Phần IV : Tam nhân
Chương XXI : Định hướng xã hội chủ nghĩa
Cho dù vẫn là quốc gia một đảng, kể từ
khi chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, về bản chất, Việt Nam không còn là quốc
gia cộng sản. Thế nhưng, định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn như một “nơi trú ẩn” của
đảng cầm quyền và ý thức hệ vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình ban hành chính
sách. Thật khó để khẳng định, chủ nghĩa xã hội có thực sự là niềm tin của một số
nhà lãnh đạo Đảng lúc bấy giờ nhưng nó đã trở thành quyền lực chính trị, ngăn
chặn thành công những chính sách phát triển đất nước theo hướng kinh tế thị trường.
Quan điểm lấy quốc doanh làm chủ đạo được thiết lập trong thập niên 1990 đã để
lại di chứng lâu dài cho đất nước.
Quốc doanh chủ đạo
Không phải ngẫu nhiêu mà ở giai đoạn
1991-1995, GDP tăng bình quân 8,2%, mức tăng trưởng cao nhất so với cả thập
niên sau đó. Từ chỗ bị cấm đoán, trên nhiều lĩnh vực, Nhà nước đã
để cho người dân được tự do làm ăn. Kinh tế thị trường đã đánh thức
khát vọng cơm no, áo ấm của người dân và trong giai đoạn sơ khai, các nguồn lực
trong dân như những chiếc lò xo đã bung ra mạnh mẽ. Nhưng, khi sức
đàn hồi tự nhiên yếu dần, những bất cập về chính sách, luật pháp và thủ tục
hành chính mới bắt đầu bộc lộ.
Đổi mới bắt đầu chững lại vào giữa thập
niên 1990, và tốc độ chuyển sang kinh tế thị trường có nguy cơ dẫm chân tại chỗ.
Sự sốt ruột được ông Võ Văn Kiệt thể hiện một phần trong "Thư gửi Bộ Chính
trị". Nhưng Đại hội Đảng lần thứ VIII, giữa năm 1996, từ
nhân sự cho đến đường lối, đã không cung cấp được nhân tố mới nào. Theo ông
Phan Văn Khải, nói là Đảng bắt đầu đổi mới từ năm 1986, nhưng trên thực tế
trong suốt nhiệm kỳ VI (1986-1991), trong Đảng vẫn tranh cãi liên miên về đường
đi. Chấp nhận kinh tế tư nhân vì thấy “vẫn còn cần” nhưng mối quan tâm chính của
Đảng vẫn là kinh tế quốc doanh.
Trước khi cho phép tư nhân lập công
ty, tháng 3-1989, tại Hội nghị Trung ương 6, khóa VI, Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh nói: “Ban Chấp hành Trung ương đòi hỏi phải có những biện pháp mạnh mẽ, đồng
bộ và thiết thực để cởi trói, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc cho kinh tế quốc
doanh nâng cao hiệu quả kinh tế của nó, khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế
quốc doanh trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần”. Cuối năm 1989, sau mấy tháng
áp dụng các biện pháp chống lạm phát, trong đó áp dụng khá triệt để nguyên tắc
tự hạch toán kinh doanh đối với các doanh nghiệp, thị trường tốt hẳn lên. Nhìn
kết quả chung của toàn nền kinh tế thì đó là một thành công. Khu vực kinh tế
phi nhà nước được lợi, người dân được lợi lớn. Nhưng các doanh nghiệp nhà nước
thì bế tắc.
Quen được bao cấp từ cung cấp vật tư
cho tới khâu tiêu thụ, nay phải tự vay vốn, tự tính đúng, tính đủ giá thành sản
phẩm, nhiều doanh nghiệp nhà nước đứng bên bờ vực vì thiếu vốn, hàng làm ra
không bán được. Than Quảng Ninh bốn năm tháng không có lương trả công nhân. Nhà
máy Diesel Sông Công, Thái Nguyên, niềm tự hào của nền công nghiệp Việt Nam,
trong năm 1989 sản xuất được 5.000 đầu máy 50 mã lực nhưng chỉ bán ra được một
cái.
Theo ông Nguyễn Văn Nam, thư ký của
ông Đỗ Mười: “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh bốn lần gặp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Đỗ Mười phê phán. Giữa năm 1989, khi họp Trung ương, nghe ông Đỗ Mười báo cáo
những mặt tích cực của nền kinh tế, ông Linh nói: ‘Mất chủ nghĩa xã hội tới nơi
rồi còn nói thành tích’. Ông Linh đòi ông Mười phải bỏ áp dụng các biện pháp chống
lạm phát áp dụng từ quý II năm 1989. Ông Mười triệu tập các chuyên gia bàn cách
thi hành lệnh của Tổng Bí thư”.
Thôi áp dụng các nguyên tắc trong đề
án chống lạm phát đồng nghĩa với việc từ bỏ những nguyên tắc của kinh tế thị
trường, yếu tố giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng. Các chuyên gia gặp nhau,
hết sức lo lắng, Giáo sư Đào Xuân Sâm đề nghị: “Tôi đến tuổi rồi, có gì thì về
hưu, các cậu cứ để đấy tôi nói”. Vào họp, Giáo sư Đào Xuân Sâm hỏi ông Đỗ Mười:
“Anh làm thủ tướng của sáu mươi triệu dân hay chỉ là sáu triệu cán bộ quốc
doanh?”. Ông Đỗ Mười nói: “Làm gì tới sáu triệu, chỉ khoảng ba, bốn triệu
thôi”. Giáo sư Sâm tiếp: “Quốc hội bầu anh đứng đầu Chính phủ là để lo cho toàn
dân chứ đâu phải chỉ lo cho mấy triệu công nhân quốc doanh. Một phương án đang
đem lại lợi ích cho đất nước, cho nhân dân mà anh tính bỏ sao được”. Bị đặt giữa
hai dòng áp lực, ông Đỗ Mười đành phải duy trì những chính sách đang phát huy
hiệu quả đồng thời yêu cầu: “Các anh tìm cho tôi phương án cứu quốc doanh”.
Nhóm chuyên gia của ông Đỗ Mười bàn
và đưa ra lý lẽ: Kinh tế thị trường là thả các doanh nghiệp, trong đó có quốc
doanh, ra bơi chung trong một biển hồ. Vì quốc doanh chưa biết bơi nên thả ra
là chết. Ngày xưa bao cấp như những chiếc lồng ấp, nên nếu quốc doanh ngắc ngoải
có thể vớt lên đưa vào lồng may ra sống lại. Nhưng nay, những chiếc lồng ấp
không còn, có vớt lên bờ nó cũng chết. Nguyên tắc của doanh nghiệp là phải bơi
trong thị trường. Nếu chưa biết bơi thì thả thêm phao cho nó.
Ông Nguyễn Văn Nam giải thích: “Cái
phao được thả ra vào thời điểm này là vốn, toàn bộ khấu hao, Chính phủ cho các
doanh nghiệp quốc doanh giữ lại. Các doanh nghiệp còn được cấp trực tiếp một
khoản tiền: Than Quảng Ninh và Diesel Sông Công được cấp bốn tỷ trả lương; quốc
doanh được áp dụng tín dụng ưu đãi, được vay vốn với lãi suất khoảng 6-7% thay
vì 13% như thị trường”. Các ngân hàng quốc doanh lại trở về với nguyên tắc bao
cấp khi phải cung cấp một lượng tín dụng rất lớn cho ngân sách có tiền chi tiêu
và cho các xí nghiệp quốc doanh.
Theo ông Nguyễn Văn Nam: “Sự trì trệ
của quốc doanh bắt đầu từ chính sách này. Họ đã không dựa vào phao để học bơi
mà suốt đời cứ bám vào cái phao Nhà nước. Sức bám càng ngày càng nặng dần đó là
lý do mà khu vực kinh tế quốc doanh chậm đổi mới và hiệu quả của nền kinh tế
thì càng ngày càng thấp”. Sự tồn tại của quốc doanh, từ đó, theo ông Trần Đức
Nguyên, “chủ yếu dựa vào những ưu ái của Nhà nước: được khai thác
tài nguyên, đặc biệt là đất đai; được độc quyền trong những ngành mà Nhà nước
giữ quyền chi phối; nhận được tín dụng ưu đãi theo kênh hành chánh, người vay
không phải chịu trách nhiệm gì”.
Những người soạn thảo “Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000”, một trong ba văn
kiện chính của Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng 6-1991, đã cố gắng đặt các khung
chính trị để phát triển kinh tế nhiều thành phần, chỉ giữ quốc doanh trên những
lĩnh vực mà các thành phần khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh
doanh. Tổ phó Biên tập Chiến lược, ông Trần Đức Nguyên, thừa nhận những quan điểm
này được hình thành sau chuyến đi “khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế ở bốn
nước châu Á”.
Tuy ghi nhận kinh nghiệm sử dụng vai
trò nhà nước trong giai đoạn đầu đối với các nước từ nông nghiệp lạc hậu đi lên,
nhưng đoàn của ông Phan Văn Khải chủ yếu tiếp thu các khuyến cáo về kinh tế quốc
doanh. Ở cả bốn nước mà đoàn đi qua đều có tình trạng chung: trong cùng một
ngành hoạt động, quốc doanh thường kém hiệu quả hơn tư nhân, do ít tự chủ, được
ưu đãi nhưng lại bị nhà nước can thiệp sâu, nên bị động và ỷ lại.
Báo cáo chuyến khảo sát của ông Phan
Văn Khải viết: “Cuối cùng chính các quốc gia này rút ra: cái gì tư nhân làm được
thì để tư nhân làm; Khác với quan điểm cái gì quốc doanh không làm được mới để
tư nhân làm. Cả bốn nước đều tư nhân hóa khu vực quốc doanh, nhưng vẫn giữ lại
những cơ sở cần thiết như cơ sở phục vụ công cộng, cơ sở khai thác tài nguyên
quan trọng như dầu mỏ, cơ sở ở những lĩnh vực tư nhân không muốn làm hoặc không
đủ sức làm”.
Thị trường và lập trường
Đầu thập niên 1990, người Nga sang Việt
Nam đàm phán không nói chuyện buôn bán mà chỉ đòi nợ cũ của Liên Xô. Nền công
nghiệp gia công mũi giày, may áo sơ mi, xuất sang Liên Xô, Đông Âu bắt đầu điêu
đứng vì thị trường truyền thống không còn nữa. Hàng vạn công nhân thất nghiệp.
Việt Nam bắt đầu phải tìm kiếm bạn hàng từ những thị trường khác.
Các doanh nghiệp phải trầy vi, tróc vảy,
đi dần từng bước, từ các bạn hàng Hồng Kông, Đài Loan rồi mới nhích tới EU. Đã
có biết bao công ăn, việc làm được phục hồi nhờ những bạn hàng mới đó. Nhưng do
chưa quen gia công hàng cao cấp, hàng hóa cứ bị trả vì không đạt chất lượng.
Khách hàng khắc phục bằng cách cử chuyên gia sang kiểm tra. Hàng hóa không còn
bị trả lại nữa nhưng việc các chuyên gia tư bản ngồi trong các nhà máy quốc
doanh làm cho nhiều người chạnh lòng.
Bộ trưởng Lê Văn Triết kể: “Tôi báo với
ông Kiệt, ông Kiệt nói: làm với ai, làm gì mà có lợi cho đất nước thì mình cứ
làm. Nhưng rồi bên Ban Bí thư nói vô nói ra, có người sợ cho tư bản kiểm tra
hàng hóa của mình là mất chủ quyền, mình lệ thuộc vào nó. Có người thậm thà, thậm
thụt với ông Đỗ Mười. Ở nhiều hội nghị, kể cả trong hội nghị trung ương, ông Đỗ
Mười cảnh báo: Coi chừng mất định hướng, mất chủ nghĩa xã hội”. Theo ông Phan
Văn Khải, tết năm 1989, tuy chúc “người dân làm giàu”, nhưng ông Đỗ Mười vẫn
dùng ảnh nền tảng.
Ông Phan Văn Khải nói: “Tôi và Thủ tướng
Võ Văn Kiệt cho rằng, phải phá bằng được thế kế hoạch hóa tập trung, phải chuyển
nền kinh tế từ chỗ nhà nước quyết định đến chỗ do thị trường quyết định. Nhà nước
chỉ tạo ra hành lang pháp lý còn chuyện làm giàu thì phải để cho người dân,
nhân dân phải là người quyết định sự nghiệp của đất nước. Trong suốt một thời
gian dài chúng tôi phải tranh cãi để bảo vệ quan điểm này với những nhà lý luận
mà ông Đỗ Mười tập hợp, từ Đào Duy Tùng đến Nguyễn Đức Bình và kể cả Lê Xuân
Tùng. Mãi về sau này, chúng tôi mới có thêm những người ủng hộ như Phan Diễn,
Nguyễn Văn An. Còn những người còn lại trong Bộ Chính trị thì không quan tâm đến
lý luận”.
Trong hai ngày 30 và 31-7-1993, ông
Võ Văn Kiệt tổ chức một phiên họp thường kỳ của Chính phủ tại Dinh Thống Nhất.
Sau khi đánh giá: “Tình hình kinh tế xã hội đang có những chuyển biến tích cực,
đúng hướng, đã vượt qua được những thử thách to lớn, đi dần vào thế ổn định”.
Trước sự có mặt của báo giới, ông Kiệt gửi đi thông điệp: Phải làm bật dậy mọi
tiềm năng trong cả nước, khai thác khả năng tiềm tàng của các thành phần kinh tế,
đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài nhằm đẩy nhanh công cuộc xây dựng
đất nước.
Ngay sau phiên họp, khi trả lời phỏng
vấn Tuổi Trẻ, Phó Thủ tướng Phan Văn Khải, tuy cho rằng “trong giai đoạn trước
mắt, dân doanh còn nghèo, quốc doanh còn phải trụ cột”, nhưng vẫn nhấn mạnh:
“Quốc doanh vẫn chủ yếu đầu tư cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện cho các thành phần,
các ngành kinh tế phát triển”. Mặc dù vẫn “hướng tới thành lập những công ty lớn
và những tập đoàn [quốc doanh] có sức cạnh tranh với bên ngoài”, Chính phủ sẽ
cho cổ phần hóa để huy động vốn đầu tư vào những công trình quan trọng hơn”.
Nhưng theo ông Phan Văn Khải: “Chính phủ củng cố quốc doanh không có nghĩa là
tiếp tục ôm lấy gánh nặng cho nền kinh tế”.
Cũng từ giai đoạn này, chính phủ chủ
trương bỏ dần khái niệm bộ chủ quản và khái niệm xí nghiệp trung ương, xí nghiệp
địa phương, tách bạch vai trò quản lý nhà nước của các bộ với quản lý sản xuất
kinh doanh. Chính phủ, kể từ năm 1991, thể hiện khá nhất quán chính sách nhắm tới
nền kinh tế nhiều thành phần.
Hơn bốn tháng sau khi đứng đầu chính
phủ, ông Võ Văn Kiệt đã ký quyết định thành lập Hội đồng Trung ương Lâm thời
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bổ nhiệm cựu Bộ trưởng Thương mại Hoàng Minh
Thắng làm chủ tịch. Ông Thắng nói: “Chủ trương của ông Kiệt khi cho ra đời tổ
chức này là để khuếch trương kinh tế tư nhân, coi tư nhân là lực lượng chủ lực
của nền kinh tế”. Từ tháng 12-1991 cho đến tháng 10-1993, Hội đồng Trung ương
Lâm thời đã tổ chức được ba mươi tám hội đồng lâm thời ở ba mươi tám tỉnh,
thành phố, trực thuộc trung ương, đặc biệt, cũng trong giai đoạn này, các hợp
tác xã đã được tổ chức lại theo tinh thần hợp tác tự nguyện.
Nhưng, cuối tháng 10-1993, khi đại biểu
của ba mươi tám tỉnh, thành bắt đầu về Hà Nội để dự đại hội thành lập hội thì
Trung ương Lâm thời được Ban Bí thư triệu tập. Theo ông Hoàng Minh Thắng: “Tôi
trình bày trước Ban Bí thư về công tác chuẩn bị, về lực lượng hơn hai trăm
nghìn doanh nghiệp tư nhân và ba trăm nghìn hợp tác xã và tổ kinh tế hợp tác.
Ông Đỗ Mười nghe, nói: rộng quá, to quá! Không cần giải thích, ông quyết định
thành phần hội viên chỉ còn là tổ hợp tác và hợp tác xã, không cho bao gồm cả
doanh nghiệp tư nhân. Đại hội, do đó, vẫn diễn ra vào ngày 30-10-1993 nhưng
thay vì thành lập Hội Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trở thành đại hội thành lập
Liên minh các hợp tác xã”.
Ba tháng sau, từ ngày 20 đến
25-1-1994, tại hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng, ông Đỗ Mười đã đọc một văn kiện
chỉ ra bốn nguy cơ: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc
phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện,
nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu, nguy cơ “diễn biến hoà bình” của
“các thế lực thù địch”. Nói là “bốn nguy cơ”, nhưng chỉ có “chệch hướng” và “diễn
biến hòa bình” là thực sự được nhấn mạnh. Nền “kinh tế thị trường” mà Đại hội Đảng
lần thứ VII đưa vào văn kiện “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm
2000” đã được thêm “đuôi” để trở thành: “Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Không đơn giản chỉ là chuyện câu chữ,
cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào “kinh tế thị trường” phản
ánh mối tương quan quyền lực, cho thấy những nỗ lực để Việt Nam thoát ra khỏi
mô hình kinh tế kế hoạch hóa là không hề dễ dàng. Sự nửa vời này gây bức bối
cho cả khu vực kinh tế nhà nước lẫn khu vực kinh tế tư nhân.
Ngày 8-2-1995, ông Võ Văn Kiệt vào
Sài Gòn, gặp 300 nhà doanh nghiệp tại Dinh Thống Nhất. Ông Kiệt
phân bua: “Chính phủ đang làm dâu hai họ, quốc doanh và tư doanh ai cũng kêu
mình không được đối xử bình đẳng”. Các xí nghiệp quốc doanh cho rằng họ đang phải
chịu nhiều thuế và phí hơn tư doanh, trên đầu họ, ngoài pháp luật còn có một cơ
quan chủ quản. Trong khi, các giám đốc tư nhân lại cảm thấy bị thua thiệt với
không chỉ quốc doanh mà còn với các doanh nhân nước ngoài. Sau cuộc
họp đó, ông Kiệt cử người vào Nam và mặc dù bị các tổng công ty nhà nước kinh
doanh lúa gạo phản ứng khá dữ dội, ông Kiệt quyết định, thay vì tập trung quyền
xuất khẩu gạo cho hai tổng công ty, chính phủ còn trao quyền này cho các tỉnh.
Ông Khải cho rằng chưa có một chính
phủ nào trong một thời gian ngắn có thể ban hành nhiều văn bản luật như Việt
Nam của thập niên 1990. Điều mà nền kinh tế cần, theo thuật ngữ lúc đó, là một
“hành lang pháp lý” để các thành phần kinh tế đều có thể vận hành theo kinh tế
thị trường. Nhưng thị trường chính là điểm xung đột đối với những người coi lập
trường quan trọng hơn quốc gia phát triển.
Khi Luật Thương mại được Chính phủ Võ
Văn Kiệt biên soạn theo nguyên tắc “công dân có quyền tự do mua bán, tự do sản
xuất kinh doanh”, theo Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết, trước khi Quốc hội họp,
ông Đỗ Mười kêu ông lên, mắng: “Tự do gì cũng phải ở trong khuôn khổ, quốc
doanh phải nắm, nước nào nhà nước cũng phải quản lý”. Rồi ông Đỗ Mười yêu cầu Bộ
Thương mại biên soạn lại theo hướng “quốc doanh thống lĩnh thị trường, kiên quyết
không để cho tư thương đẩy lùi trận địa”. Ông Triết nói với ông Mười: “Thưa
anh, đây là Hiến pháp”. Ông Mười nói: “Hiến pháp thì cũng phải vận dụng. Anh phải
hiểu chứ”. Ông Triết buộc phải cắt bớt mấy chữ “tự do mua bán”, các đại biểu
không đồng tình, Quốc hội biểu quyết giữ nguyên như dự thảo ban đầu. Ông Đỗ Mười
lại kêu ông Triết lên, mắng: “Anh làm lỡ hết, Quốc hội biết rồi. Bây giờ phải
tìm cách sửa khi làm nghị định hướng dẫn”.
Sở dĩ hàng chục năm sau đổi mới, Việt
Nam vẫn không có một thị trường phát triển đúng tầm, không có những nhà tư sản
thương nghiệp có khả năng tìm kiếm thị trường bên ngoài, theo Bộ trưởng Thương
mại Lê Văn Triết, là do “những nỗ lực theo đúng kinh tế thị trường rất dễ bị
coi là chệch hướng. Đề án xây dựng thị trường nội địa của tôi bị bác bỏ gần hết.
Bản dự thảo sau khi đưa lên mấy tầng, cuối cùng trở về không còn là bản của
mình nữa. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng không bảo vệ được”.
Ngay cả khi không còn giữ chức tổng
bí thư, ông Đỗ Mười còn có ảnh hưởng quyết định trong việc duy trì vai trò chủ
đạo của khu vực kinh tế nhà nước. Khi chuẩn bị Nghị quyết 05,
Chính phủ Phan Văn Khải lưu ý: “Có nơi còn coi trọng số lượng hơn chất lượng,
hiệu quả, còn cho rằng doanh nghiệp nhà nước phải chiếm tỉ trọng lớn, phải có mặt
và phải chi phối ở hầu hết các lĩnh vực, các ngành kinh tế thì mới làm được vai
trò chủ đạo”. Nhận xét này đã bị ông Đỗ Mười phê phán.
Trong thư gửi Bộ Chính trị đề ngày
2-11-2000, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Đỗ Mười cho rằng quan điểm “thu
hẹp doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh các thành phần kinh tế khác là một
khuynh hướng sai lầm cần uốn nắn”. Theo ông Đỗ Mười: “Quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa dựa trên ‘chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu’ là một
trong những đặc trưng của xã hội chủ nghĩa... Mọi sự coi nhẹ, làm suy yếu kinh
tế nhà nước chính là biểu hiện của nguy cơ chệch hướng”. Ông Đỗ Mười cho rằng:
“Luận điệu tuyên truyền và sức ép của các thế lực tư bản đế quốc bên ngoài về
‘tư nhân hóa’ đã tác động không ít đến nhận thức một số cán bộ, đảng viên ta”.
Cuối năm 2000 mà ông Đỗ Mười còn đề nghị quốc doanh nắm lại các ngành vận tải
ô-tô, ngành bán buôn và bán lẻ vật tư và hàng hóa tiêu dùng,… vì ông cho rằng
đó là những ngành “then chốt của nền kinh tế”.
Cố vấn Đỗ Mười đưa ra nguyên tắc: “Cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải nhằm tăng cường kinh tế nhà nước, chứ không
phải làm suy yếu nó”. Trong một bức thư khác, gửi đi ngày
14-11-2000, Cố vấn Đỗ Mười còn dẫn những số liệu cho thấy cổ phần hóa trên thực
tế đã không theo đúng những nguyên tắc này.
Hội nghị Trung ương 3, cho dù họp vào
tháng 9-2001, khi ông Đỗ Mười đã thôi cố vấn hơn nửa năm, vẫn phải thông qua
Nghị quyết 05, theo hướng tuy “đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thực
hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản doanh
nghiệp nhà nước”, nhưng lại coi “quy mô còn nhỏ là một trong những mặt hạn chế,
yếu kém rất nghiêm trọng”. Nghị quyết 05 “trao” cho kinh tế nhà nước “vai trò
quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước”.
Tháng Giêng năm 2004, khi vai trò
thái thượng hoàng của “tam nhân” không còn nhiều, Chính phủ của ông Phan Văn Khải
mới có thể mạnh tay sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh sau khi đạt được thỏa
thuận trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa IX: “Cổ phần hóa không chỉ
được đẩy nhanh tiến độ mà còn được mở rộng diện, kể cả một số tổng công ty và
doanh nghiệp lớn”.
Phan Văn Khải
Cuối thập niên 1990, sau khi ông Phan
Văn Khải đã trở thành thủ tướng, gia tộc họ Phan ở Nghệ An có mời ông về nhân một
lần nhóm họ, ông Khải cho vợ, bà Nguyễn Thị Sáu, mang quà về. Sự xuất hiện của
phu nhân thủ tướng tại gia tộc họ Phan đã khiến cho nhiều người tin vào những lời
đồn đoán: Ông Phan Văn Khải là con của ông Phan Đăng Lưu, một người
từng lãnh đạo Xứ ủy Nam Kỳ.
Trên thực tế, mãi tới năm 1939, Phan
Đăng Lưu mới vào Nam Bộ trong khi ông Phan Văn Khải sinh ngày 25-12-1933 tại xã
Tân Thông Hội, huyện Củ Chi. Mẹ ông, bà Phan Thị Mung là con của
ông Phan Văn Ngoan, một người có bảy mẫu ruộng, theo Thiên Địa Hội
và có uy tín ở trong làng. Ông Ngoan và vợ, bà Trần Thị Lược, chỉ
có được một người con gái sau bốn lần sinh con trai mà không nuôi được.
Năm mười chín tuổi, bà Mung mang thai
với ông Nguyễn Văn Phèn, thường gọi là ông Cả Phèn, sinh ra Phan Văn Khải. Ông nội
ông Cả Phèn từng làm cai tổng vùng Củ Chi. Theo ông Phan Văn Khải: “Ông ngoại
tôi ghét ông Cả vì mẹ tôi vừa lớn lên, có bầu với ông rồi bị ông bỏ rơi. Nhưng,
trong làng ai cũng biết, ông Cả hay đón tôi ở ngoài đường rồi chở tôi đi chơi bằng
xe đạp. Các ông anh cùng cha cũng hiền và một người chị gái thì rất thương tôi.
Vợ ông Cả thậm chí thỉnh thoảng còn cho mẹ tôi tiền. Khi tôi đi kháng chiến ông
Cả có nhắn về để ông lo cho ăn học”.
Ông Phan Văn Khải kể: “Khi tôi ra đời
thì gia đình phá sản, phải bán đất. Ông ngoại chỉ còn lại một hecta ruộng và một
hecta vườn. Ông không có con trai nên không có lao động. Năm 1940 khó khăn, ông
ngoại phải bán luôn cả cái nhà bằng gỗ. Tôi lớn lên trong hoàn cảnh nghèo nhưng
ông ngoại vẫn cho đi học. Học hết tiểu học, thi lên lớp xong thì Việt Minh cướp
chính quyền, thế là từ đó chỉ ở nhà giữ em, chăn trâu, làm thuê; ai kêu gì làm
nấy, nhổ đậu, cắt lúa, nhặt đậu”. Chính những công việc này lại là cơ duyên để
ông Khải “thoát ly”.
Ông Phan Văn Khải kể: “Một lần, đi
chăn trâu ở Tân Phú Trung, tôi gặp mấy ông cán bộ xã trốn ở đây, huyện đưa giấy
tờ về họ đọc không được, họ nhờ tôi đọc, riết thành ‘giác ngộ cách mạng’. Năm
1947, tôi về làng tham gia đội thiếu nhi cứu quốc, lập ban chấp hành thiếu nhi
cứu quốc, làm thư ký ban chấp hành chi đội. Tháng 2-1948, ông Tám Hòa, chủ nhiệm
Việt Minh Hóc Môn, thấy tụi tôi khai hội, ông kéo lên huyện họp, lập Ban Chấp
hành Thiếu nhi Hóc Môn, tôi là ủy viên. Họp xong, từ An Nhơn Tây về nhà, tới
Mũi Lớn, nghe tin ông bố dượng là chủ nhiệm Việt Minh thôn bị bắn chết, tôi lội
bưng về thì má vừa chôn cất dượng xong”.
Bố dượng mất khi mẹ đang mang thai,
ông Khải định ở nhà làm ăn đỡ đần mẹ nuôi ông bà. Nhưng, ông Khải nói: “Cấp
trên thấy tôi lâu không lên, cử một người xuống xã Mỹ Hạnh gọi tôi qua. Ăn cơm
xong, tôi nói hoàn cảnh. Vị đại diện này nói một câu: ‘Xã đang căng, mày ở nhà
trước sau cũng chết. Nợ nước thù nhà, mày phải đi mới trả được’. Tôi nghĩ, chết
mà không làm tròn nghĩa vụ thì không đáng làm trai nên quyết dứt áo ra đi. Về gặp
ông ngoại, ông nói ‘nên đi’, bà ngoại dặn, ‘đừng ra nơi làn tên, mũi đạn’.
Không dám gặp má từ giã, tôi viết thư, dặn ông ngoại đợi tôi đi rồi mới đưa cho
má”.
Từ đó, ông Phan Văn Khải học cách
khai hội, phát biểu trước thanh niên. Huyện Hóc Môn chia thành năm khu, ông phụ
trách công tác đoàn đội ở một khu. Năm 1950, ông được điều lên Văn phòng tỉnh
đoàn Gia Định. Ông Khải nói: “Tất cả sách vở của Xứ ủy và Trung ương gởi vô,
tôi đọc hết. Vừa làm vừa thi vào tiểu học tỉnh Gia Định, đậu thứ chín nhưng ông
tỉnh đoàn trưởng không cho đi vì có một thằng nó đi ai làm. Tôi hứa sẽ vừa làm
vừa học, 6, 7 tháng thì xong lớp 4”.
Đầu năm 1954, ông và bà Nguyễn Thị
Sáu cùng ba người bạn khác được đưa xuống miền Tây học, mới tới Hồng
Ngự thì nghe tin Pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ. Ông cùng bà Sáu vào tỉnh ủy,
ông bí thư là Nguyễn Trọng Tuyển, giữ lại ăn cơm. Đang ăn thì ông Tô Ký đi họp
về, ngồi vào bàn, nói: “Cho mấy đứa này ra Bắc học”. Tháng 10-1954, hai người
cùng lên một chuyến tàu của người Pháp chạy ra Sầm Sơn, Thanh Hóa.
Ông Phan Văn Khải kể: “Lúc đầu mấy
ông định cho đi học, nhưng sau lại đưa đi làm giảm tô đợt 7. Trước khi đi, ông
Tố Hữu tới giáo huấn một buổi rồi đưa xuống Bình Nghĩa, được bố trí ở trong một
nhà nghèo. Mùa đông, đi cày, đi cấy, rét gần chết. Năm ấy, dân tình rất đói.
Tôi thấy một bãi đất rộng khoảng hai mươi hecta, liền kêu gọi thanh niên trồng
khoai lang. Đoàn về kiểm tra, thấy có thằng miền Nam năng nổ, quyết định tặng
Huân chương Lao động hạng III, nhưng khi huân chương về thì tôi đã được đưa lên
Sơn Tây, học trường cải cách ruộng đất. Học xong được phân công về xã Võng
Xuyên, Phúc Thọ, Hà Tây. Mấy ông Đội khác rất hống hách. Ở Võng Xuyên, Đội tôi
cũng có bắn một cai tổng vì được tố là đã giết chết nhiều người ở gốc đa đầu
làng. Lúc đó tôi là đội phó”.
Trong thời gian đó, bà Nguyễn Thị Sáu
được đưa đi học Đại học Nhân dân, trường do ông Phạm Văn Đồng kiêm hiệu trưởng.
Bà Sáu và ông Khải bắt đầu phải lòng nhau từ khi bị kẹt lại ở Hồng Ngự, mối
quan hệ này trở thành tình yêu trong những ngày họ cùng ở trên đất Bắc. Ngày
16-8-1956, tại Yên Mỹ, nơi ông đang làm cải cách ruộng đất, họ chính thức làm lễ
cưới với sự chứng kiến của ông chú ruột của ông Khải, nguyên chủ tịch Ủy ban
Kháng chiến Chợ Lớn, cùng tập kết.
Tháng 9-1956, ông Khải nhận được thư
của Ban Tổ chức Trung ương kêu về học trường Bổ túc Công nông Trung ương, nơi
mà những người nổi tiếng lúc đó như anh hùng Ngô Gia Khảm, anh hùng La Văn Cầu
đang học.
Ông Phan Văn Khải kể: “Trường bắt đầu
với hai lớp, 4 và 5, tôi thi đậu vào lớp 5. Tôi học hết 6 lớp trong ba năm thay
vì theo quy định là bốn năm, vừa học vừa làm công tác Đoàn toàn trường. Năm
1957, vợ tôi sinh con trai đầu lòng, hàng ngày tôi đi bộ từ trường về nhà ở số
4 Thụy Khê. Năm 1959, ông anh vợ mới dành tiền, thương, mua cho cái xe đạp. Sáng
vô trường mua nắm xôi, vừa lật bài, vừa ăn, vừa học. Học hết cấp III tôi thi đậu
vào bách khoa, định sẽ làm kỹ sư điện nhưng vừa nhận chức lớp trưởng thì có quyết
định qua trường ngoại ngữ, ở đó, 1/3 sinh viên học tiếng Trung Quốc, 2/3 học tiếng
Nga. Tôi học tiếng Nga rồi đi Liên Xô học ngành kinh tế kế hoạch”.
Năm 1965, tốt nghiệp về nước, ông Khải
muốn đi dạy nhưng bà Sáu, lúc ấy làm ở Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, muốn ông về
cùng. Ba năm sau ông được cử giữ chức trưởng phòng. Đến năm 1972, chuẩn bị ký
Hiệp định Paris, ông Lê Duẩn có kế hoạch lập chính phủ ba thành phần, ông Khải
cùng một số cán bộ được đưa vào Trung ương Cục. Khi kế hoạch này bất thành, hè
năm 1973, ông ra Bắc trở lại nhận một chức vụ phó ở Ủy ban Thống nhất. Tháng
Giêng năm 1976, ông Phan Văn Khải được đưa về Sài Gòn. Lúc này, Ủy ban Nhân dân
Cách mạng vừa được thành lập, ông Khải được bổ nhiệm làm phó chủ nhiệm Ủy ban Kế
hoạch, ông Võ Văn Kiệt khi ấy là chủ tịch Thành phố kiêm chủ nhiệm.
Ông Phan Văn Khải là một cán bộ mẫn
cán. Thật khó để đánh giá ông là một người không muốn tranh đua danh vọng hay
là một người không muốn đặt mình trong các tâm điểm của đấu trường. Khi về Sài
Gòn, ông Trưởng Ban Tổ chức Trương Văn Tư hỏi: “Mày về đây muốn làm chức gì?”.
Ông Khải trả lời: “Ở ngoài kia, cháu vụ phó, chú có thể giao cháu làm phó chủ
nhiệm Ủy ban, nếu một thời gian thấy cháu không làm được thì cho cháu thôi”. Một
năm sau ông Tư nói: “Mấy ổng kêu mày khá”.
Làm phó cho ông Võ Văn Kiệt muốn được
khen thì phải vô cùng nỗ lực. Ông Phan Văn Khải kể: “Khi ở Liên Xô về, tôi cân
nặng 52 kg, vào Thành phố một thời gian còn 43 kg, Thành phố cho ra Thanh Đa an
dưỡng lên được 3 kg”. Năm 1976, ông Phan Văn Khải được giới thiệu vô Thành ủy
nhưng đã rút lui để không chia phiếu của ông Vũ Đại, một người đồng cấp lớn tuổi.
Nhưng từ khi đó, ông đã là người được ông Lê Đức Thọ xếp vào diện cán bộ nguồn.
Năm 1978, ông được Ban Bí thư chỉ định làm Thành ủy viên, năm sau, 1979, được
đưa bổ sung làm phó chủ tịch trực Ủy ban Nhân dân Thành phố kiêm chủ nhiệm Ủy
ban Kế hoạch.
Những năm đầu thập niên 1980, ông
Phan Văn Khải đã sử dụng các thương nhân người Hoa, lập các trạm thu mua nông sản
để xuất khẩu. Ông cũng được ông Võ Văn Kiệt, khi đó đã là phó chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng, ủng hộ lập công ty vận tải biển Saigonship. Ông cũng là người chủ
trương mở đường cho tư nhân ở Thành phố được làm xăm lốp ô tô, xe đạp,…
Giai đoạn này, ông Nguyễn Văn Linh được
điều trở lại thay ông Kiệt làm bí thư Thành ủy. Theo ông Khải: “Khi mới về gặp
công nhân, ông Nguyễn Văn Linh nói: Bây giờ chúng ta làm chủ nhà máy, xí nghiệp.
Công nhân nói: Hồi xưa làm thuê chúng tôi có việc làm bây giờ làm chủ thì chúng
tôi không có việc làm nữa. Ông Linh tỉnh ra. Ông Linh cũng đổi mới nhưng không
phải bắt đầu bằng sự lăn lộn, nghiên cứu, tổng kết như ông Kiệt”.
Thời gian đó, Thành phố bươn chải
trong một khung cảnh, nhận thức của nhiều địa phương còn ấu trĩ. Ông Phan Văn
Khải nhớ lại: “Thấy chúng tôi thu mua lương thực, thực phẩm, bí thư Đồng Nai
than: Chiều chiều thấy bắp, trái chở về Sài Gòn là tôi lại xót xa. Trong một hội
nghị ở Vĩnh Long, có người nói: Gạo thịt của chúng tôi bị chở về Thành phố hết.
Chủ trì hội nghị, ông Kiệt nói: Sau này, nếu Thành phố không tiêu thụ thì dân họ
sẽ níu áo ông vì bán không được đấy”.
Cuối thập niên 1970, ông Phan Văn Khải
luôn có mặt bên cạnh ông Kiệt trong những chuyến đi cơ sở gỡ rối cho doanh nghiệp.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, ông, một người được đào tạo về kinh tế kế hoạch
hóa ở Liên Xô, bắt đầu nhận thấy nhu cầu tìm hiểu nền kinh tế của các nước
phương Tây. Từ Sài Gòn, ông Phan Văn Khải đề nghị Bộ Chính trị cho ông tổ chức
một đoàn nghiên cứu đi các nước trong khu vực. Mục đích của chuyến đi được đề
nghị công khai là “thăm dò cơ hội đầu tư và thái độ của các nước ASEAN đối với
chính sách đổi mới của Việt Nam”. Tháng 9-1988, đề nghị của ông Khải được Bộ
Chính trị đồng ý sau nhiều lần thảo luận.
Ông Phan Văn Khải lúc đó là chủ tịch Ủy
ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhưng xin visa với danh nghĩa là trưởng đoàn
doanh nhân Thành phố. Theo ông Nguyễn Văn Kích, thư ký ông Khải: “Lúc đầu Đoàn
dự định đi năm nước, bao gồm cả Hồng Kông, nhưng sau khi đi Singapore, Thái
Lan, Malaysia, Indonesia, do có vài trục trặc nên chuyến đi đến Hồng Kông không
thực hiện”.
Chuyến đi được sắp đặt bởi Charles Đức.
Ở Singapore, theo ông Võ Tá Hân: “Tôi bỏ việc để đưa đoàn tham quan. Vì chưa có
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Singapore nên Đoàn không thể thăm trực tiếp
nhiều chỗ, chẳng hạn như khi muốn xem cảng Singapore thì tôi phải đưa lên tầng
cao tòa nhà IBM đang xây của tập đoàn CDL - Hong Leong để ngắm”. Sau mấy ngày
thăm Singapore, ông Khải muốn có một buổi nói chuyện và câu hỏi mà ông đặt ra
là, “Việt Nam phải làm gì để đi theo con đường của Singapore?”. Chiều
28-9-1988, Đoàn họp tại Vietnam Trade House. Ông Lương Văn Tự
khi ấy đang là trưởng đại diện thương mại của Việt Nam tại Singapore chủ trì.
Ông Võ Tá Hân, diễn giả được ông Tự mời
đến cuộc họp này, kể: “Buổi họp kéo dài khoảng bốn tiếng đồng hồ. Tôi chuẩn bị
mười bốn trang ghi chú viết tay, điểm qua mọi vấn đề như đâu là năm thế mạnh của
Việt Nam, chiến thuật giúp tăng trưởng kinh tế, chống lạm phát phi mã, và nói về
việc chống tham nhũng... Tôi bắt đầu buổi họp bằng một câu phát biểu rất ngắn gọn:
Việc đầu tiên là các anh phải để dân chúng tự do làm ăn!”.
Trong cuộc họp này, ông Hân mang theo
một chồng sách tặng ông Phan Văn Khải, trong đó có cuốn Singapore, The
Socialist Model That Works. Theo ông Hân: “Tôi nói với ông, Singapore thực sự
cũng là một mô hình xã hội chủ nghĩa. Họ chỉ có một đảng cầm quyền là Đảng Hành
Động Nhân Dân và đảng này, mỗi lần viết các văn bản nội bộ, thường
bắt đầu bằng câu ‘Dear Comrades’ mà Việt Nam vẫn dịch là ‘Thưa các đồng chí’”.
Trưa thứ Sáu, 30-9-1988, thông qua sự thu xếp của ông Hân, Canadian Business
Association tổ chức cho Đoàn một cuộc gặp tại Tanglin Club, hội quán lâu đời và
uy tín nhất ở Singapore.
Ông Hân kể: “Trước khi bước lên thang
lầu để vào phòng họp, tôi đứng chụp một bức hình kỷ niệm với ông Khải nơi chân
cầu thang. Thấy ông Khải rút điếu thuốc định bật lửa để hút, tay hơi run, tôi
bèn nói: anh Khải ơi, mình đang ở trong phòng lạnh, họ không cho mình hút thuốc;
rồi trấn an để ông ấy lên tinh thần: anh phải hăng hái lên vì thế giới họ vẫn
coi mình là cọp đó! Ông Khải trả lời với giọng Nam rặc: cọp gì! cọp... đói!”.
Theo lời mời của CBA, sứ quán Mỹ và
Canada tại Singapore đã cử hai vị phó đại sứ đến tham dự. Ông Khải tự giới thiệu
là đại biểu quốc hội, chủ tịch Thành phố. Tuy không cấm vận
thương mại Việt Nam nhưng để bày tỏ thái độ trước việc Việt Nam đưa quân tới
Campuchia, Singapore không cho các công ty nhà nước và công ty nhận bảo trợ của
nhà nước có quan hệ thương mại với Việt Nam. Chính quyền cũng phản đối các
doanh nghiệp Singapore cung cấp cho Việt Nam những vật tư chiến lược và giúp Việt
Nam phát triển hạ tầng. Chính vì vậy, bài diễn văn của ông Phan Văn Khải được mở
đầu bằng thông tin “việc rút quân khỏi Campuchia có thể hoàn thành trước năm
1990”. Ông Khải nói: “Chúng tôi hy vọng với việc rút quân này, Mỹ không còn lý
do gì để tiếp tục áp dụng cấm vận thương mại lên Việt Nam”.
Ông Khải nói một cách chân thành:
“Chuyến đi của chúng tôi là nhằm tìm kiếm một cái nhìn bên trong những thành tựu
của các quốc gia Đông Nam Á. Những điều đã tạo nên sự phát triển kỳ diệu và giải
quyết các vấn đề kinh tế xã hội một cách thành công. Chúng tôi tin rằng những
điều đó có thể trở thành bài học tốt cho Việt Nam”.
Ông Khải giới thiệu đôi nét về các
chính sách mới ban hành kêu gọi đầu tư nước ngoài như Luật Đầu tư 1987, Nghị định
139, rồi ông nói: “Cánh cửa giờ đây đã mở ra. Chúng tôi muốn làm ăn với các quốc
gia trên thế giới đặc biệt là các quốc gia Đông Nam Á”. Sau cuộc họp, CBA tổ chức
một cuộc họp báo, mời bốn cơ quan truyền thông: Reuters, Straits Times
Singapore, Sunday Times và một tờ báo Nhật Bản.
Chính quyền Singapore đã phản ứng sau
khi tờ Sunday Times, số ra ngày Chủ nhật 2-10-1988 đưa tin về “tiệc trưa” tại
CBA. Ông Khải đến Singapore cùng mười người khác theo visa cá nhân, “khách
hàng” được hai công ty Singapore, Thai Hing Long và Imkov Shipping, mời và bảo
lãnh. Nhưng hoạt động của ông bị nhà báo Mike Yeong mô tả: “Khi đến Singapore,
họ hợp thành nhóm, cùng với hai quan chức từ cơ quan đại diện thương mại của Việt
Nam tại Singapore, tự giới thiệu là phái đoàn thương mại Việt Nam và hoạt động
ngoài khuôn khổ những gì được chỉ ra trong visa”.
Chính quyền, như được cảnh báo sau
bài tường thuật của Sunday Times, đã nhắc nhở ông Lương Văn Tự, nếu vi phạm hơn
thế hoặc tiếp tục vi phạm như thế thì sẽ “không được tha thứ” và “việc xin visa
của các doanh nhân Việt Nam sẽ bị khó khăn hơn”. Bộ Ngoại giao Singapore cũng
“dọa” trục xuất ông Võ Tá Hân. Theo ông Lương Văn Tự: “Khi thấy tôi bị Bộ Ngoại
giao Singapore triệu tập phê bình vì tự tiện tổ chức họp báo, ở nhà cũng xôn
xao, nhưng tôi bình tĩnh vì biết họ sẽ chỉ làm điều này như một thủ tục, chính
quyền Singapore lúc đó bắt đầu muốn nối lại làm ăn với Việt Nam”.
Sau chuyến đi, ông Phan Văn Khải có
làm một bản báo cáo gửi Bộ Chính trị và Hội đồng Bộ trưởng. Theo ông Nguyễn Văn
Kích, người chấp bút bản báo cáo này, sau khi điểm qua những hoạt động và ghi
nhận chính của Đoàn trong chuyến đi, ông Khải đưa ra ba kiến nghị: cần sớm xác
lập quan hệ với ASEAN, phải coi ASEAN là đối tác thay vì đối đầu; chỉ có trong
kinh tế thị trường các nguồn lực và tài nguyên của đất nước mới được phát huy
đúng mức; các nước sẵn sàng đầu tư tại Việt Nam miễn là mình có chính sách bảo
vệ được đồng vốn cho họ. Ông Kích kể rằng, trong suốt chuyến đi, câu nói của Lý
Quang Diệu mà Đoàn tâm đắc nhất là: Kinh tế thị trường + tổ chức xã hội theo kiểu
xã hội chủ nghĩa = Singapore.
Uy tín của ông Phan Văn Khải bắt đầu
lên cao, nhưng khi ấy ông vẫn ở Sài Gòn lại thuộc thành phần tập kết. Ông Phan
Minh Tánh kể, phó bí thư Thành ủy, ông Bảy Dự Nguyễn Võ Danh, từng nói: “Bắc Kỳ
đã rất khó ưa nhưng còn đỡ hơn dân tập kết”. Ông Khải vẫn được coi là một người
của ông Võ Văn Kiệt, trong khi thế hệ lãnh đạo mới ở Sài Gòn hiện đã ở trong tầm
ảnh hưởng của ông Nguyễn Văn Linh. Tháng 4-1989, ông Phan Văn Khải được điều ra
Hà Nội.
Tuy nhiên, việc ông Khải ra Hà Nội giữ
chức chủ nghiệm Ủy ban Nhà nước thay thế ông Đậu Ngọc Xuân đã giúp ông chứng tỏ
khả năng nắm bắt các vấn đề vĩ mô và hình thành các chính sách ở tầm quốc gia.
Vừa nhận chức, ông Khải đã được ông Đỗ Mười giao đứng đầu nhóm soạn thảo “Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000”, công việc mà những người
chủ trì trước đó đã không làm ông Mười vừa ý. Ông Phan Văn Khải ngay sau đó được
cử làm trưởng đoàn thực hiện một chuyến “khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế
ở bốn nước châu Á”.
Chuyến đi, theo ông Phan Văn Khải, có
ảnh hưởng trực tiếp vào quá trình biên soạn “Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế xã hội đến năm 2000”. Không chỉ làm việc trong những phiên chính thức,
khi đã trở về khách sạn, ông Phan Văn Khải, ông Trần Đức Nguyên lại ngồi với
Giáo sư Davis Dapice, ông Thomas Valleley. Ông Khải thừa nhận đây
là những ngày ông ở trong tâm thế của một người đi học và những gì ông thu nhận
được có ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình hình thành các chính sách xây dựng nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thập niên 1990.
Thật khó để nói ông Phan Văn Khải là
“người của ai” như cách mà những người quan tâm đến chính trường vẫn thường lý
giải khi có ai đó được cất nhắc lên hàng lãnh đạo. Ông được đào tạo từ Liên Xô,
đủ độ tin cậy cho những người muốn duy trì định hướng xã hội chủ nghĩa. Ông
cũng từng là chủ tịch một thành phố năng động như Sài Gòn, ủng hộ Bí thư Võ Văn
Kiệt thời kỳ xé rào, tiếp tục phát triển những thành quả đổi mới dưới thời Bí
thư Thành ủy Nguyễn Văn Linh, và vào Trung ương năm 1982 với hậu thuẫn của ông
Lê Đức Thọ.
Năm 1991, Thành phố có một nỗ lực nữa
để ngăn cản ông Phan Văn Khải vào Bộ Chính trị. Ông Khải kể: “Trước Đại hội,
ông Hai Chí, Bảy Dự và giám đốc Công an Thành phố ra Hà Nội xin gặp Ban Tổ chức
Trung ương để tố cáo tôi khai lý lịch không đúng nhưng Ban Tổ chức không tiếp,
nói vấn đề đó đã được xác minh. Họ gặp ông Nguyễn Văn Linh. Khi vấn đề được đưa
ra Bộ Chính trị, ông Võ Văn Kiệt nói: Chuyện buồn thời xưa, sao Bộ Chính trị cứ
hạch sách người ta hoài. Nếu xét lý lịch thì xét anh Khải có làm gì phản động
không, anh ấy có đủ tiêu chuẩn vào Bộ Chính trị không, còn chuyện anh ấy con ai
thì tôi đề nghị Bộ Chính trị thôi”. Theo ông Phan Văn Khải: “Ngay từ khi bắt đầu
tham gia cách mạng tôi luôn khai rõ tôi là con ngoài giá thú”.
Sau Đại hội, ông Phan Văn Khải được cử
làm phó thủ tướng thường trực. Trong suốt hơn sáu năm làm thủ tướng, ông Võ Văn
Kiệt đã hành động như một đầu tàu, như một cỗ xe tăng đi trước, che chắn cho
các ý tưởng cải cách và đưa ra những quyết định lớn. Việc điều hành sự vụ và tiến
trình soạn thảo các chính sách được giao cho Phó Thủ tướng Phan Văn Khải.
Ông Kiệt đánh giá ông Phan Văn Khải
là “một nhà kinh tế hàng đầu của đất nước” nhưng trong thâm tâm
ông vẫn cho rằng ông Khải là một người thiếu quyết đoán để đóng vai trò đứng đầu.
Đến phút chót, ông Võ Văn Kiệt mới chính thức giới thiệu ông Phan Văn Khải như
một người kế nhiệm mình. Theo ông Phan Văn Khải: “Lúc đầu, ông Lê Đức Anh cản.
Cùng lúc có nhiều tin đồn về con trai tôi được tung ra. Vì những
tin ấy, ở đại hội tôi mất hơn một trăm phiếu”.
Ông Võ Văn Kiệt không hài lòng lắm về
khả năng quyết đoán của ông Phan Văn Khải nhưng ông biết ông Khải là người tiếp
tục tốt nhất các chính sách đưa nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường.
Những người như ông Đỗ Mười biết rõ người kế vị mình, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu,
vừa quá cứng rắn lại vừa hiểu biết không nhiều về kinh tế. Vai trò “nhà kinh tế
hàng đầu” của ông Khải buộc các khuynh hướng quyền lực lựa chọn ông.
“Sân chơi” không bình đẳng
Tư duy của các nhà lãnh đạo đóng một
vai trò vô cùng quyết định đối với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Xét
dưới góc độ chính sách, trong thập niên 1990, hai nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất
là Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Theo ông Phan Văn Khải, điểm
khác nhau căn bản giữa ông Võ Văn Kiệt và ông Đỗ Mười là một bên, ông Kiệt, muốn
đặt hiệu quả của nền kinh tế lên hàng đầu; một bên, ông Mười, muốn xác định quốc
doanh là chủ đạo.
Giữa năm 1997, Chính phủ của Thủ tướng
Võ Văn Kiệt bắt đầu soạn thảo một nghị quyết trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng
để làm cơ sở cho việc ban hành những chính sách tiếp tục đổi mới và thúc đẩy
kinh tế nhiều thành phần. Công việc đang dở dang thì tháng 9-1997, ông Võ Văn
Kiệt bàn giao chức thủ tướng.
Để trình ra Hội nghị Trung ương, dự
thảo nghị quyết này được Thủ tướng kế nhiệm Phan Văn Khải đặt tên là “Tiếp tục
đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế,
cần kiệm để công nghiệp hóa, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội
đến nǎm 2000”. Dự thảo nghị quyết đề cập đến nhiều lĩnh vực như tín dụng, ngân
hàng, đất đai. với ý định tạo ra một môi trường pháp lý bình đẳng cho các thành
phần kinh tế.
Sau tháng 9-1997, ông Đỗ Mười tiếp tục
làm tổng bí thư. Thư ký của ông Đỗ Mười, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam, nói: “Đụng đến
doanh nghiệp nhà nước là đụng đến vấn đề định hướng. Họp lên họp xuống mấy
tháng trời mà cứ dẫm chân tại chỗ. Ông Phan Văn Khải và ông Trần Xuân Giá rất
than. Tôi nói với ông Đỗ Mười: Hai bên đang có những nghi vấn lẫn nhau, anh
nghi Chính phủ đổi mới quá, thị trường quá; Chính phủ nghi anh bảo thủ quá, tôn
sùng cơ chế cũ quá. Anh không nên để tình trạng này kéo dài. Ông Mười trong
thâm sâu rất sợ bị coi là bảo thủ”.
Dự thảo “đẩy mạnh đổi mới kinh tế” được
đưa ra thông qua tại Hội nghị Trung ương 4, họp vào tháng 12-1997. Đây là hội
nghị trung ương cuối cùng ông Đỗ Mười chủ trì với tư cách tổng bí thư. Những
người soạn thảo trấn an các nhà lý luận của Đảng bằng những khẩu hiệu khẳng định
quan điểm lập trường: “Tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng”, “Thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ trong quản lý”, đồng thời “cài cắm” không ít quan điểm mới:
“Xoá bao cấp tín dụng”, “Đặt các doanh nghiệp nhà nước trong môi trường cạnh
tranh theo pháp luật”. Nghị quyết Trung ương 4 là cơ sở chính trị để Chính phủ
Phan Văn Khải tiến hành sửa đổi Luật Đất đai, bãi bỏ những tội danh trong Bộ Luật
Hình sự vốn được hình thành trên cơ sở nền kinh tế tập trung quan liêu, xây dựng
Luật Doanh nghiệp 1999 trên nền tảng “người dân được làm những gì pháp luật
không cấm”.
Nghị quyết Trung ương 4, khóa VIII
cũng là cơ sở chính trị để Chính phủ của Thủ tướng Phan Văn Khải thay thế Luật
Công ty, Luật Doanh nghiệp Tư nhân bằng một luật mới chung cho mọi loại hình
doanh nghiệp. Ông Phan Văn Khải nói: “Một khi mà các sản phẩm chính vẫn nằm
trong tay quốc doanh, một khi quốc doanh vẫn còn độc quyền thì không thể có cạnh
tranh, không thể có bình đẳng trong kinh doanh, không thể có kinh tế thị trường
thực thụ”.
Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu mang một
sắc thái mới khi khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỉ trọng lớn dần.
Tuy nhiên, luật lệ vẫn được ban hành bởi bộ máy hành chính quan liêu, chính
sách vẫn được hình thành dựa trên nền tảng tư duy “xin-cho” khiến cho việc
thành lập doanh nghiệp và xin giấy phép kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn.
Người kinh doanh phải mất hàng tháng để xin một giấy phép chuyên ngành trong
khi thời hạn mỗi giấy phép như vậy thường chỉ có giá trị trong vòng một năm. Giấy
phép kinh doanh cấp ở địa phương này lại thường không có giá trị khi mở thêm một
cơ sở kinh doanh ở địa phương khác.
Ngay trong năm 1998, Chính phủ của Thủ
tướng Phan Văn Khải bắt tay soạn thảo Luật Doanh nghiệp, với tham vọng chỉ cần
một luật này đã đủ để áp dụng cho không chỉ các loại hình kinh doanh tư nhân mà
còn áp dụng cho cả các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Mục tiêu
nhắm tới là tự do kinh doanh, Nhà nước chỉ duy trì những giấy phép thật sự cần
thiết đối với một số ngành hạn chế, thay thế cơ chế xin cho bằng cơ chế đăng kí
kinh doanh với những thủ tục được tối đa đơn giản hóa.
Tuy nhiên, thiết lập một “sân chơi
bình đẳng” như ngôn ngữ của những năm cuối thập niên 1990 và đưa địa vị kinh tế
tư nhân lên ngang hàng với kinh tế quốc doanh không phải là một con đường dễ
dàng. Ngay trong Hội nghị Trung ương 4, tháng 12-1997, một trưởng ban của Đảng
nói: “Sở hữu tư nhân mạnh lên là nền tảng để xây dựng lực lượng chính trị; để
cho kinh tế tư nhân phát triển cũng coi như để cho chúng nó đào mồ chôn chúng
ta”. Quan điểm ấy được nhiều ủy viên Trung ương và ủy viên Bộ Chính trị tán đồng.
Ông Trần Xuân Giá, người chủ trì soạn
thảo Nghị quyết Trung ương 4 và sau đó soạn thảo Luật Doanh nghiệp,
nói: “Các nhà lý luận của Đảng, người thì tuyên bố công khai trên báo chí, người
thì nói trong hội nghị Trung ương đều thể hiện bản chất đổi mới nửa vời, ép thì
đổi chứ không mới. Cuộc đấu tranh dai dẳng về sở hữu, về mức độ phát triển tới
đâu của kinh tế thị trường, đâu là phạm vi, đâu là giới hạn, vẫn không phân thắng
bại. Đó là cuộc đấu tranh của tương quan lực lượng. Sau khi ông Kiệt nghỉ, nếu
không có ông Khải là thua”.
Quan điểm người dân được làm những gì
pháp luật không cấm, lập doanh nghiệp không cần khai vốn điều lệ, đăng ký thay
thế cho xin phép, theo ông Trần Xuân Giá, bị phê phán ở các cuộc họp Bộ Chính
trị bàn về Luật Doanh nghiệp. Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ngồi nghe và
khi giải lao đã nói với ông Trần Xuân Giá: “Tôi không muốn chống anh nhưng tôi
hỏi thật, làm luật như thế này thì chúng ta có còn đi theo chủ nghĩa xã hội?”.
Chiều ngày 29-5-1999, Quốc hội biểu
quyết thông qua toàn văn Luật Doanh nghiệp, Luật bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày
1-1-2000. Ngay trong năm 2000, số lượng doanh nghiệp mới được lập đã tăng gấp
ba lần năm 1999. Tuy nhiên cuộc đấu tranh cho một môi trường tự
do kinh doanh chỉ mới bắt đầu.
Luật Doanh nghiệp ra đời làm mất hiệu
lực của hàng ngàn thủ tục xin cho. Trong khi hàng ngàn giấy phép khác vẫn đang
được các địa phương, các bộ ngành che chở. Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp
do Bộ trưởng Trần Xuân Giá làm tổ trưởng đã được Thủ tướng Phan Văn Khải thành
lập. Các tổ viên gồm Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Vũ Quốc Tuấn và thư ký Nguyễn
Đình Cung. Ngoài chức năng tư vấn trực tiếp cho thủ tướng, thời Chính phủ Phan
Văn Khải, Ban Nghiên cứu của thủ tướng còn hoạt động như một chỗ dựa, đồng
thanh tương ứng với Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp.
Hơn một tháng sau khi Luật Doanh nghiệp
bắt đầu có hiệu lực, ngày 3-2-2000, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký quyết định
bãi bỏ tám mươi bốn giấy phép con, quyết định này được coi là một món quà Tết của
Thủ tướng đối với các nhà doanh nghiệp. Trước đó, Tổ Công tác thi hành Luật
Doanh nghiệp được báo chí ủng hộ, đã phải “chiến đấu” khá cam go với các bộ trưởng
chỉ vì phía sau mỗi tờ giấy phép là bổng lộc và quyền hành.
Ngày 1-8-2000, quyết định bãi bỏ giấy
phép lần thứ hai được đưa ra, lần này dưới dạng chính phủ ban hành một nghị định
theo đó, bãi bỏ hai mươi bảy giấy phép và chuyển ba mươi bốn giấy phép thành điều
kiện kinh doanh. Những năm sau đó, gần 500 giấy phép con đã bị Thủ tướng Phan
Văn Khải bãi bỏ, trong đó có những loại giấy phép như giấy phép xuất bản
catalog kèm theo máy ảnh, giấy phép hành nghề in roneo, giấy phép hành nghề
photocopy, giấy phép đánh máy chữ, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh phế
liệu, phế thải kim loại, giấy vụn, thủy tinh vụn…
Sau ba năm thi hành Luật Doanh nghiệp,
năm 2003, Việt Nam đã tăng được hai bậc trong bảng xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế
Thế giới về năng lực cạnh tranh toàn cầu. Theo bảng xếp hạng này, năng lực cạnh
tranh tăng trưởng của Việt Nam năm 2003 tăng sáu bậc nếu xếp hạng trên tám mươi
nền kinh tế của năm 2002, hoặc tăng hai bậc nếu xếp hạng trên 102 nền kinh tế của
năm 2003.
Cùng với việc bãi bỏ các loại thủ tục,
các loại giấy phép, theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp, thái độ cửa quyền của
các cơ quan thuế, hải quan đã giảm đáng kể, giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được
những chi phí về thời gian và tiền bạc. Cho đến lúc ấy, kết cấu hạ tầng và bộ
máy hành chính nhà nước của Việt Nam vẫn còn yếu kém.
Nhưng, “sự trỗi dậy của hàng loạt giấy
phép kinh doanh” vẫn tựa như “đầu Phạm Nhan”, cắt chỗ này lại mọc lên chỗ khác.
Các bộ, ngành, khi dự thảo luật đã cài cắm các quy định để khi thi hành những
quy định này lại đẻ ra giấy phép. Theo bà Phạm Chi Lan, đại biểu quốc hội cũng
có thể bị “cài bẫy” bởi những điều khoản chung thì cơ quan soạn thảo viết hay đến
nỗi có đại biểu Quốc hội phải kêu lên là mở quá, thoáng quá, để rồi khi thiết kế
những điều cụ thể họ mới bắt đầu trói lại.
Từ 2001-2005, Thủ tướng Phan Văn Khải
đã ba lần ra chỉ thị yêu cầu các địa phương, các ngành bãi bỏ các quy định trái
thẩm quyền nhưng, cứ bỏ giấy phép này thì lại nảy sinh thêm nhiều giấy phép
khác. Cuối năm 2005, danh sách giấy phép cần bãi bỏ vẫn còn lên tới con số 300:
bốn mươi mốt giấy phép thuộc ngành văn hóa thông tin; ba mươi bảy giấy phép thuộc
ngành nông nghiệp; ba mươi tư giấy phép thuộc ngành ngân hàng; hai mươi tư giấy
phép thuộc ngành tài chính.
Sự phục hồi các loại giấy phép con tiếp
tục làm cho môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam chậm được cải thiện. Năm
2005, theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam vẫn phải mất tới sáu mươi ba ngày để
hoàn tất các thủ tục pháp lý kinh doanh trong khi việc này ở Úc chỉ mất khoảng
hai ngày. Ở Đan Mạch, người khởi nghiệp kinh doanh không phải tốn một chi phí
nào để có thể hoạt động thì ở Việt Nam phải mất khoản phí tổn bằng gần 30% mức
thu nhập bình quân GDP.
Từ giữa năm 2006, Tổ Công tác thi hành
luật Doanh nghiệp trình danh sách 122 loại giấy phép cần bãi bỏ, sau khi nghiên
cứu hơn 300 loại giấy phép được quy định trong 400 loại văn bản, đồng thời kiến
nghị bổ sung, sửa đổi 247 loại giấy phép khác. Thế nhưng khi mới thảo luận ở tầm
chuyên viên, số giấy phép đề nghị bãi bỏ đã bị cắt giảm từ 122 xuống còn bốn
mươi hai và khi đưa ra lấy ý kiến các bộ ngành thì ý kiến của Tổ Công tác đã bị
các bộ, ngành đồng thanh phản đối.
Ông Phan Văn Khải chưa kịp ký quyết định
bãi bỏ nốt số giấy phép này khi kết thúc nhiệm kỳ. Người kế nhiệm, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, không chỉ để cho các giấy phép cũ tiếp tục “hành dân” mà còn bỏ
mặc các địa phương, các ban ngành nữa, sinh thêm nhiều “giấy phép”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét