PHẦN 3 - CHƯƠNG 10
Gió hơi mạnh, những đám mây trắng trôi là là dưới bầu trời xanh ngắt. Cơn bão số 21 quét qua Bán đảo Boso rồi biến mất ngoài khơi theo hướng đông bắc vào buổi chiều muộn ngày hôm qua. Sau đó, tất cả chỉ là một màu nước biển xanh đến nhức mắt. Một ngày mùa thu nắng đẹp và dịu nhẹ, vậy mà Asakawa đang phải đứng trên boong tàu và ngắm nhìn những con sóng trong tâm trạng một kẻ tử tù sắp bị đem ra hành quyết. Đưa mắt lên, gã trông thấy những đỉnh núi trên cao nguyên Izu chạy thành một đường mềm mại. Cuối cùng thì ngày định mệnh đã đến. Lúc này là mười giờ sáng, còn mười hai tiếng nữa. Chắc chắn thời khắc ấy sẽ đến. Thế là đã sắp một tuần trôi qua kể từ lúc gã xem cuốn băng ở Villa Log Cabin. Dài quá... Gã nghĩ. Tất nhiên, gã cảm thấy dài là bởi chỉ trong vỏn vẹn một tuần lễ gã đã phải trải qua tất cả các cung bậc của nỗi sợ hãi mà những người bình thường có mất cả một đời cũng không thể nào hiểu được.
Asakawa
không biết một ngày mắc kẹt trên đảo ấy sẽ có ảnh hưởng thế nào tới vận
mệnh của gã. Trên điện thoại, do quá xúc động nên gã đã trách cứ
Yoshino vì sự chậm trễ trong việc điều tra, nhưng lúc này, khi bình tĩnh
nghĩ lại, gã thấy biết ơn vì thực ra Yoshino đã làm rất tốt. Nếu là gã,
biết đâu sự nôn nóng đã chẳng khiến gã điều tra theo một hướng hoàn
toàn nhầm lẫn?
... Thế lại may. Cơn bão đã giúp mình.
Asakawa
nghĩ thế để khỏi thấy xót xa. Gã đang chuẩn bị tinh thần trước cái
chết, để đừng hối hận rằng đáng lẽ mình phải làm thế này chứ không phải
thế kia.
Manh mối cuối cùng còn lại là ba
trang fax gã đang cầm trên tay. Đó là những thông tin mà Yoshino phải
mất nửa ngày để kiếm được và gửi cho gã hôm qua. Quả là đã tồn tại một
công trình khác thường trước khi Pacific Land Nam Hakone được xây dựng ở
khu vực đó. Tuy nói là khác thường chứ vào thời kỳ đó thì những công
trình như thế nhiều nhan nhản. Ấy là một trại điều dưỡng lao.
Ngày
nay, lao là căn bệnh mà có lẽ không còn mấy ai thấy sợ khi nhắc đến,
tuy nhiên, không hề quá khi nói rằng ta có thể bắt gặp cái tên này trong
mọi cuốn tiểu thuyết thời tiền chiến. Động cơ để Thomas Mann viết nên Núi thiêng (Tên
tiếng Đức là Der Zauberberg. Tác phẩm này được Thomas Mann hoàn thành
năm 1924 và được coi là một trong những tác phẩm có ảnh hưởng nhất của
nền văn học Đức thế kỷ 20) là vi khuẩn lao và cảm hứng khiến Kajii Motojiro (Tiểu thuyết gia Nhật Bản (1901-1932). Các tiểu thuyết của ông chủ yếu lấy cảm hứng từ căn bệnh lao của mình)
ngân lên những khúc ca thanh thản về sự tàn lụi của đời mình cũng chính
là vi khuẩn lao. Tuy nhiên, với việc tìm ra streptomycin vào năm 1944
và hydrazides vào năm 1950, bệnh lao đã không còn cái hương vị văn học
bấy lâu và trở thành một căn bệnh truyền nhiễm hạng bét. Từ triều Đại
Chính đến Chiêu Hoà, số người chết vì bệnh lao mỗi năm lên tới hai trăm
nghìn người, tuy vậy con số này đã đột ngột giảm xuống từ sau Thế chiến.
Mặc dầu vậy, vi khuẩn lao chưa hề biến mất. Mỗi năm, vi khuẩn này vẫn
cướp đi mạng sống của năm nghìn người.
Vào
thời kỳ bệnh lao hoành hành dữ dội nhất, để điều trị căn bệnh này người
ta cần phải được nghỉ ngơi giữa một môi trường yên tĩnh và bầu không
khí trong lành. Theo đó, tất cả các trại điều dưỡng lao đều được xây
dựng trên vùng núi cao nhưng cùng với sự tiến bộ của phương pháp điều
trị khoa học, số lượng bệnh nhân lao giảm dần và người ta buộc lòng phải
thay đổi chức năng của những trại điều dưỡng này. Nghĩa là nếu không
kết hợp với các chuyên khoa khác như khoa nội, khoa đường ruột hay khoa
ngoại thì tình hình kinh doanh sẽ không được đảm bảo. Vào giữa thập niên
70, trại điều dưỡng Nam Hakone cũng phải đối mặt với yêu cầu này. Thế
nhưng, tình thế lúc ấy lại vô cùng khó khăn. Vì nó ở vào một vị trí mà
giao thông quá ư bất tiện. Trong trường hợp mắc lao, thời gian từ lúc
nhập viện cho tới khi ra viện là rất dài, vì thế giao thông không trở
thành vấn đề đáng ngại. Tuy nhiên, đó lại là đòn chí mạng giáng vào bất
cứ ý định nào muốn biến nó thành một bệnh viện đa khoa. Và như thế, trại
điều dưỡng Nam Hakone bị đóng cửa vào năm 1972.
Thế
rồi nó được Pacific Resort Club, tập đoàn chuyên săn lùng các địa điểm
xây dựng sân golf và khu resort để mắt tới. Năm 1975, Pacific Resort mua
lại một dải cao nguyên Nam Hakone bao gồm cả khu đất cũ của trại điều
dưỡng lao và bắt tay ngay vào công việc xây dựng sân golf. Sau đó, họ
lần lượt hoàn thiện các khu biệt thự để bán, khách sạn, bể bơi, câu lạc
bộ thể thao ngoài trời, sân tennis và các dịch vụ nghỉ dưỡng khác. Và
cho đến tháng tư năm nay, tức là cách đây nửa năm, Villa Log Cabin được
hoàn thành.
- Chỗ đấy thế nào? - Vừa mới còn ở trên boong vậy mà không biết từ lúc nào Ryuji đã ngồi xuống cạnh Asakawa.
- Chỗ nào?
- Pacific Land Nam Hakone ấy.
Gã nhớ ra là Ryuji chưa từng đến đó.
- Cảnh đêm rất đẹp.
Âm
thanh của những trái bóng tennis đập binh binh dưới ánh đèn vàng vọt
giữa một không gian mà cảm giác về sự sống rất mờ nhạt lại vang lên
trong tai gã.
... Bầu không khí đó từ đâu ra? Có bao nhiêu người đã bỏ mạng ở khu trại điều dưỡng ấy?
Vừa nghĩ vậy, Asakawa vừa mường tượng lại khung cảnh mỹ lệ của Numazu và Mishima trải rộng trong đêm dưới chân gã.
Asakawa
đổi tờ fax đầu tiên xuống dưới rồi trải rộng tờ thứ hai và thứ ba lên
đùi mình. Tờ thứ hai là sơ đồ phân bố các khu nhà của trại điều dưỡng,
còn tờ thứ ba là hình hài hiện tại của trại điều dưỡng này: toà nhà ba
tầng đỏm dáng được dùng làm trung tâm thông tin và nhà hàng ăn uống của
Pacific Land Nam Hakone. Đó chính là toà nhà mà Asakawa đã xăng xái bước
vào và hỏi một cậu bồi bàn về vị trí của Villa Log Cabin sau khi bất
ngờ tấp xe ngay trước cửa. Asakawa hết nhìn tờ này rồi lại đến tờ kia.
Cái dòng chảy của gần ba mươi năm đang hiện lên thành những hình vẽ. Nếu
không lấy con đường lượn theo sườn núi làm chuẩn, gã không thể nào xác
định được đâu đã từng là đâu trong quá khứ. Asakawa vừa hình dung ra
quang cảnh thực tế trong óc vừa lần theo tấm bản đồ được vẽ trên tờ thứ
hai để xem đã từng có cái gì tồn tại ở nơi mà ngày nay là Villa Log
Cabin. Mặc dù không thể chỉ ra được vị trí một cách rõ ràng nhưng bằng
cách xếp trùng hai tờ fax lên nhau, Asakawa nhận thấy rằng chẳng có gì ở
khu vực của Villa Log Cabin cả. Chỉ có những bụi cây um tùm bao phủ
sườn dốc bên khe núi.
Asakawa quay trở
lại với tờ fax đầu tiên. Ngoài sự biến đổi từ trại điều dưỡng Nam Hakone
thành Pacific Land Nam Hakone, còn một thông tin quan trọng nữa: Nagao
Jotaro, năm mươi bảy tuổi. Đó là một bác sỹ tư kinh doanh phòng khám
khoa nội và khoa nhi ở Atami. Nagao làm bác sỹ tại trại điều dưỡng Nam
Hakone trong năm năm từ 1962 đến 1967. Ấy là vào cái thuở ông ta vẫn còn
trẻ, lúc vừa mới kết thúc chương trình bác sỹ nội trú xong. Những bác
sỹ làm việc tại trại điều dưỡng Nam Hakone thời đó bây giờ chỉ còn lại
hai người là Tanaka Yozo, đang sống với gia đình người con gái ở
Nagasaki, và Nagao Jotaro. Viện trưởng và các bác sỹ khác đều đã qua
đời. Nếu muốn có được thông tin về trại điều dưỡng Nam Hakone thì chỉ
còn cách tìm đến chỗ bác sỹ Nagao. Tanaka Yozo thì già rồi, tuổi cũng
ngấp nghé tám mươi, vả lại bọn họ lấy đâu ra thời gian để mà xuống tận
Nagasaki.
Asakawa đã van vỉ Yoshino tìm
cho gã một nhân chứng sống, bất kể là ai. Yoshino phải kiềm chế lắm để
khỏi trút lên gã một cơn bực tức và cuối cùng thì cũng tìm ra được cái
tên của bác sỹ Nagao. Yoshino đã gửi cho gã tên và địa chỉ cùng với một
tiểu sử rất thú vị liên quan tới tay bác sỹ này. Tại sao Yoshino lại
quan tâm tới điều ấy? Có thể là vì trong lúc điều tra anh ta đã tình cờ
nghe được rồi tiện tay chép vào một cách không chủ ý. Làm việc tại trại
điều dưỡng từ năm 1962 đến năm 1967, chưa hẳn Nagao đã hoàn thành sứ
mệnh của người thầy thuốc một cách tận tụy suốt năm năm ấy. Tuy rằng
ngắn ngủi, nhưng Nagao đã từng từ một người đi chữa bệnh biến thành một
kẻ bị chữa bệnh và được chuyển sang khu cách ly trong vòng hai tuần. Mùa
hè năm 1966, do bất cẩn Nagao bị nhiễm virus đậu mùa từ một bệnh nhân
trong lúc tới thăm khu cách ly ở trên núi. May mắn thay, vì được chủng
đậu vài ba năm trước nên không có chuyện gì to tát xảy ra, căn bệnh qua
đi với các triệu chứng nhẹ như đậu nổi không nhiều, cũng không bị sốt
lần thứ hai. Mặc dầu vậy, để tránh lây nhiễm sang người khác, ông ta
buộc phải điều trị trong tình trạng cách ly. Điều thú vị là nhờ sự kiện
đó mà tên tuổi của Nagao được xuất hiện trên các tài liệu y khoa. Bởi vì
ông ta là bệnh nhân đậu mùa cuối cùng ở Nhật Bản. Không hiểu điều ấy có
giá trị ở mức độ nào giữa cái bối cảnh mà sách Guiness đã ghi lại vô
vàn các kỷ lục khác nhau như ngày nay, nhưng chắc chắn Yoshino phải cảm
thấy rất thích thú. Bệnh đậu mùa, cái tên này đang dần trở thành một tử
ngữ đối với thế hệ của Asakawa và Ryuji.
- Ryuji, cậu đã bao giờ bị đậu mùa chưa? - Asakawa hỏi.
- Cậu điên à? Làm gì còn thứ đó nữa. Chúng bị tuyệt diệt rồi.
- Tuyệt diệt?
- Con người đã xoá sạch chúng bằng trí tuệ của mình. Đậu mùa không còn tồn tại trên thế giới này nữa.
Đúng
như lời Ryuji, virus đậu mùa gần như đã biến mất khỏi hành tinh vào năm
1975 nhờ những chiến dịch tiêm phòng vắc-xin triệt để của Tổ chức Y tế
Thế giới. Và tất nhiên, người ta còn lưu giữ tên tuổi của bệnh nhân đậu
mùa cuối cùng trên thế giới. Đó là một thanh niên người Somalia bị nổi
đậu vào ngày 26 tháng Mười năm 1977.
- Virus đã hoàn toàn bị tiêu diệt? Cậu nghĩ là có thể làm được điều đó à?
Không
am hiểu về virus, nhưng Asakawa luôn bị ám ảnh bởi cái ấn tượng rằng,
dù con người có không ngừng giết chúng thì chúng vẫn cứ thay hình đổi
dạng và tồn tại dai dẳng.
- Virus ấy à,
chúng là một thứ nằm ở giữa giới hạn của sự sống và phi sự sống. Thậm
chí còn có thuyết cho rằng bản chất của chúng là các gen di truyền trong
tế bào người. Người ta không biết được chúng sinh ra từ đâu và bằng
cách nào. Duy chỉ có một điều chắc chắn, đó là chúng có quan hệ chặt chẽ
với quá trình hình thành và tiến hoá của sự sống.
Ryuji xoè rộng bàn tay đang đan sau gáy. Mắt y long lanh.
-
Asakawa này, cậu không thấy kỳ thú à? Việc gen di truyền trong tế bào
tách ra và trở thành một sinh vật khác ấy. Có khi, tất cả những gì là
tương phản đều bắt nguồn từ một gốc cũng nên. Như ánh sáng và bóng tối
chẳng hạn, trước vụ nổ lớn hẳn là chúng đã chung sống với nhau rất hoà
thuận. Thiên thần và quỷ sứ cũng thế. Tóm lại, quỷ sứ chẳng qua chỉ là
cách mà người ta gọi một thiên thần bị tha hoá chứ gốc gác thì giống
nhau. Đàn ông và đàn bà cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Chúng ta vốn
là loài lưỡng tính và ban đầu chúng ta cùng mang trên cơ thể mình cả bộ
phận sinh dục đực và bộ phận sinh dục cái giống như giun đất và sên
trần. Cậu không thấy đó mới là hiện thân của sức mạnh và vẻ đẹp tuyệt
đối à?
Nói rồi Ryuji cười hềnh hệch: "Vì đỡ phải mất công làm tình mà, hề hề."
Asakawa nhìn chằm chằm vào mặt Ryuji như muốn hỏi, có cái gì đáng cười ở đây nhỉ?
... Ai dám bảo một sinh vật vừa đực vừa cái là hoàn hảo chứ.
- Ngoài ra còn có loại virus nào bị tuyệt diệt nữa không?
- À, nếu cậu quan tâm đến vậy sao không về Tokyo mà tra cứu?
- Nếu mà về được.
- Hề hề, đừng lo. Sẽ về được thôi.
Vào
lúc đó, con thuyền cao tốc chở Asakawa và Ryuji vừa đi được đúng nửa
chặng đường từ đảo Oshima tới Ito. Nếu đáp máy bay thì cả hai đã có thể
về được Tokyo sớm hơn, nhưng vì họ muốn ghé qua chỗ Nagao Jotaro ở Atami
nữa nên họ quyết định đi thuyền.
Bánh xe
đu quay của công viên Korakuen đã hiện ra trước mắt. 10:50, thuyền cập
cảng đúng như dự kiến. Asakawa chạy vội về phía bãi đỗ xe khi vừa bước
xuống khỏi cầu thang.
- Này, làm gì mà cuống lên thế.
Ryuji
đủng đỉnh theo sau. Phòng khám của Nagao nằm ở ngay gần ga Kinomiya.
Asakawa sốt ruột chờ đợi Ryuji bước vào trong xe, thế rồi gã cho xe chạy
thẳng về hướng thị trấn Atami đầy những dốc và đường một chiều.
- Này, có khi chính quỷ sứ đã nhúng tay vào vụ này cậu ạ.
Ryuji
nói với bộ mặt nghiêm túc khi vừa vào xe. Asakawa thì không có thì giờ
để đáp lại vì còn mải nhìn biển báo trên đường. Ryuji tiếp.
-
Quỷ sứ luôn hiện diện trên thế gian này dưới những bộ dạng khác nhau.
Cậu có bao giờ nghe nhắc đến trận dịch hạch đã tràn qua hầu khắp các
nước Châu Âu vào nửa cuối thế kỷ 14 chưa? Gần một nửa dân số đã thiệt
mạng. Cậu có tin được không? Thử tưởng tượng xem, nếu mất đi một nửa,
dân số Nhật Bản sẽ chỉ còn sáu mươi triệu. Tất nhiên, có một nghệ sỹ
thời đó đã ví dịch hạch với quỷ sứ. Bây giờ cũng thế thôi, AIDS đáng bị
gọi là quỷ sứ thời hiện đại lắm chứ? Nhưng tớ muốn nói với cậu rằng, quỷ
sứ sẽ không đời nào đẩy con người tới chỗ diệt vong. Vì sao ấy à? Vì
nếu con người không còn thì chúng cũng không còn. Giống như virus ấy,
chúng sẽ không thể tồn tại được nếu vật chủ của chúng là tế bào bị huỷ
hoại. Nhưng mà ngược lại, con người đã đẩy virus đậu mùa tới chỗ tuyệt
diệt. Mà có thật không nhỉ? Có thật là con người làm được việc đó không?
Ngày nay, người ta không thể nào tưởng
tượng ra nổi sự đáng sợ của bệnh đậu mùa, căn bệnh đã từng hoành hành
khắp thế giới và được liệt vào hàng có tỷ lệ tử vong cao nhất. Ngay cả ở
Nhật Bản, bệnh này cũng là nguồn gốc của rất nhiều tín ngưỡng và mê tín
do sự đau đớn mà nó gây ra. Xa xưa, người ta tin rằng kẻ gieo rắc căn
bệnh này chính là Thần Đậu mùa. Liệu con người có thể đẩy các vị thần,
hay nói đúng hơn là quỷ sứ, tới bờ vực của sự diệt vong? Đó chính là mối
hoài nghi ẩn chứa trong câu hỏi của Ryuji.
Asakawa
không hề nghe câu chuyện của Ryuji. Ở một xó xỉnh trong đầu, gã thắc
mắc tại sao y lại nói chuyện ấy vào lúc này. Còn thì gã phải tập trung
toàn bộ thần kinh để đừng có nhầm đường và để làm sao có thể tới được
phòng khám Nagao một cách nhanh nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét