mỏi và sau một vài
tiếng đồng hồ đi đường, tôi quyết định nghỉ đêm trong một ngôi làng bên
đường.
Chắc nó phải nằm ở giữa khoảng
đường từ Paris xuống Bretangne. Đêm đó tôi ngủ không yên. Cái chết của
Tanith là một đòn quá mạnh, và đến ngày hôm sau, tôi tiếp tục lên đường
với một cơ thể và trí óc mệt mỏi.Thời
tiết tỏ ra hiền hòa. Thật ra tôi đã tính là trời sẽ mưa, nhưng thay vào
đó, tôi càng đi về phía tây bao nhiêu thì trời càng sáng ra bấy nhiêu.
Khung
cảnh hai bên đường trở nên hẻo lánh, cô đơn hơn. Những ngôi làng nhỏ
hay những nhóm nhà mỗi lúc một trở nên thưa thớt, những khu đất bằng và
trống trải nhiều khi trải rộng tới tận chân trời.
Ngang
bên đường, tôi nhìn thấy những con cừu, những đàn bò và những cánh đồng
trồng lương thực rất lớn, chúng chuyển động trong gió như một bãi biển
khổng lồ. Mặt trời bây giờ ló ra, lộng lẫy sáng rỡ giữa không trung.
Những tia nắng chiếu thẳng vào bên trong chiếc Renault nho nhỏ.
Ngôi làng có tên là Pont-Even. Nó là địa phương nằm gần mục tiêu của tôi nhất. Tôi định dừng xe lại ở đó để hỏi đường đi.
Ngôi làng có tên là Pont-Even. Nó là địa phương nằm gần mục tiêu của tôi nhất. Tôi định dừng xe lại ở đó để hỏi đường đi.
Qua một cây cầu cổ lỗ bằng đá và sau đó là những đoạn đường lót gạch, tôi lăn bánh vào thôn Pont-Even.
Người
dân ở đây có vẻ thô kệch và kín đáo. Tôi nhận ngay ra điều đó khi bước
vào một quán rượu. Khách ngồi chẳng đáp lại câu chào hỏi của tôi, chỉ
chăm chăm chú ý đến món ăn và thức uống của họ.
Tôi gọi một tách cà phê lớn. Phải hỏi đến lần thứ ba, tôi mới được người ta chỉ đường đi.
Câu trả lời của người bồi bàn nghe thấp thoáng màu sắc cấu kỉnh, khó chịu.
Hình như người họa sĩ đó không được ai yêu mến.
Tôi hỏi nguyên nhân.
– Đó là người lạ. – Người ta chỉ trả lời đơn giản như vậy thôi. Ngồi thêm một chốc, tôi trả tiền rồi đi tiếp.
–
Tôi không gặp khu cư dân nào nữa. Con đường nằm như một mảnh vải mỏng
manh giữa một khung trời xanh tươi, mỗi đoạn một thấm đẫm nhiều hơn
những màu sắc của biển cả.
Cỏ không còn mơn mởn nữa. Trông chúng đã ngả màu rơm.
Con
đường dốc nhẹ lên trên. Tôi đã mở một cửa sổ xe. Không khí bên ngoài
bây giờ có mùi vị khác lạ. Nó vừa tươi hơn, thoáng đãng hơn vừa đậm mùi
muối. Thấp thoáng xa xa đã vang lên tiếng gào của sóng biển.
Chiếc
Renault nhảy chồm chồm qua một con đường đất. Nhựa đường ở đây là thứ
hàng cao cấp mà người dân không biết tới. Thích thoảng đã hiện ra một
vài tảng đá khổng lồ. Những khối đá sáng màu, to bằng cả một ngôi nhà,
tựa như được bàn tay của kẻ khổng lồ thuở trước vung tung tóe xuống mảnh
đất này.
Chiếc xe lăn bánh về hướng một khoảng đất bằng phẳng.
Mặt
trời mùa hè phủ xuống vạn vật làn ánh sáng mờ. Ánh phản quang của nó
phủ lên lớp cỏ mỏng màu nâu xanh trông như mái tóc vàng và dài của một
cô gái trẻ, mái tóc đang được chải không phải bằng lược mà bởi những
ngọn gió.
Chẳng bao lâu sau, việc lái xe
trở thành khó khăn. Đất bây giờ lẫn lộn quá nhiều cát, khiến bánh xe rất
khó quay. Nhưng máy xe đã cặm cụi làm nhiệm vụ của nó và cuối cùng tôi
cũng đến được khoảng đất bằng phẳng nọ.
Khoảng đất bằng phẳng này có độ rộng của một sân bóng đá. Không thể đi tiếp được, tôi dừng lại và bước ra khỏi xe. Ngay lập tức, làn gió tới đón tiếp tôi.
Khoảng đất bằng phẳng này có độ rộng của một sân bóng đá. Không thể đi tiếp được, tôi dừng lại và bước ra khỏi xe. Ngay lập tức, làn gió tới đón tiếp tôi.
Nó thổi từ phía trước, hất ngược mái tóc và mang theo vô vàn những hạt cát nhỏ li ti, phủ lên mặt, bám vào da vị khách mới tới.
Tôi ngửi thật rõ mùi vị của mảnh đất xung quanh, hít nó vào phổi, và bước đến bên rìa vách đá.
Sau
mỗi bước chân, tiếng gầm gừ và vật vã của những ngọn sóng lại mạnh hơn
lên. Khi đã đến bên rìa đất và nhìn xuống dưới, tôi thấy những con sóng
đang nổi bọt. Chúng lồng lộn đập vào vách núi như một con thú dữ luôn
luôn tìm cách tấn công trở lại, mặc dù lần nào cũng bị chặn ngang. Những
tia nước bắn vọt lên thật cao, và khi ánh nắng mặt trời chiếu qua đó,
chúng tạo thành những vệt cầu vồng yếu ớt.
Một
khung cảnh giành cho các nhiếp ảnh gia. Đằng xa kia là Đại Tây Dương.
Một sa mạc nước dài vô tận. Xám xịt, dập dềnh, thỉnh thoảng có gài những
chiến lược bằng bọt trắng.
Ngôi nhà ở đâu?
Khi
nhìn về bên phải, tôi thấy một cái vịnh nhỏ. Hai vách đá nhô về phía
trước, che chở ngôi nhà trước tính khí cuồng nộ của biển, và lấy đi ba
phần sự hung hãn của sóng bể, chỉ còn lại những làn nước tương đối yên
tĩnh chạy hiền hòa lên một bải cát.
Nhìn
từ vị thế này, tôi trông thấy một dáng người trông chỉ như một chấm nhỏ
vô cùng tận. Tôi nhìn thấy nó chạy ra khỏi những cơn sóng, rồi nằm xuống
làn cát. Chỉ khi nheo mắt nhìn thật kỹ, tôi mới phát hiện ra một mái
tóc thật dài và biết đây là một cô gái.
Có phải đó là Fedora?
Có
lẽ. Tôi tìm đường leo thẳng xuống, nhưng gò đất quá dốc. Vì vậy, tôi
quyết định quay trở lại xe, tin rằng mình đã đi lầm đường. Tôi cho xe
lùi một đoạn, rồi quả thật tìm thấy con đường thứ hai, nối vào con đường
thứ nhất.
Theo cái nhìn dự đoán đầu tiên, con đường mới này có lẽ sẽ hướng về nơi tôi đã nhìn thấy con vịnh nhỏ và một bãi cát mịn.
Quả
tôi đã không lầm. Con đường không dẫn lên một tầng đất cao hơn, mà chạy
thoai thoải xuống dưới. Nó uốn vòng như một con rắn về hướng biển, rồi
cuối cùng đổ vào cái vịnh nhỏ mở ra trước mặt tôi một hình bán nguyệt.
Ngay lập tức, tôi cũng nhìn thấy ngôi nhà. Trước khi tới đây, tôi cứ nghĩ là mình sẽ gặp một ngôi nhà cũ, cổ lỗ. Nhưng bây giờ tôi bất ngờ trước hình dáng hiện đại của nó. Người ta đã sử dụng gỗ làm chất liệu xây dựng chính. Trước mắt tôi bây giờ, tức là phía đằng sau ngôi nhà, là một nửa mái nhà lợp ngói rất dốc. Lên tới đỉnh, mái gập về phía bên kia một chút, có hình dáng gần giống như một chiếc Bungalow. Tôi nhận ra điều đó khi lái xe đi ngang ngôi nhà, qua một khoảng vườn nhỏ.
Ngay lập tức, tôi cũng nhìn thấy ngôi nhà. Trước khi tới đây, tôi cứ nghĩ là mình sẽ gặp một ngôi nhà cũ, cổ lỗ. Nhưng bây giờ tôi bất ngờ trước hình dáng hiện đại của nó. Người ta đã sử dụng gỗ làm chất liệu xây dựng chính. Trước mắt tôi bây giờ, tức là phía đằng sau ngôi nhà, là một nửa mái nhà lợp ngói rất dốc. Lên tới đỉnh, mái gập về phía bên kia một chút, có hình dáng gần giống như một chiếc Bungalow. Tôi nhận ra điều đó khi lái xe đi ngang ngôi nhà, qua một khoảng vườn nhỏ.
Con
đường dẫn xuống bãi biển hòa vào một nền cát mịn. Tôi cho xe lăn bánh
đến vách đá cao chắn gió rồi tắt máy. Bước khỏi xe, tôi tiến lại gần
ngôi nhà.
Hiên nhà hướng về phía biển, cửa
đang mở. Tôi nhìn vào trong và phát hiện ra một căn bếp cùng một phòng
khách rất rộng, được trang hoàng trông ấm cúng và có vẻ vững chãi.
Không một bóng người.
Tôi
nhớ lại cô gái mà tôi đã nhìn thấy từ gò đất trên cao. Chắc chắn cô ta
vẫn còn ở bãi biển kia. Tôi quyết định tới gặp và hỏi thăm cô ta bởi
không thể tự nhiên bước chân vào một ngôi nhà lạ.
Tôi
bước đi chầm chậm qua bãi cát, rồi phát hiện cạnh một túp lều hình nấm
bằng khung gỗ lợp rơm một vài phần trang phục. Vẫn không thấy bóng dáng
của cô gái.
Chỉ tới khi những làn sóng
trào tới đã gần chạm vào người, tôi mới dừng chân lại. Ánh nhìn lướt qua
mặt nước, những làn sóng của nó phản chiếu ánh mặt trời và khiến tôi
lóa mắt. Cánh tay người vẫy thật khó nhận ra.
–
Này ông, ông muốn đi đâu vậy? – Giọng nói ném câu hỏi về phía tôi còn
rất trẻ, trong vắt, và chỉ sau đó một thoáng, một cô gái rất trẻ bước
lên từ mặt nước, có vẻ như cô chẳng quan tâm tới chuyện một người lạ
đang nhìn cô lõa thể.
– Thở dồn dập, cô bé dừng lại trước mặt tôi và giơ tay vắt tóc.
– Ông muốn đến thăm chúng tôi hay sao?
– Vâng, tôi tìm Fedora ...
– Đó là mẹ tôi. – cô gái nhanh nhảu nói và đưa bàn tay còn ướt cho tôi bắt. – Tôi là Lisa Golon, con gái Fedora.
– Tôi tên là John.
– Nghe như tên của người Anh.
– Đúng vậy. – Tôi nhìn thấy làn da cô bé đang dợn lên vì lạnh. – Cháu không muốn mặc quần áo vào sao?
–
Thế thì tốt hơn. – Cô bé cười và chạy ngang người tôi, hướng về túp lều
bằng nấm, cầm lấy chiếc khăn bông và lau khô tóc. Sau đó, cô mặc quần
áo vào.
– Chú muốn gặp mẹ cháu làm gì? – Cô bé hỏi khi nhìn thấy tôi bước vào dưới mái che.
– Chú muốn nói chuyện với bà ấy.
–
Về chuyện gì? - Cô bé đột ngột cười vang. – Nhưng cháu nghĩ ra rồi,
chắc chú quan tâm đến những bức tranh của mẹ cháu. Đúng không nào?
– Có lẽ thế!
Cô bé nhún đôi vai mỏng manh.
– Nhưng cũng có thể chú muốn bàn chuyện làm ăn với ba cháu? Nếu thế thì chú phải chờ lâu đấy. Tối nay ba cháu mới về.
– Không, không, chú chỉ muốn nói chuyện với mẹ cháu thôi. Kể cả về Paris!
– Tôi thêm vào câu cuối cùng.
– Ô! Hay quá, thành phố đó rất đẹp. Mẹ cháu vừa ở Paris về đấy.
– Chú biết!
– Chú có gặp mẹ cháu ở đó không?
– Không, nhưng cả hai chúng tôi cùng quen một người. Bà ấy tên là Tanith. Cháu đã nghe thấy cái tên này chưa?
Lisa không mang giày. Cô bé thò ngón nhân cái sục cát lên, suy nghĩ.
– Chưa, cháu không quen bà nào tên Tanith cả. Bà ấy sống ở đâu ạ? Có phải ở Pont-Even?
– Không, ở Paris.
–
Ra thế. – Cô bé cười. – Chú biết không, chú John, cháu chẳng mấy quan
tâm đến việc làm của mẹ cháu đâu. Cháu không thích những bức tranh đó.
– Tại sao cháu lại không thich chúng?
Cô bé tiếp tục thò ngón chân xoay xoay trong cát.
– Sao cháu thấy chúng u ám và bi quan quá.
– Có phải mẹ cháu cũng vậy không?
– Mẹ cháu có thể thuộc loại người hướng nội, ít nhất là khi bà vẽ tranh.
Nhưng lúc khác thì và rất bình thường. – Lisa cười. – Chú đã vào nhà chưa? – Cô bé hỏi tôi.
– Chưa, tại chú không nhìn thấy mẹ cháu.Cô bé xoay người.
– Kỳ thật. Mẹ nói là sẽ ngồi đó chờ và nấu ăn cho cháu.
– Nhưng chú cũng chỉ mới nhìn qua hàng hiên thôi.
– Thế thì chắc mẹ đang ở phòng khác. Đi nào, chú John, ta vào nhà thôi! – Cô bé giơ tay vẫy tôi và đi trước.
Tôi
nhìn sau lưng cô bé. Hai cánh tay cô chuyển động nhịp nhàng cùng với
mỗi bước đi, thế rồi đột nhiên, tôi nhìn thấy một vệt thẫm màu trên hai
bàn tay đó. Cái thứ thẫm màu ấy chảy dọc theo những ngón tay, tụ lại
nặng lên, và chỉ một nửa tích tắc sau, nó nhỏ những giọt đầu tiên xuống
cát.
Để lại những vệt màu đỏ.
Máu!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét