Long Châu, những ngày rong ruổi
Long Hồ và Long Châu là hai
hiếc tàu tư nhân. Long Hồ chuyên chở gạo và Long Châu là tàu dầu thường
di chuyển trên vùng duyên hải Việt Nam, từ Nam ra Trung và ngược lại.
Đôi khi hai chiếc tàu này cũng chuyên chở hàng hóa trên trục Sài Gòn -
Nam Vang.
Vào
đầu tháng Tư Long Châu chứa đầy xăng dầu đang nằm ở Đà Nẵng, trong
những ngày tình hình sôi nổi của cuộc chiến Long Châu quay đầu trở lại
Vũng Tàu khoảng giữa tháng Tư. Trên đường vào Vũng Tàu Long Châu chở hơn
một tiểu đội lính Lôi Hổ, một Đại Tá Cảnh Sát và người “tài lọt”. Đến
Vũng Tàu hầu hết lính Lôi Hổ và cơ khí chạy máy xuống tàu Long Châu trở
lại với gia đình.
Trưa
29 tháng 4 Long Hồ từ cảng Sài Gòn, kho 5, ra đi và hội ngộ cùng Long
Châu sáng 30 tháng 4 ngoài khơi Vũng Tàu. Lúc đó Long Châu có người lái
tàu là quan tàu Kh, nhưng không có người chạy máy (vì người thợ máy từ
Đà Nẵng vào đã xuống tàu trở lại với gia đình).
Vì
muốn đưa tài sản và số xăng dầu ra nước ngoài, chủ nhân của Long Hồ và
Long Châu, sáng 30 tháng 4 đã liên lạc thỏa thuận, đồng ý trả một số
vàng và đô la để mướn ba người thợ máy theo Long Hồ ra Vũng Tàu qua chạy
máy cho Long Châu. Ba thợ máy đó có hai anh em anh Hoàng (Hoàng và N)
và một người bạn (Si), họ đều tốt nghiệp trường Việt Nam Hàng Hải, từng
đi tàu hoặc có kinh nghiệm điều hành máy tàu.
Trên
Long Châu có gia đình quan tàu Kh (cha, mẹ, vợ, một người con và cô em
vợ), cùng với anh chị em và thân nhân của anh Hoàng (anh K, chị Th vợ
anh K, bé Kt con của anh K, T, N, S, Th, H, C và tôi.) Những người này
đã có mặt trên Long Châu hoặc từ Long Hồ chuyển qua từ sáng 30 tháng 4,
ngoại trừ tôi. C sau khi đến Guam vì nhớ gia đình người thân nên đã cùng
với 1545 người khác ngày 16 tháng 10, 1975 tự nguyện lên tàu Việt Nam
Thương Tín trở về Sài Gòn. Nhưng khi Việt Nam Thương Tín đến Vũng Tàu
thì những người này bị bắt và đưa thẳng vào nhà lao.
Chiếc
radio nhỏ trên Long Châu lúc nào cũng oang oang loan tin từ đài phát
thanh Sài Gòn. Khoảng 10:30 trưa 30 tháng 4, 1975 sau lệnh buông súng vô
điều kiện của Tổng Thống Dương Văn Minh được loan đi từ đài phát thanh
Sài Gòn thì những con tàu và đoàn người ngoài khơi Vũng tàu không còn lý
do gì để lảng vảng đây nữa. Tất cả quay đầu ra đi. Từ đây đoàn người sẽ
ra đi tìm Tự Do mọi nơi. Hầu hết gia đình binh lính Lôi Hổ và những
người trên tàu đánh cá được Đệ Thất Hạm Đội Th Bình Dương vớt và đưa về
Subic Bay, đảo Guam hoặc Wake.
Long Hồ và Long Châu cũng rời Vũng Tàu lên đường.
Gió
biển thổi tung bay ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ bay hiên ngang trong
gió mặc cho lời tuyên bố đầu hàng của vị nguyên thủ quốc gia đã loan đi.
Biển cả bao la và mênh mông, con thuyền cứ bềnh bồng rời xa bờ bến cũ.
Tôi hỏi thì được anh Hoàng cho biết thuyền đang chạy về hướng Nam, và
chưa biết sẽ đi về đâu. Tôi lảng vảng trên tàu rồi xuống hầm máy nghe
tiếng máy nổ nhức tai lại chạy lên boong tàu. Thời gian trôi qua thật
chậm. Không gì làm tôi thấy mình như dư thừa, tôi hỏi anh Hoàng:
-“Sao tàu trống rỗng như vầy mà không cho người ta lên đi?
- Không
được. Không thể để nhiều người lên tàu được vì bà chủ tàu muốn mang tàu
đi Panama. Người tỵ nạn đâu muốn đi Panama, có họ khó xử lắm.
- Nói vậy tui cũng đâu muốn đi Panama, sao kỳ vậy?
- Tụi mình thì khác. Đến đó rồi hãy tính.
Biết
không thể thay đổi được gì tôi làm thinh và chỉ nhìn xa xa trên biển
cả, nhớ về gia đình anh em. Có lẽ mỗi con người đều có định mệnh, tôi
nghĩ người đáng ra đi có lẽ là anh Hát chứ không phải tôi! Và có lẽ định
mệnh đã xếp đặt cho Phương không có mặt ở nhà buổi chiêu hôm ấy, để tôi
phải xa Phương! Từ đây những tâm tư về gia đình và người thân rồi cũng
trở thành một thứ ký ức, và những bước đi vẫn phải tiếp tục mang theo
những ký ức đó.
Con
tàu cứ ra đi và bóng đêm thì cứ lại gần. Chúng tôi, những đứa bạn cùng
trang lứa, cùng khóa học, cùng đứng trên ngưỡng cửa học đường và cùng mơ
ước cho một tương lai - S, H, Th, N, và tôi. Đêm nay cùng ngồi trên
boong tàu, nhìn lên bầu trời đầy sao mà suy ngẫm: không biết vì sao nào
của mình, của tuổi trẻ Việt Nam! Tiếng máy tàu vẫn nổ xình xịch đều
đặng, và Long Châu Long Hồ vẫn nối đuôi đi trong đêm trường.
Sáng
ngày hôm sau, mọi nguời thức giấc con tàu vẫn xình xịch chạy về phương
Nam. Nhìn quanh ba bên bốn phía chỉ thấy toàn là biển mênh mông. Tàu
chạy khoảng chừng 10 hải lý một giờ, chúng tôi, những người rảnh rỗi
nhất trên thế gian lúc này, lấy lưởi câu móc mồi thả đại xuống biển mua
vui may đâu bắt được cá. Không ngờ bất thình lình dây câu căng thẳng và
từ xa phía sau con tàu một con cá nhảy tung lên mặt nước. Ngay lập tức
chúng tôi báo phòng máy cho tàu chạy chậm lại, rồi từ từ kéo giây câu
về. Một con cá rất lớn dính câu, đang vùng vẫy trong nước. Chúng tôi vui
mừng reo hò cùng nhau kéo cá về, con cá vùng vẫy chạy loạn xạ trong
dòng nước, cố phấn đấu để được tự do, nhưng rồi cuối cùng cũng bị mang
lên boong tàu. Đó là con cá Dũa, miệng dài và nhọn nặng cở 25 ký! Ngày
hôm đó mọi người trên tàu có một bửa cá ăn no say.
Con tàu vẫn tiếp tục đi.
Đến ngày thứ ba, bà chủ tàu bên Long Hồ liên lạc qua bảo Long Châu và Long Hồ đều phải ghé Singapore.
Ông Si, người thợ máy và là bạn của anh Hoàng, phản đối lời nói của bà chủ tàu, nói:
- Tại
sao phải ghé Singapore mà không đi thẳng xuống Úc Đại Lợi luôn? Không
phải bà chủ tàu đã thỏa thuận như vậy khi còn ngoài khơi Vũng Tàu sao.
Ông Kh, thuyền trưởng nói:
- Phải ghé Singapore để lấy thêm nhiên liệu và thực phẩm.
- Gạo chứa đầy tàu rồi. Bộ xăg không đủ xuống đến Úc sao?
- Không. Xăng không đủ đi xa như vậy được. - Ông Kh trả lời ông Si.
Vậy là cả Long Hồ và Long Châu phải ghé hải cảng Singapore.
Khi
Long Hồ và Long Châu cập bến, chính quyền Singapore ra lịnh mọi người
phải rời khỏi tàu. Nhóm anh Hoàng và ông Si thấy có điều gì không ổn và
chống đối không chịu rời khỏi tàu. Theo lời của ông Si thì bà chủ tàu
đồng ý trả một số tiền và vàng cho ông Si và nhóm anh Hoàng để đưa tàu
đến Úc hay Panama. Nhưng khi đến Singapore thì được biết chồng của bà
chủ tàu đã có mặt tại Singapore, hai vợ chồng chủ tàu đồng tình với
chính quyền Singapore buộc mọi người phải xuống tàu, điều này đã làm bất
mãn ông Si và ông này cự tuyệt, không chịu rời tàu, chỉ đòi tiếp tế
nhiên liệu xong sẽ lên đường. Sau một thời gian dàng xếp, điều đình,
nhân viên hải cảng Singapore bảo nhóm anh Hoàng và ông Si sau khi xuống
tàu, khám sức khỏe, chích thuốc và lấy thêm lương thực xong sẽ cho trở
lại tàu tiếp tục đi. Trước lời đề nghị của hải cảng Singapore mọi người
rời tàu lên bờ ngoại trừ ông Si và hai anh em anh Hoàng. Các anh ấy bảo
với chúng tôi trước khi bước xuống tàu, rằng:
“Tụi
bây cứ xuống đi, ba đứa tao sẽ ở lại đây coi tàu. Tao nghĩ chắc họ lật
lọng muốn nuốt tiền công của tụi tao nên bày đặc cái vụ khám bịnh chích
thuốc này chứ mình có bịnh hoạn gì mà phải khám phải chích. Có biết bao
chủ tàu khác ở cảng Sài Gòn mướn mình lái tàu họ đi mà mình đồng ý lái
tàu bà này thì bả phải trả tiền công theo hợp đồng sáng 30 tháng 4 chứ.”
Nói xong
chúng tôi, những người trẻ và đàn bà con nít, không liên cang gì đến
hợp đồng giữa chủ tàu và những người thợ máy, đều xuống tàu khám bịnh
chích thuốc.
Sau
khi mọi người đều xuống chỉ còn lại ba người chống đối không chịu rời
tàu và ôm súng cố thủ con tàu. Lập tức nhân viên hải cảng Singapore điều
động một tiểu đội lính Singapore đến cô lập chiếc Long Châu. Trước sự
áp bức của nhân viên hải cảng và sự lật lọng của chủ tàu ông Si chống
đối đến cùng và đã tỏ thái độ bằng cách mang trái lựu đạn của lính Lôi
Hổ để lại trên tàu, ném xuống biển nổ vang rền làm nước tung tóe. Tiếng
nổ của quả lựu đạn trên cảng Singapore bên cạnh chiếc Long Châu chứa đầy
xăng dầu đã làm đám lính và nhà chức trách trên hải cảng Singapore trở
nên căng thẳng. Toán binh lính chạy loạn xa, la hét như chưa từng đánh
giặc. Những người lính Singapore ôm súng lên đạn két két, người này quì
sau lưng người kia trên sân tàu. Tôi thấy những người lính Singapore run
sợ đến nổi thay vì chỉa súng lên Long Châu họ lại chỉa ngay vào đầu
người chiến binh phía trước họ. Sau giây phút đó Long Châu chỉ còn ba
người và một số lựu đạn, súng ống. Những tiếng loa kêu gọi ba người nên
bỏ cuộc, nhưng vô hiệu nghiệm. Câu chuyện rất bình thường lại trở nên
gay cấn và trở thành sự đối đầu giữa cảnh sát Singapore và Long Châu,
cũng chỉ vì lòng người thay đổi! Nhưng toán lính án binh bất đông trên
hải cảng, một hồi sau nhân viên hải cảng trao vị Đại Tá Cảnh Sát lúc
trước xuống tàu khám bịnh chích thuốc trở lại tàu Long Châu.
Phần
chúng tôi, những người vừa bước xuống tàu để khám bịnh chíct thuốc thì
bị giữ lại không cho trở lại tàu và cũng không khám bịnh chích thuốc gì
cả.
Một
tiếng rồi hai tiếng đồng hồ trôi qua không một tiếng động phát ra từ
Long Châu. Những người lính Singapore vẫn án binh trên sân tàu. Bất chợt
sân tàu giấy động, viên Đại Tá Cảnh Sát bước ra và nói đã bắt trói ba
người kia rồi! Sau này chúng tôi biết là viên Đại Tá này đã thông đồng
và lấy tiền bà chủ tàu trở lại tàu ve vảng, chờ lúc ba người kia mệt mỏi
ngủ, và không để ý thừa cơ bắt họ giao lại cho cảnh sát Singapore.
Vậy
là xong, nhóm ba người anh Hoàng bị bó tay. Và những người còn lại
trong nhóm anh Hoàng chín người, trong đó có tôi, đều bị cô lập trong
một khuông viên rộng lớn.
Một
tuần sau chính quyền Singapore gom góp những người vượt biên tỵ nạm và
những chiếc tàu có khả năng vượt trùng dương mang ra cho đi. Chúng tôi
biết tin về nhóm ba người anh Hoàng rất giới hạn, chỉ biết các anh vẫn
còn cô lập trên Long Châu.
Hôm
đó khoảng ngày 10 tháng 5 năm 1975 chín người chúng tôi được mang ra
chia năm xẻ bảy thành nhiều nhóm nhỏ và từng cá nhân riêng biệt, đưa lên
những chiếc tàu được trang bị lương thực để tiếp tục cuộc hành trình
tìm tự do. Khi ra sân tàu thì S, N, vợ chồng anh K và đứa con nhỏ được
đưa lên Long Hồ. Còn lại bốn đứa chúng tôi: Th, H, C và tôi thì bị xé lẽ
và đưa lên ba con tàu đánh cá nhỏ. Ba con tàu đánh cá đó là Việt Thủy
1, 2, 3. Có nghĩa là những người cùng rời Vũng Tàu trên chiếc Long Châu
giờ này đều bị tan hàng, mỗi người một nẻo.
Trưa
ngày 10 tháng 5 sân tàu hải cảng Singapore nhộn nhịp với hàng ngàn
người tỵ nạn nhôn nháo trên ba con tàu đậu san sát nhau. Long Hồ và Long
Châu cũng được đưa lên đầy người và đậu cách biệt với ba chiếc tàu đánh
cá Việt Thủy.
Tôi
không ngờ chuyến nhảy xuống biển để trở lại Sài Gòn của tôi cuối cùng
lại đặt chân trên chiếc Việt Thủy mong manh này. Nhìn hàng trăm người
chen lấn nhau trên chiếc tàu đánh cá nhỏ bé, tôi lại nhớ thân phận những
người ướt tả tơi run sợ chấp tay lạy những làn đạn ngoài khơi Vũng Tàu
cách đây hơn một tuần! Tôi nghĩ chắc tôi số con rệp, tàu lớn không đị
lại đi nhảy xuống biển để rồi cuối cùng lại lên chiếc tàu nhỏ mong manh
này. Trong một thoáng suy nghĩ đến bạn bè, và nhìn thấy cảnh náo loạn
không trật tự nơi sân tàu, tôi liền nhảy xuống tàu Việt Thủy 3 đi tìm Th
H và C trên hai chiếc Việt Thủy khác. Khi gặp Th H C tôi nói là ba con
tàu đậu sát bên nhau, hãy lẩn quẩn đâu đây đợi khi nào sắp đến giờ lên
đường thì tất cả đều chuyển qua chiếc Việt Thủy 3 để cùng đi cho đở
buồn. Quang cảnh nơi đây như một buổi chợ, tuy mọi người được chỉ định
đi trên con tàu nào nhưng rồi không ai kiểm soát ai, nên khi đoàn người
đông như kiến thì sự di chuyển lại càng thêm dễ dàng. Và cuối cùng trước
khi tàu rời bến bốn đứa chúng tôi cùng có mặt trên chiếc Việt Thủy 3.
Mấy
ngày đầu tháng 5 năm 1975 làn sóng người rời bỏ quê hương ra đi rất
đông. Họ ra đi bằng mọi phương tiện, tàu lớn, tàu nhỏ, ngay cả những
chiếc ghe chỉ dùng để di chuyển trên sông cũng được tận dụng để vượt
biên. Điểm đến của làn sóng người Việt vượt biên là mọi nơi, mọi quốc
gia ngoài Việt Nam và Trung Hoa. Và Singapore là một đảo quốc nằm phía
nam Việt Nam đã đón nhận nhiều người đến. Nhưng Singapore không có
chương trình định cư nên những người đến đây lần lượt phải tiếp tục lên
đường. Vì vậy mà ba con tàu đánh cá Việt Thủy sau khi đến Singapore lại
được trang bị lương thực, nước uống đầy đủ bởi Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp
Quốc rồi đẩy ra khơi với một tấm bản đồ thế giới, và trên mỗi chiếc Việt
Thủy là hàng ngàn người lớn - bé - già - trẻ - trai - gái chen chúc
nhau trên chiếc tàu không dài quá 15 thước và rộng cở ba, bốn thước, làm
bằng gỗ.
Mặt
trời vừa ngã bóng, cái nắng ban trưa vẫn còn gay gắt, nhưng có lẽ không
ai để ý đến vì đoàn tàu sắp nhổ neo. Long Hồ, Long Châu và những chiếc
tàu sắt đã ra đi. Còn lại trên hải cảng là ba chiếc Việt Thủy. Giây phút
kiểm sóat cuối cùng đã hoàn tất, mọi người đã nhận diện gia đình thân
nhân, ba vị “thuyền trưởng” của ba con tàu đã hứa hẹn nhau cùng nối
đuôi. Sân tàu lặng lẻ, không người tiển đưa, không người bịn rịn, và đặt
biệt không có hồi còi tàu thứ ba, vì đã không có hồi còi tàu thứ nhất!
Ba con tàu lặng lẻ rời bến.
Tôi
nhìn lại sân tàu, một khoảng không gian trơ trụi. Và trước mặt, một
trùng dương bao la. Thằng bạn ngồi bên cạnh rít lên một điếu thuốc đỏ
rực, chuyền tay cho thằng khác, và nói: “Từ đây đến Subic Bay chắc cũng
phải mất một tuần.” Buổi chiều, gió biển rít từng cơn lạnh buốt, và con
tàu không một mái hiên để trú.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét