PHẦN 3 - CHƯƠNG 9
Thứ Tư, ngày 17 tháng Mười
Đứng trên ngã tư cắt giữa đại lộ Omotesando và Aoyama, lại một lần nữa Yoshino rút ra cuốn sổ tay.
Nhà trọ Sugiyama, 6-1 Minami-Aoyama.
Đó là địa chỉ của Yamamura Sadako hai lăm năm trước. Yoshino đang phải
nếm trải cảm giác tuyệt vọng vì ngôi nhà trọ không còn ở địa chỉ này
nữa. Rẽ từ đại lộ vào, lô 6-1 nằm ngay cạnh Viện Bảo tàng Mỹ thuật Nezu.
Tuy nhiên, đúng như những gì Yoshino lo lắng, một tòa chung cư tráng lệ
xây bằng gạch đỏ đã mọc lên thế chỗ cho ngôi nhà trọ rẻ tiền kia.
... Một việc bất khả thi về căn bản. Làm sao có thể biết được tung tích của một nhân vật cách đây đã hai lăm năm.
Manh
mối còn lại là bốn diễn viên học nghề cùng gia nhập đoàn kịch một đợt
với Yamamura Sadako. Trong số bảy người này, Yoshino chỉ tìm thấy được
địa chỉ liên lạc của bốn người. Nếu bọn họ không có tin tức gì của
Sadako thì coi như mọi sợi dây đều bị cắt đứt. Yoshino chỉ còn cách nghĩ
như vậy. Anh ta nhìn đồng hồ, đã quá mười một giờ đêm. Lao vội tới một
cửa hàng văn phòng phẩm, anh ta bắt đầu gửi fax cho ban tin tức ở Izu
Oshima để thông báo cho Asakawa biết những điều vừa thu thập được.
Trong lúc ấy thì Asakawa và Ryuji đang có mặt tại nhà Hayatsu, nơi đặt văn phòng của ban tin tức.
- Này, Asakawa! Cậu phải bình tĩnh chứ. - Nhìn thấy Asakawa sốt ruột đi đi lại lại, Ryuji quát. - Rối lên thì làm được gì nào?
Vận tốc gió cực đại, khí áp vùng gần tâm bão lên tới... millibar (Đơn vị đo khí áp. Hiện nay được thay thế bởi đơn vị có tên gọi hectopascal. 1 millibar bằng 1 hectopascal),
gió thổi theo hướng đông bắc... nằm trong khu vực gió mạnh kèm theo mưa
lớn... sóng dâng cao dữ dội. Thông tin về cơn bão số 12 đang phát trên
đài như chọc tức Asakawa.
Vị trí tâm bão
nằm ở ngoài khơi cách mũi đất Omaezaki 150km về phía nam, mỗi giờ bão đi
được 20km về hướng đông bắc với vận tốc gió đạt 40m/s. Cứ theo đà này,
chắc chắn chiều tối nay bão sẽ tới ngoài khơi đảo Oshima. Theo suy đoán
của Hayatsu, có lẽ phải hết ngày mai, tức là qua thứ Năm, các chuyến bay
và thuyền ra đảo mới hoạt động trở lại.
- Cậu có biết thứ Năm nghĩa là gì không?
...
Mười giờ tối mai là hạn cuối của tao rồi. Cơn bão khốn kiếp kia, mau
cuốn xéo đi! Mau yếu thành áp thấp nhiệt đới cho tao nhờ!
- Khi nào thì thuyền và máy bay trên đảo mới hoạt động cơ chứ!
Asakawa không còn biết phải trút cơn giận vào đâu.
...
Đáng lẽ ta không nên đến đây. Ta không còn thời gian để hối hận. Mà ta
biết phải hối hận từ đâu bây giờ? Đáng lẽ ta không nên xem cuộn băng ấy.
Đáng lẽ ta đừng có bận tâm về Oishi Tomoko và Iwata Shuichi. Đáng lẽ ta
không được bắt chiếc taxi hôm nào... Khốn nạn!
-
Tớ đã bảo cậu phải bình tĩnh cơ mà. Cậu không hiểu à? Cậu than vãn với
bác Hayatsu thì ích gì? - Ryuji nắm lấy tay Asakawa, bằng một cử chỉ dịu
dàng kỳ lạ. - Cậu nghe này, biết đâu câu thần chú phải được thực hiện
trên hòn đảo này? Có khả năng đó lắm chứ. Tại sao bọn nhóc lại không
thực hiện câu thần chú? Vì chúng không có tiền để tới đảo Oshima. Đấy,
hoàn toàn có thể phải không nào. Cứ coi trận bão này là một cơn gió
phước lành, rồi cậu sẽ bình tâm lại.
- Nhưng đó là chuyện sau khi đã tìm ra câu thần chú!
Asakawa
hất tay Ryuji ra. Thấy hai người đàn ông đã trung tuổi mà cứ ầm ĩ
chuyện bùa ngải, Hayatsu và vợ, bà Fumiko, đưa mắt nhìn nhau. Nhưng
Asakawa lại ngỡ họ đang cười mình.
- Có gì đáng cười ở đây nào?
Ruiji giật mạnh tay Asakawa khi gã định sấn về phía hai ông bà già.
- Cậu có thôi đi không. Cuống quít lên như thế cũng chẳng giải quyết được gì đâu.
Chứng
kiến nỗi bức xúc của Asakawa, một người tốt bụng như Hayatsu bắt đầu
cảm thấy trách nhiệm của mình trước việc tàu thuyền và máy bay bị hoãn
chuyến vì cơn bão. Mà không, phải nói rằng ông bỗng thấy cảm thông với
một con người đang khổ sở vì sự ảnh hưởng của cơn bão ngay trước mắt
mình. Ông không ngớt cầu nguyện cho công việc của Asakawa được thuận
lợi. Tuy sắp có fax từ Tokyo gửi tới, nhưng ông vẫn muốn làm một điều gì
đó hòng thay đổi tình hình vì cho rằng việc chờ đợi chỉ làm tăng thêm
sự bức bối.
- Công việc điều tra tiến triển được nhiều chưa hả các anh?
Hayatsu ôn tồn hỏi như để trấn tĩnh Asakawa.
- Vâng, cũng tạm được.
-
Có một người bạn hồi nhỏ của Yamamura Shizuko sống ở ngay gần đây, hay
là tôi gọi tới để các anh hỏi chuyện? Ông cụ tên là Gen, trời mưa bão
thế này không ra biển được chắc ông cụ cũng buồn. Được gặp các anh ông
ấy sẽ vui lắm đấy.
Hayatsu tính rằng nếu kiếm cho gã một ai đó để phỏng vấn có thể gã sẽ nguôi ngoai.
-
Ông lão đã gần bảy mươi tuổi rồi, chẳng biết có được việc cho các anh
không nhưng như thế còn hơn phải ngồi chờ, đúng không nào.
- Dạ...
Không đợi câu trả lời của Asakawa, Hayatsu ngoái đầu vào bếp sai vợ: "Bà nó, mau gọi điện cho ông Gen bảo ông ấy đến đây ngay."
Đúng
như lời Hayatsu, Genji nói chuyện rất hào hứng. Ông lão vô cùng vui vẻ
khi kể về Yamamura Shizuko. Genji hơn Shizuko ba tuổi, năm nay đã sang
tuổi sáu mươi tám. Shizuko vừa là bạn nối khố vừa là người tình đầu tiên
của ông. Việc nói chuyện với người khác đã làm các ký ức của ông mạch
lạc hơn, hay chính trạng thái kích thích vì có người nghe đã khiến cho
những kỷ niệm dễ dàng được khơi lại? Đối với Genji, kể về Shizuko cũng
giống như kể về tuổi thanh xuân của mình vậy.
Tuy
bập bõm, nhưng câu chuyện Genji kể về Shizuko với những giọt lệ đôi khi
ngấn lên trong mắt đã đem lại cho Asakawa và Ryuji một chút hiểu biết
về con người này. Tuy nhiên, họ hiểu rằng không cần phải tin tất cả.
Những kỷ niệm bao giờ cũng được đánh bóng, vả lại, hơn hết, chuyện xảy
ra đã cách đây bốn mươi năm rồi. Biết đâu đấy, ông lão lại chả lẫn lộn
với một người đàn bà khác? Nhưng mà không, không thể có chuyện ấy được.
Đối với đàn ông, người phụ nữ của mối tình đầu là một cái gì đó đặc
biệt, chưa chắc ông lão đã nhầm.
Không
thể cho rằng Genji là người khéo kể chuyện, lối kể chuyện của ông vòng
vo và tối nghĩa. Quả thật là Asakawa đã bắt đầu thấy ngán. Thế rồi, có
một câu nói của ông lão hốt nhiên khiến Asakawa và Ryuji chú ý. "Shizuko
nhỏ bé của tôi bỗng nhiên đổi khác. Rõ ràng là tại nó. Bức tượng vị
hành giả bằng đá nàng vớt từ dưới biển lên vào một đêm trăng tròn...".
Theo lời kể của ông, một sức mạnh lạ lùng nào đó đã nhập vào Shizuko, mẹ
của Yamamura Sadako, và việc này có quan hệ mật thiết với biển trong
đêm trăng tròn. Genji bảo, vào cái đêm mà chuyện đó xảy ra, ông đã ngồi
chèo thuyền ngay bên cạnh Shizuko. Ấy là một đêm cuối hè năm 1946, khi
Shizuko hai mươi mốt và Genji hai mươi bốn.
"Đêm
xuống, thế mà cái nóng của ban ngày chẳng dịu đi tẹo nào", Genji kể lại
sự việc của bốn mươi tư năm trước như thể nó vừa mới xảy ra tối hôm
qua.
Trong một đêm oi ả như thế, dưới ánh
trăng vằng vặc. Genji ngồi ngoài hiên, vừa phe phẩy quạt vừa ngắm nhìn
mặt biển tĩnh lặng không một tiếng sóng đang phản chiếu bầu trời đêm.
Thế rồi sự yên ắng bị phá tan khi Shizuko lao lên từ con dốc trước nhà
và đứng khựng trước mặt Genji. "Gen ơi, em muốn đi câu, đẩy thuyền ra
đi!", không một lời giải thích, cô kéo tay áo Genji. Genji có hỏi, cô
chỉ nói: "Chẳng mấy khi có đêm trăng sáng thế này." Genji chỉ biết ngồi
thần ra đó ngắm nhìn người con gái đẹp nhất đảo Oshima. "Thôi cái mặt
ngốc nghếch ấy đi, mau lên nào...", Shizuko túm cổ áo Genji xềnh xệch
lôi anh dậy. Genji bao giờ cũng chiều theo ý Shizuko. "Nhưng em định câu
gì?", Genji hỏi lại song Shizuko chỉ đáp nhẹ tênh: "Tượng ông hành giả
bằng đá" và vẫn không rời mắt khỏi biển.
- Ông hành giả...?
"Quân chiếm đóng" (chỉ quân Mỹ vào tiếp quản Nhật Bản sau khi nước này thua trận trong Thế chiến II) vừa ném tượng ông hành giả bằng đá xuống biển vào buổi trưa nay", Shizuko nhướn mày ấm ức nói.
Trên
Bãi cát Hành giả nằm ven bờ biển phía đông có một cái hang nhỏ mà người
ta gọi là Động Hành giả. Trong động có một bức tượng đá của nhà tu hành
En-no-Ozunu, người đã phiêu dạt tới đó vào năm 699 sau Công nguyên.
Tương truyền, từ khi sinh ra, Ozunu đã tỏ ra vô cùng thông tuệ, sau khi
tu luyện, ông học được chú thuật và tiền thuật, bằng những thuật này ông
có thể dễ dàng sai khiến được quỷ thần. Tuy nhiên, khả năng tiên tri mà
Ozunu để lộ ra đã khiến những kẻ cầm quyền hốt hoảng và rồi ông bị đày
ra đảo Izu Oshima này như một tội nhân gây rối xã hội. Câu chuyện xảy ra
cách đây đã gần 1300 năm. Ozunu ẩn mình trong một cái hang ven bờ biển
và tiếp tục tu hành, ông truyền cho dân đảo nghề nông và nghề cá, ai ai
cũng kính trọng ân đức ấy của ông. Tuy nhiên sau đó ông được tha bổng và
trở về đất liền rồi lập nên giáo phái Mật tông Nhật Bản. Ông ở trên đảo
Oshima khoảng ba năm và một truyền thuyết còn lưu truyền đến ngày nay
kể rằng, trong thời gian đó có lần ông đi một chiếc guốc sắt và bay đến
tận núi Phú Sỹ. Lòng ngưỡng mộ vô hạn của dân đảo dành cho ông khiến
Động Hành giả trở thành chốn linh thiêng bậc nhất ở đây và lễ hội có tên
Hội Hành giả năm nào cũng được tổ chức vào ngày 15 tháng Sáu trên đảo.
Tuy
nhiên, ngay sau khi cuộc chiến tranh Thái Bình Dương chấm dứt, quân
chiếm đóng đã ném bức tượng đá En-no-Ozunu thờ trong Động Hành giả xuống
biển để thể hiện chính sách của chúng đối với Thần giáo và Phật giáo.
Hành động ấy không thể lọt qua mắt Shizuko. Với lòng tín ngưỡng sâu sắc
dành cho En-no-Ozunu, Shizuko giấu mình giữa những tảng đá trên Bãi Mũi
Giun, quan sát và khắc ghi thật kỹ vị trí của bức tượng đá mà tàu tuần
tiễu của hải quân Mỹ đã ném xuống.
Genji
không tin vào tai mình khi nghe Shizuko nói đến việc đi câu tượng hành
giả. Là một ngư phủ, anh hoàn toàn tin tưởng vào tay nghề của mình,
nhưng anh chưa bao giờ đi câu tượng đá. Tuy nhiên, anh không thể cự
tuyệt lời thỉnh cầu của người con gái mình đang thầm yêu trộm nhớ, anh
đẩy thuyền ra biển như thể đấy là cơ hội để anh làm cô phải mắc nợ mình.
Và hơn hết, không có gì tuyệt diệu bằng nếu hai người được ở giữa biển
vào một đêm trăng đẹp thế này.
Sau khi
nhóm lửa để làm hiệu trên Bãi cát Hành giả và Bãi Mũi Giun, họ chèo
thuyền ra khơi. Cả hai người đều thuộc lòng vùng biển này: đáy biển và
độ sâu của nó... Thậm chí là cả những luồng cá qua lại nơi đây. Nhưng dù
đêm nay trăng có tỏ đến mấy thì ánh sáng của nó cũng chẳng thể lọt tới
đáy biển. Genji không biết Shizuko sẽ tìm ra bức tượng đá bằng cách nào.
Genji vừa khua mái chèo vừa hỏi điều đó nhưng Shizuko không trả lời, cô
chỉ nhìn về phía ánh lửa trên bãi cát để xác định vị trí thuyền. Có thể
cô ước lượng bằng mắt thường khoảng cách giữa hai đốm lửa trên bờ từ
ngoài khơi và áng chừng được vị trí của mình lúc này. Chèo ra được vài
trăm mét thì Shizuko kêu lên: "Dừng lại đi anh!"
Shizuko
đi về cuối thuyền rồi ghé sát mặt xuống biển. Cô nhìn vào làn nước tối
om và ra lệnh cho Genji: "Lùi lại đằng sau!" Genji biết Shizuko chuẩn bị
làm gì, ngực anh đập thình thịch. Cô đứng lên và cởi bỏ bộ kimono chấm
hoa của mình. Tiếng quần áo sột soạt trên da khiến trí tưởng tượng của
Genji bị kích thích mạnh, anh cảm thấy ngộp thở. Có tiếng nhảy tùm xuống
biển sau lưng và bọt nước bắn lên vai, Genji len lén quay đầu lại.
Shizuko búi mái tóc đen dài của mình lên bằng chiếc khăn tay. Cô bơi
đứng và nhô mặt trên nước, miệng ngậm đầu của tấm lưới mắt nhỏ. Sau đó,
cô nhoi hẳn lên, hớp mạnh không khí hai lần rồi lặn sâu xuống đáy.
Chắc
là cô đã phải ngoi lên mặt biển vài lần để lấy hơi... Cuối cùng, khi
Shizuko ngẩng đầu lên, trên miệng cô đã không còn ngậm đầu lưới nữa. "Em
đã buộc chặt lưới vào bức tượng rồi, bây giờ mình kéo lên thôi",
Shizuko run run nói.
Đưa người về phía
mũi thuyền, Genji bắt đầu kéo lưới. Không biết Shizuko đã lên thuyền từ
bao giờ, cô khoác áo, đứng sát vào với Genji và phụ anh kéo bức tượng đá
lên. Hai người đặt bức tượng đá ở giữa thuyền rồi trở về bờ, nhưng
trong suốt thời gian đó Genji và Shizuko không nói với nhau lời nào. Có
một bầu không khí nào đó đã chặn đứng mọi câu hỏi. Genji lấy làm lạ là
tại sao Shizuko lại biết được vị trí của bức tượng giữa một vùng biển
tối đen như thế. Ba ngày sau, Genji hỏi thì Shizuko trả lời rằng, bức
tượng ông hành giả đã gọi cô từ dưới đáy biển. Shizuko bảo, cô thấy ánh
mắt màu xanh lục của bức tượng đá có thể sai khiến được quỷ thần ấy sáng
lấp lánh dưới đáy nước tối om...
Từ đó
về sau Shizuko thường hay kêu mệt. Trước đấy, Shizuko chưa bao giờ bị
đau đầu. Nhưng những cảnh tượng mà cô chưa từng nhìn thấy càng ngày càng
xuất hiện nhiều hơn trong óc cô kèm theo những cơn đau nhức. Thế rồi,
những cảnh tượng vụt qua ấy thể nào cũng trở thành hiện thực không lâu
sau đó. Khi Genji gặng hỏi về điều này, Shizuko bảo, cô luôn cảm thấy
mũi mình bị kích thích bởi mùi cam quít mỗi lần những hình ảnh về tương
lai thoáng hiện lên trong não. Ngay trước khi người chị gái của Genji có
chồng bên Odawara mất, cũng chính Shizuko đã báo trước về cái chết này.
Song hình như cô không thể tự chủ được trong việc dự báo những sự kiện
tương lai. Chỉ là một cảnh tượng nào đó vụt loé lên trong óc, không có
dấu hiệu báo trước, không có gì chắc chắn rằng cô sẽ nhìn thấy cảnh
tượng ấy. Vì vậy, Shizuko không bao giờ nhận lời đoán trước tương lai
cho bất kỳ người nào.
Một năm sau, mặc
cho sự ngăn cản của Genji, Shizuko lên Tokyo rồi quen biết với Ikuma
Heihachiro và mang bầu đứa con của anh ta. Cuối năm đó, Yamamura Shizuko
trở về chốn cũ, sinh ra một mụn con gái. Đứa bé ấy chính là Sadako.
Không
thể biết được khi nào thì câu chuyện của ông lão Genji sẽ kết thúc. Xem
cách nói ấy thì rõ là ông lão đang kết tội Ikuma Heihachiro về việc
Yamamura Shizuko trầm mình xuống miệng núi lửa Mihara mười năm sau đó.
Cố nhiên, đấy là tình cảm tất yếu đối với một tình địch, nhưng không dễ
dàng gì khi phải nghe những câu chuyện pha lẫn hằn thù. Tuy vậy, gã cũng
thu hoạch được một điều, ấy là Shizuko, mẹ của Yamamura Sadako, cũng có
khả năng tiên tri và kẻ cho bà ta khả năng ấy rất có thể là bức tượng
đá En-no-Ozunu.
Đúng lúc đó thì chiếc máy
fax bắt đầu hoạt động. Trên trang fax được in ra là bức chân dung phóng
đại của Yamamura Sadako mà Yoshino kiếm được ở đoàn kịch Hisho.
Asakawa
bỗng có cảm giác xúc động lạ thường. Vì đây là lần đầu tiên gã được
chiêm ngưỡng dung nhan của Yamamura Sadako. Mặc dù chỉ kéo dài ít phút,
nhưng những cảm giác của gã và cô ta đã hoà vào làm một, gã đã nhìn thấy
những cảnh tượng trong cuốn băng với cùng một ánh mắt với cô ta... Tựa
như dung mạo của một người con gái đáng yêu tuy không hề biết mặt nhưng
đã làm tình với gã và cùng đạt tới cực khoái trong bóng tối đang dần
hiện ra dưới ánh nắng nhạt... Thật lạ là gã không hề cảm thấy ghê sợ.
Hẳn nhiên rồi, vì bức ảnh gửi bằng fax tuy có hơi mờ nhưng vẫn chuyển
tải được đầy đủ những đường nét và vẻ quyến rũ trên khuôn mặt xinh xắn
của Yamamura Sadako.
- Trông cũng khá đấy chứ! - Ryuji nói.
Asakawa
bất giác nghĩ đến Takano Mai. Nếu chỉ đơn thuần so sánh hai khuôn mặt
sẽ nhận thấy Yamamura Sadako đẹp hơn Takano Mai nhiều lần. Tuy nhiên,
trong khi ở Takano Mai toả ra một thứ mùi đàn bà, thậm chí là ngửi thấy
được, thì Yamamura Sadako lại bị gọi là đáng sợ. Nhưng bức ảnh không hề cho thấy sự đáng sợ
nào như thế. Chắc chắn là sức mạnh không người thường nào có được của
Yamamura Sadako đã gây ra cảm giác đó ở những người xung quanh.
Tờ
fax thứ hai là thông tin tóm tắt về Shizuko, mẹ của Yamamura Sadako. Đó
vừa vặn là câu chuyện tiếp theo những gì ông lão Genji vừa kể.
Năm
1947, bỏ lại Sashikichi để lên Tokyo, Shizuko bị ngã quỵ bởi một cơn
đau đầu đột ngột và được đưa đến bệnh viện, ở đó người ta giới thiệu cô
với Ikuma Heihachiro, phó giáo sư Khoa Thần kinh học Đại học T. Ikuma
Heihachiro đang cố gắng đi tìm một lời giải khoa học cho hiện tượng thôi
miên nên khi phát hiện ra khả năng thấu thị ở Shizuko, anh ta đã tỏ ra
vô cùng hứng thú. Sự kiện này đã làm thay đổi cả đề tài nghiên cứu của
Ikuma. Kể từ đấy, Ikuma Heihachiro lao đầu vào những khảo cứu liên quan
đến siêu năng lực mà Shizuko chính là đối tượng thí nghiệm. Tuy nhiên,
hai người đã vượt qua mối quan hệ đơn thuần và, mặc dù đã có vợ con,
Ikuma vẫn đem lòng yêu Shizuko. Cuối năm ấy, mang trong mình đứa con của
Ikuma, Shizuko trở về Sashikichi để trốn chạy ánh mắt người đời và sinh
ra Yamamura Sadako. Shizuko gửi lại Sadako ở Sashikichi rồi lập tức lên
Tokyo, nhưng ba năm sau đó cô lại trở về để đem đứa bé đi. Nghe đâu,
suốt từ đó cho đến khi nhảy xuống miệng núi lửa Mihara tự vẫn, Shizuko
luôn để con gái bên mình mà không rời nửa bước.
Thế
rồi vào những năm năm mươi, sự kết đôi giữa Ikuma Heihachiro và
Yamamura Sadako đã gây xôn xao lớn trên các tờ báo và tạp chí. Lý do là
vì những căn cứ khoa học về siêu năng lực của họ bỗng nhiên trở thành
tiêu điểm của xã hội. Ban đầu, có lẽ do bị huyễn hoặc bởi vị trí phó
giáo sư đại học T. của Ikuma Heihachiro mà hầu hết dư luận đều tin vào
năng lực siêu nhiên của Shizuko. Lựa chiều gió, giới truyền thông cũng
tuôn ra những lời lẽ đầy thiện chí. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều những ý
kiến phê phán, coi đó là trò bịp bợm, và chỉ bằng một lời phát biểu
nhận xét rằng "điều này rất đáng ngờ" của một nhóm học giả uy tín hơn
thế là phần lớn các báo bắt đầu ngả sang hướng đầy bất lợi cho Ikuma
Heihachiro và Yamamura Shizuko.
Những thứ
mà Shizuko thực hiện được chủ yếu là khả năng ngoại cảm, bao gồm chụp
ảnh bằng ý nghĩ, thấu thị, tiên tri; trên thực tế cô chưa bao giờ bộc lộ
khả năng viễn khiển, tức là phép di chuyển các vật mà không cần chạm
vào chúng. Một số tờ tạp chí thì khẳng định, Shizuko có thể in được
những hình vẽ theo đúng yêu cầu lên tấm phim đã niêm phong cẩn mật chỉ
bằng cách áp nó lên trán, và cũng như vậy, cô có thể đoán bách phát bách
trúng những thứ nằm trong một chiếc phong bì dán kín. Trong khi đó, một
số tờ tạp chí khác lại cho rằng, Shizuko chẳng qua chỉ là một kẻ lừa
đảo, những nhà ảo thuật dày công luyện tập một chút cũng có thể làm được
điều tương tự dễ như trở bàn tay. Cứ như thế, dư luận dần tỏ ra lạnh
nhạt với Shizuko và Ikuma Heihachiro.
Giữa
khi ấy, bất hạnh bỗng đổ ập lên đầu Shizuko. Năm 1954, Shizuko sinh đứa
bé thứ hai, đó là một thằng con trai, nhưng sau khi chào đời bốn tháng
nó bị bệnh chết. Lúc ấy Sadako lên bảy và nghe đâu cô đã dành cho cậu em
mới đẻ của mình một tình yêu đặt biệt.
Một
năm sau, năm 1955, Ikuma Heihachiro quyết định khiêu chiến với báo chí
bằng cách biểu diễn khả năng đặc biệt của Shizuko trước công chúng. Ban
đầu Shizuko không bằng lòng. Cô sợ thất bại vì ở giữa đám đông cô không
thể tập trung tinh thần theo ý muốn. Nhưng Ikuma không nhượng bộ. Anh ta
không thể chịu đựng được chuyện bị báo giới gọi là kẻ lừa đảo mãi và
cho rằng cách duy nhất để khiến thiên hạ sáng mắt ra là cho họ thấy
những bằng chứng rõ ràng.
Ngày hôm đó,
mặc dù không thoải mái, Shizuko vẫn bước lên bục thí nghiệm giữa sự
chứng kiến của gần một trăm phóng viên và học giả. Một phần cũng bởi sự
suy sụp về tinh thần kể từ sau khi mất đi đứa con trai, Shizuko không ở
vào trạng thái sung mãn nhất. Phương pháp thí nghiệm dự kiến rất đơn
giản. Cô chỉ phải đoán số chấm của hai con xúc xắc trong một vật đựng
bằng chì. Nhưng Shizuko đọc thấy trong ý nghĩ của toàn bộ một
trăm con người đang vây quanh mình rằng, họ chờ đợi sự thất bại của cô.
Shizuko run rẩy, cô quỳ sụp xuống sàn và hét lên đau đớn: "Thôi đi!"
Shizuko thanh minh: "Con người, ai cũng có một năng lượng ý nghĩ nhất
định. Tôi hơn người chỉ ở năng lượng ấy. Nhưng giữa một trăm ý nghĩ muốn
tôi thất bại, dòng năng lượng ấy của tôi sẽ bị cản trở và tôi không thể
phát huy được khả năng của mình." Ikuma Heihachiro nói tiếp: "Không.
Không chỉ có một trăm người mà toàn thể dân Nhật đang muốn giày xéo lên
thành quả nghiên cứu của tôi. Dư luận sẽ ngả theo những gì báo chí đồn
thổi, và khi ấy, báo chí các người sẽ chẳng bao giờ nói ra những gì khác
với điều mà dân chúng đang mong đợi. Các người thật đáng xấu hổ!" Rốt
cuộc, màn thí nghiệm công khai khả năng thấu thị đã khép lại bằng những
lời mạt sát báo giới của Ikuma Heihachiro.
Giới
truyền thông nhìn nhận những lời thịnh nộ của Ikuma Heihachiro như một
cách mà anh ta muốn dựng lên để đổ tội cho kẻ thù của mình là báo chí về
thất bại của cuộc thí nghiệm. Và ngày hôm sau, họ đồng loạt đăng những
dòng sau trên tất cả các mặt báo: "Đúng là đồ bịp bợm!", "Kẻ giả mạo đã
bị lột mặt nạ!", "Phó giáo sư đại học T., một tên lừa đảo!", "Chấm hết
cho một cuộc tranh cãi kéo dài năm năm!", "Thắng lợi của khoa học hiện
đại!". Không có bất cứ bài báo nào ủng hộ Shizuko và Ikuma Heihachiro.
Cuối
năm ấy, Ikuma Heihachiro ly dị vợ, thôi việc ở đại học T. Shizuko ngày
càng bị chứng hoang tưởng hành hạ. Ít lâu sau, với quyết tâm có được
siêu năng lực, Ikuma Heihachiro giam mình trên núi và tu luyện dưới thác
nước nhưng việc tập luyện quá sức đã khiến anh ta mắc bệnh lao phổi và
phải vào trại điều dưỡng Hakone. Trạng thái tinh thần của Shizuko mỗi
lúc một thêm tồi tệ. Sadako, khi ấy lên tám, đã thuyết phục mẹ trở về
Sashikichi để trốn chạy sự nhòm ngó của báo chí và những lời đàm tiếu
của thế gian, nhưng chỉ trong một phút sao nhãng, mẹ cô đã nhảy xuống
miệng núi lửa Mihara.
Asakawa và Ryuji đọc xong hai tờ fax cùng một lúc.
- Oán niệm đây mà. – Ryuji lẩm bẩm.
- Oán niệm?
- Theo cậu thì Sadako nghĩ gì khi mẹ cô ta nhảy xuống núi lửa Mihara?
- Oán giận giới truyền thông?
-
Không chỉ giới truyền thông. Mà oán giận tất cả dư luận, những kẻ ban
đầu thì tâng bốc nhưng khi tình thế thay đổi lại quay sang chế nhạo và
đẩy gia đình cô ta đến cảnh tan vỡ. Yamamura Sadako ở bên bố mẹ từ lúc
lên ba đến khi lên năm, đúng không nào? Thế thì chắc chắn cô ta hiểu rất
rõ cái sự tráo trở ấy của người đời.
- Nhưng không có nghĩa là như thế thì cần phải trả thù tất cả.
Asakawa
bắt đầu biện bạch, tất nhiên rồi, vì gã ý thức được rằng gã chính là
một bộ phận của cái giới truyền thông kia. Trong bụng mình, gã đang biện
bạch, mà không, gã đang van xin. Cô biết đấy, tôi cũng lên án bản chất của giới truyền thông giống như cô vậy.
- Cậu lảm nhảm cái gì thế?
- Hả?
Asakawa không nhận ra là mình đang lẩm bẩm thành tiếng như niệm Phật.
-
Cậu thấy chưa, chúng ta đã giải mã được một phần những hình ảnh đó rồi.
Mihara là nơi mẹ Sadako trẫm mình và là ngọn núi lửa mà cô ta tiên đoán
sự phun trào của nó, vì vậy ý niệm của cô ta đối với ngọn núi này rất
mạnh. Tiếp theo là cảnh chữ "Yama" hiện lên mờ tỏ, chắc hẳn đó là con
chữ đầu tiên Sadako thực hiện thành công khả năng chụp ảnh bằng ý nghĩ
hồi còn nhỏ.
- Hồi còn nhỏ?
Asakawa vẫn chưa hiểu tại sao lại nhất thiết phải là bức ảnh được chụp bằng ý nghĩ hồi còn nhỏ?
-
À, là hồi cô ta lên bốn hoặc lên năm. Và sau đó là cảnh hai quân xúc
xắc. Sadako hẳn là đã có mặt trong cuộc trình diễn công khai đó và lo
lắng quan sát khi mẹ cô ta đoán mặt quân xúc xắc.
- Khoan đã! Yamamura Sadako nhìn thấy rõ những quân xúc xắc lăn trong chiếc bát bằng chì đó!
Cả Asakawa và Ryuji đều nhìn thấy cảnh tượng ấy bằng chính mắt mình. Không thể nào nhầm được.
- Thế thì sao?
- Trong khi đó thì mẹ cô ta, Shizuko, lại không thể thấu thị được.
-
Con làm được điều mà mẹ không làm được thì có gì là lạ? Cậu nghe này,
tuy lúc ấy Sadako mới lên bảy tuổi, nhưng cô ta có một khả năng gấp bội
mẹ mình. Năng lượng ý nghĩ của một trăm người cộng lại cũng không phải
là đối thủ của cô ta. Cậu thử nghĩ xem. Cô ta có thể đưa được cả hình
ảnh vào trong bóng đèn hình cơ mà. Ti vi phát ra hình ảnh bằng một
phương pháp hoàn toàn khác so với nguyên lý cảm quan của phim. Nó tạo ra
hình ảnh bằng cách quét lên màn hình 525 dòng tia điện tử. Sadako làm
được điều đó. Cô ta có một năng lượng khủng khiếp.
Asakawa vẫn không làm sao hiểu nổi.
-
Nếu cô ta có một khả năng ghê gớm đến vậy thì tại sao lại không in lên
tấm phim mà tiến sỹ Miura gửi đến một hình ảnh phức tạp hơn?
-
Ngốc ơi là ngốc. Cậu nên nhớ rằng mẹ cô ta, Shizuko, đã phải chịu đựng
một cuộc đời bất hạnh chỉ vì bị người khác biết được khả năng đặc biệt
của mình. Liệu bà ta có muốn để con gái giẫm lên vết xe đổ đó không?
Chắc chắn là bà ta đã bắt con gái phải giấu đi khả năng của mình và sống
như một người bình thường. Vì thế, Sadako đã điều chỉnh lại cường độ
năng lượng để tạo ra một bức hình chẳng có gì đặc biệt.
Hóa
ra Yamamura ở lại một mình trong phòng tập sau khi các diễn viên khác
đã về hết và ngồi trước chiếc máy thu hình, thứ rất có giá vào thời ấy,
là nhằm kiểm tra khả năng của mình. Tất nhiên, cô ta đã rất cảnh giác để
người khác không biết được điều này.
- Thế còn bà lão xuất hiện ở cảnh kế tiếp là ai? - Asakawa hỏi.
-
Chịu thôi. Có thể bà già ấy đã xuất hiện trong một giấc mơ của Sadako
và thì thầm với cô ta điều gì đó giống như một lời tiên tri. Bà ta dùng
một thứ thổ ngữ cổ xưa. Chắc cậu cũng để ý, người dân ở đây hầu hết đều
nói tiếng phổ thông. Bà ấy đã khá già lão rồi. Có khi sống vào thời
Kamakura cũng nên. Mà chẳng biết chừng, bà ta còn có quan hệ gì đó với
En-no-Ozunu ấy chứ.
.... Sang năm, cháu sẽ sinh con.
- Lời tiên đoán ấy có đúng không nhỉ?
-
À, cái đó hả. Tiếp theo là cảnh thằng bé sơ sinh đúng không nào? Ban
đầu tớ cứ tưởng nó là con của Sadako, nhưng khi xem bản fax thì có vẻ
như tớ nhầm.
- Cậu cho rằng đó là đứa em trai bị chết sau khi sinh bốn tháng của Sadako?
- Tớ nghĩ là vậy.
- Thế còn lời tiên tri của bà già? Rõ ràng là bà ta đang nói với Sadako. Hay là Sadako có con?
- Không biết. Nếu tin lời bà ta thì cũng có thể là vậy.
- Con ai nhỉ?
- Ai mà biết được? Này, cậu đừng nghĩ rằng cái gì tớ cũng biết. Tớ chỉ nói những điều tớ suy đoán thôi.
Nếu Yamamura Sadako có con thì đứa con đó là con ai và hiện đang làm gì?
Ryuji đột nhiên đứng bật dậy khiến đầu gối đập mạnh vào gầm bàn.
- Tớ thấy đói quá, chắc là sang ngày rồi. Aakawa, đi ăn thôi.
Nói
rồi Ryuji vừa lấy tay xoa đầu gối vừa nhanh nhẹn đi về phía cửa.
Asakawa không đói, nhưng gã quyết định đi cùng vì có chuyện cần bàn.
Ryuji có yêu cầu gã điều tra một việc, nhưng vì không biết bắt đầu từ
đâu nên gã vẫn cứ gác lại đấy. Bây giờ gã mới vừa nhớ ra. Đó là cảnh
cuối của cuốn băng. Rất có thể đó là Ikuma Heihachiro, bố của Sadako.
Nhưng lại có quá nhiều sự thù địch trong ánh mắt của Sadako đối với con
người này. Lúc nhìn thấy khuôn mặt ấy trên màn hình, Asakawa cảm thấy
một nỗi đau ê ẩm và nặng nề ở sâu trong cơ thể mình, kèm theo một cảm
giác ghê tởm dữ dội. Đó là người đàn ông có khuôn mặt gọn gàng và ánh
mắt không đến nỗi độc ác, nhưng thật lạ là tại sao gã lại có ác cảm với
anh ta. Rõ ràng đấy không phải là ánh mắt mà Sadako dành cho người ruột
thịt. Trong những thông tin Yoshino điều tra được cũng không thấy có chỗ
nào chứng tỏ rằng Sadako chống đối cha mình. Ngược lại, gã có cảm giác
Sadako là một người con hiếu thảo. Nhưng có vẻ như việc tìm ra tung tích
của người đàn ông đó là một nhiệm vụ bất khả thi. Khoảng thời gian ngót
ngét ba mươi năm hẳn phải làm cho một khuôn mặt biến đổi đi nhiều. Tuy
vậy, tính đến mọi khả năng, có khi gã vẫn nên nhờ Yoshino kiếm lấy một
tấm ảnh chân dung của Ikuma Heihachiro, và cần phải biết xem quan điểm
của Ryuji ra sao về chi tiết này. Nghĩ như thế, Asakawa bước ra ngoài và
đuổi theo sau Ryuji.
Tiếng gió thổi ù ù.
Ô hoàn toàn không có tác dụng. Asakawa và Ryuji khom người chạy vội về
phía quán ăn nhẹ ngay trước cảng Motomachi.
- Uống bia chứ?
Không đợi Asakawa trả lời, Ryuji gọi với về phía người phục vụ: "Cho hai chai bia!"
- Ryuji, mình muốn nói tiếp câu chuyện lúc nãy. Theo cậu, tóm lại thì những hình ảnh trong cuốn băng đó là gì?
- Chịu.
Chẳng
buồn ngẩng mặt lên, Ryuji đáp gọn lỏn vì còn mải chén món cơm suất với
thịt nướng. Asakawa lấy dĩa xiên một miếng xúc xích và đưa cốc bia lên
miệng. Qua ô cửa sổ, gã nhìn thấy cầu cảng. Không một mống người trước
phòng bán vé phà Tokai Kisen. Nơi nào cũng vắng lạnh. Những du khách bị
kẹt lại trên đảo chắc hẳn đang lo lắng nhìn trời và biển trong đêm tối
từ những ô cửa sổ quán trọ.
Ryuji ngẩng mặt lên.
- Lúc sắp chết, trong đầu người ta hiện lên những gì cậu có biết không?
Asakawa đưa ánh mắt đang hướng ra ngoài cửa sổ về phía đối diện với mình.
- Những hình ảnh để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm trí sẽ vụt tái hiện như một đoạn phim flash-back...
Asakawa
có lần đã đọc được điều này trong cuốn sách của một nhà văn. Trong lúc
đánh xe trên một cung đường núi, tác giả bỗng nhiên mất lái khiến cho cả
người và xe đều lăn xuống một vực sâu. Vào khoảnh khắc chiếc xe lao ra
khỏi đường và văng lên không trung, nhà văn nọ tin rằng mình sẽ chết, và
vào cái khoảnh khắc nghĩ như thế, hàng loạt những hình ảnh về cuộc đời
ông ta từ quá khứ rào rào lướt qua trước mắt, rõ ràng tới từng chi tiết.
Cuối cùng, giống như một kỳ tích, tác giả thoát chết nhưng cái kinh
nghiệm mà ông ta trải qua vào giây phút ấy thì vẫn còn nguyên trong trí
nhớ.
- Không lẽ cậu định ám chỉ điều đó? - Asakawa hỏi.
Ryuji vẫy người phục vụ và gọi thêm một chai bia nữa.
-
Tớ chỉ liên tưởng thế thôi. Vì các cảnh phim trong cuốn băng là những
thời khắc mà dòng năng lượng tư duy và ý nghĩ của Sadako hoạt động mạnh
nhất. Có thể coi đó là những hình ảnh sâu đậm với cô ta lắm chứ.
- Hiểu rồi, mà này, như thế có nghĩa là...
- Phải, khả năng ấy là rất lớn.
... Yamamura Sadako không còn tồn tại trên cõi đời này nữa? Và cô ta dùng cách đó để lưu lại trên thế giới này những hình ảnh lẫn lộn lướt qua trong đầu mình vào phút lâm chung?
- Tại sao cô ta lại chết? Rồi cả mối quan hệ giữa người đàn ông ở cuối đoạn băng với Sadako nữa chứ?
- Cậu đừng có cái gì cũng hỏi tớ. Tớ làm sao mà biết được tất cả mọi chuyện.
Asakawa tỏ ra chưa chịu.
-
Này, động não một chút đi ông bạn! Cậu quá dựa dẫm vào người khác rồi
đấy. Cậu sẽ ra sao nếu tớ có chuyện và cậu sẽ phải một mình đi tìm câu
thần chú? - Ryuji nói tiếp.
Không đời nào
lại có chuyện ấy. Có chăng chỉ là trường hợp Asakawa chết đi và Ryuji
phải tự tìm câu thần chú một mình, chứ ngược lại thì không. Riêng về
việc này thì Asakawa tin chắc.
- Lúc nãy
có một anh tên là Yoshino gọi điện từ Tokyo đến. Anh ta bảo sẽ gọi lại
sau mười phút nữa vì đang ở ngoài. - Hayatsu thông báo khi họ trở về.
Asakawa ngồi chầu chực trước máy điện thoại và cầu mong cho đó là một tin tốt lành. Chuông reo. Yoshino gọi.
- Ban nãy tớ gọi cho cậu mấy lần... - Giọng Yoshino hơi có vẻ trách móc.
- Xin lỗi, em vừa ra ngoài đi ăn.
- Thế, fax đã đến chưa?
Yoshino khẽ đổi giọng. Vẻ trách cứ biến mất, thay vào đó là sự dịu dàng. Asakawa chợt có linh cảm xấu.
-
Vâng, thông tin rất đáng giá. - Nói rồi Asakawa chuyển ống nghe từ tay
trái sang tay phải. - Sau đấy anh có tìm thấy gì nữa không? Về tung tích
của Yamamura Sadako ấy?
Asakawa dồn dập hỏi. Nhưng có một khoảng lặng trước câu trả lời của Yoshino.
- Không xong. Mất dấu rồi.
Nghe
thấy vậy, mặt Asakawa méo xệch như sắp khóc. Ryuji thì thích chí quan
sát sự biến đổi nhanh chóng từ hy vọng sang tuyệt vọng trên khuôn mặt
của một con người. Y ngồi phịch xuống chiếu rồi duỗi thẳng hai chân ra
phía khoảng sân trước nhà.
- Anh nói mất dấu nghĩa là sao? - Giọng Asakawa lạc đi.
-
Trong đám diễn viên học nghề vào đoàn kịch cùng đợt với Yamamura Sadako
có bốn người là có thể liên hệ được. Tớ gọi cho cả bốn nhưng chẳng ai
biết được điều gì. Bọn họ, gọi thế thôi chứ cũng xấp xỉ năm mươi cả rồi,
đều nhất loạt nói rằng họ không hề trông thấy Yamamura Sadako kể từ khi
giám đốc đoàn kịch Shigemori chết. Ngoài ra, không có thêm thông tin
nào nữa về Yamamura Sadako.
- Không thể, không thể kết thúc như thế này chứ.
- Nói vậy, cậu đã có cách gì chưa...
-
Em sẽ chết vào mười giờ tối mai. Không chỉ có em, mà vợ và con gái em
cũng sẽ chung số phận vào mười một giờ sáng ngày Chủ nhật.
Ryuji nói vóng lại từ đằng sau.
- Cậu quên mất tớ rồi à, rõ chán.
Asakawa tiếp tục, không thèm để ý tới câu nói chen ngang của Ryuji.
-
Chưa hết cách mà anh. Hẳn là còn có ai đó ngoài mấy tay diễn viên học
nghề kia biết được tin tức của Yamamura Sadako chứ. Anh Yoshino, tính
mạng của cả gia đình em đang bị đe doạ.
- Đã chắc gì.
- Ý anh là sao?
- Biết đâu sau hạn chót cậu vẫn sống.
- Anh chưa tin phải không?
Asakawa nghĩ tới cảnh tượng mọi thứ trước mắt mình đều trở nên tối mịt.
- Cậu không thể bảo tớ phải tin một trăm phần trăm câu chuyện ấy được.
-
Nghe em đi anh Yoshino. - Nói cách nào để thuyết phục được con người
này bây giờ? - Tất nhiên, ngay cả em cũng không tin đến một nửa câu
chuyện ấy. Câu thần chú là cái gì cơ chứ, thật là ngu ngốc. Nhưng nghe
em này Yoshino, giả sử với xác suất viên đạn bay ra là 1/6, anh có dám
kề súng vào thái dương mình và bóp cò không? Anh có dám lôi cả gia đình
vào một trò ru-lét Nga nguy hiểm đến thế không? Anh không thể đúng không
nào? Và tất nhiên là anh sẽ hạ súng xuống rồi quẳng nó đi càng xa càng
tốt, như xuống biển chẳng hạn, phải không?
Asakawa nói liền một hơi. Còn Ryuji thì kêu tướng lên ở đằng sau: "Chúng ta ngu quá, ngu quá."
- Cậu im đi! - Asakawa lấy tay bịt ống nghe rồi quay lại nạt Ryuji.
- Có chuyện gì thế? - Yoshino hạ thấp giọng.
- Không, không có gì. Anh Yoshino, giúp em đi. Em chỉ còn có thể trông cậy vào anh...
Ryuji
kéo cánh tay Asakawa giữa lúc gã đang nói. Điên tiết, Asakawa hằm hằm
quay lại. Nhưng thứ mà gã trông thấy là khuôn mặt nghiêm túc đến bất ngờ
của Ryuji.
- Bọn mình ngốc quá. Cả cậu và tớ đều mụ mẫm hết rồi. - Ryuji nói nhỏ.
- Anh chờ em một chút. - Asakawa hạ ống nghe xuống. - Có chuyện gì thế?
-
Việc đơn giản thế mà cớ sao chúng ta không nghĩ ra? Cần gì phải lần
theo Yamamura Sadako từ quá khứ? Chúng ta có thể làm ngược lại cơ mà. Tớ
hỏi cậu: Tại sao lại là ngôi biệt thự B-4? Tại sao lại là Villa Log
Cabin? Tại sao lại là Pacific Land Nam Hakone?
Asakawa ngớ người, rồi gã ngộ ra một điều gì đấy. Sau đó, gã trở lại bình tĩnh và đưa ống nghe lên.
- Anh Yoshino.
Yoshino vẫn đang đợi.
-
Anh Yoshino, anh gác hướng đoàn kịch lại hộ em. Em có một việc khẩn cấp
hơn muốn nhờ anh điều tra. Hình như em đã nói với anh về Pacific Land
Nam Hakone rồi thì phải...
- À, tớ có nghe. Câu lạc bộ resort ấy hả?
-
Vâng. Theo em nhớ thì mười năm trước người ta xây dựng ở đó một sân
golf và gần đây các cơ sở vật chất khác mới được hoàn thiện như là những
dịch vụ đi kèm... Em muốn nhờ anh điều tra xem cái gì đã tồn tại ở đó
trước khi Pacific Land được xây dựng.
Có tiếng cây bút của Yoshino chạy trên giấy.
- Có cao nguyên chứ còn cái gì nữa?
- Có thể là như thế mà cũng có thể không.
Ryuji
lại kéo ống tay áo Asakawa. "Cả bản vẽ nữa. Cậu hiểu chứ? Nếu còn có
các kiến trúc khác trước khi Pacific Land được xây dựng, cậu nhớ nhờ anh
ta xin cho cái bản vẽ ấy."
Asakawa nói
lại với Yoshino y như vậy rồi bỏ máy. Gã vận toàn bộ sức lực vào một ý
nghĩ, nhất định Yoshino phải tìm ra manh mối. Phải rồi, vì ai cũng có
một năng lượng ý nghĩ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét