Phần IV : Tam nhân
Chương XX : Lê Khả Phiêu và ba ông cố vấn
Tháng 6-1991, ông Lê Khả Phiêu mới được
bầu vào Ban Chấp hành Trung ương; năm 1992, vì giữ chức chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị, ông được cơ cấu vào Ban Bí thư và tháng 1-1994, tại đại hội Đảng giữa
nhiệm kỳ, ông được đưa vào Bộ Chính trị. Vậy mà tháng 12-1997, ông Lê Khả Phiêu
đã trở thành tổng bí thư. Nhưng, ông Lê Khả Phiêu làm tổng bí thư ở một giai đoạn
mà các nhà chính trị Việt Nam bắt đầu bị quan sát bởi Internet. Ông cũng làm tổng
bí thư khi các ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt vẫn giữ quyền bính như những
“thái thượng hoàng”. Cho dù có không ít nỗ lực để thay đổi bên trong Đảng Cộng
sản Việt Nam, người bị thay thế lại là ông Lê Khả Phiêu chỉ sau hơn ba năm giữ
chức.
Kỷ nguyên Internet
Tuy con đường phát triển hạ tầng viễn
thông được đắp bởi công lao của rất nhiều người, sự chấp thuận của ông Lê Khả
Phiêu vào năm 1997 là rất quan trọng để Việt Nam có thể kết nối Internet. Đó là
giai đoạn ông Phiêu bắt đầu nhận chuyển giao quyền lực và bản thân ông cũng
không hình dung được khả năng thay đổi thế giới của công nghệ này. Internet từ
đây sẽ đưa Việt Nam bước sang một kỷ nguyên rất khác.
Cuối thập niên 1980, điện thoại vẫn
là một dịch vụ xa xỉ mà rất ít người dân miền Bắc biết tới. Cho dù tiếp quản một
hệ thống viễn thông tương đối hiện đại của miền Nam, đến năm 1990, cả nước chỉ
có chưa tới 80.000 máy điện thoại.
Cho đến giữa thập niên 1980, Việt Nam
hoàn toàn là một quốc gia bị đóng cửa. Năm 1985, phải mất chín mươi phút mới có
thể có một cuộc điện thoại gọi từ Việt Nam ra nước ngoài. Theo ông Đỗ Trung Tá,
lúc đó Việt Nam chỉ có sáu kênh vô tuyến nối Việt Nam với Hồng Kông. Năm 1993,
cũng theo ông Tá, tỉ lệ điện thoại chỉ đạt 0,087%, nghĩa là một vạn dân Việt
Nam chưa có được một máy điện thoại.
Năm 1987, ông Đặng Văn Thân
đã có một quyết định làm thay đổi căn bản ngành viễn thông Việt Nam. Theo ông Đỗ
Trung Tá: “Khi ấy, Liên Xô viện trợ không hoàn lại mười triệu rúp vàng để trang
bị mạng thông tin cho Bộ Công an nhưng ông Thân thuyết phục ông Phạm Hùng không
nên dùng vì cho dù đó là thiết bị hiện đại nhất của Đông Đức thì công nghệ
analog của họ đã rất lạc hậu so với thế giới. Những thiết bị này sau đó được
mang tặng Cuba. Trong số mười triệu rúp thiết bị ấy, ông Thân chỉ dùng bốn thứ:
pin mặt trời, cột, kèo và xe chuyên dùng”. Công nghệ kỹ thuật số của “tư bản”
được ông Thân chọn từ năm 1987, thông qua việc hợp tác đầu tư với Úc, đã mở ra
một giai đoạn mới của ngành viễn thông Việt Nam cho dù đầu thập niên 1990, giá
cước viễn thông của Việt Nam vẫn thuộc vào hàng đắt nhất thế giới.
Năm 1992, trong một lần làm việc với
Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông Đặng Văn Thân đưa ra kế hoạch, đến năm 2000, Việt
Nam sẽ có một điện thoại cho 100 dân. Ông Võ Văn Kiệt hỏi: “Tại sao phải là năm
2000 mà không phải là 1995”. Theo ông Tá, người cùng có mặt trong buổi làm việc:
“Chúng tôi coi đó là một mệnh lệnh và trên đường về, chúng tôi đưa ra chiến lược
tăng tốc hai giai đoạn: 1993-1995 và 1995-2000”. Khi bắt đầu đưa điện thoại di
động vào Việt Nam, ông Đặng Văn Thân lại quyết định đúng khi chọn công nghệ số
GSM, loại công nghệ mà châu Âu mới triển khai năm 1991. Ngày 16-4-1993,
Mobifone, mạng di động đầu tiên của Việt Nam, chính thức đi vào hoạt động.
Hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ viễn thông phát triển là cơ sở để Việt Nam tiến tới
kết nối Internet.
Chiến tranh đã đưa Việt Nam tiếp cận
với máy tính khá sớm, nhưng cho tới thập niên 1980, “tin học” vẫn
là một khái niệm rất xa lạ đối với công chúng. Trong suốt thập niên 1980, khoa
Toán trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đào tạo được 143 người có
khả năng ứng dụng tin học vào quản lý kinh tế. Năm 1988, Tiến sỹ Nguyễn Quang A
tiếp xúc với một Việt kiều có liên hệ với một công ty phần mềm của Pháp tên là
Genlog. Một liên doanh 50-50 giữa Tổng cục Điện tử và Genlog, lấy tên là
Genpacific, ra đời.
Theo ông Nguyễn Quang A: “Mục tiêu
ban đầu của chúng tôi là nhận outsourcing phần mềm cho người Pháp”. Nhưng, kế
hoạch này thất bại bởi không làm sao liên hệ được với các đơn đặt hàng. Khi ấy,
phải chờ ít nhất bốn mươi phút mới có thể nối được một cuộc điện thoại với
Paris, còn Air France thì phải hai tuần mới có một chuyến. Genpacific chuyển
sang lắp ráp máy tính cá nhân.
Có khoảng sáu nghìn máy tính loại
286, tốc độ cực thấp: 8Mhz và bộ nhớ chỉ 20Mb, đã được Genpacific sản xuất
trong năm 1989. Cho dù, theo ông Nguyễn Quang A, sản phẩm của ông chủ yếu được
xuất sang Liên Xô, máy tính cá nhân đã được Genpacific tặng trường Nguyễn Ái Quốc
và được nhiều doanh nghiệp, công sở, trường học ở Việt Nam trang bị. Sau
Genpacific, Công ty 3C của Nguyễn Quang A và FPT bắt đầu kinh doanh máy tính,
xã hội Việt Nam không còn phải học chay tin học nữa.
Tháng 8-1990, Giáo sư Phan Đình Diệu
kêu gọi: “Nhà nước cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư tin học”. Ông
cũng đề nghị Nhà nước đưa giáo dục tin học vào các nhà trường. Từ đầu năm 1990,
ở Sài Gòn, tin học bắt đầu được ứng dụng trong ngành in ấn.
Chương trình quốc gia về công nghệ
thông tin đề cập đến khả năng “một số hệ thông tin trong nước được ghép nối với
các mạng thông tin quốc tế”. Tổng cục Bưu điện bắt đầu thiết lập
mạng Vietpac X.25, cung cấp các dịch vụ truyền dữ liệu chuyển mạch gói công cộng,
kết nối với mạng điện thoại tự động đã được số hóa. Đến cuối năm 1995, các dịch
vụ thuê bao kênh X.25 đã đáp ứng nhu cầu đến tất cả các tỉnh lỵ và một số huyện,
và cuối năm 1996 đến hơn 400 huyện trong cả nước.
Khoảng năm 1993, một kỹ sư ở Viện
Công nghệ Thông tin, ông Trần Xuân Thuận lập ra mạng T-net với tham vọng tạo ra
một mạng truyền dẫn mang tên ông nhưng không mấy thành công. Cùng thời gian ấy ở
Viện Công nghệ Thông tin, ông Trần Bá Thái, trưởng phòng mạng trở thành người
Việt Nam đầu tiên đi tiên phong khi Phòng của ông nhận chuyển giao công nghệ
chuyển nhận thư điện tử UUCP từ Úc, lập ra mạng NetNam. Tháng 4-1994, NetNam đã
chuyển một lá thư của Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho Thủ tướng Thụy Điển. Ông Kiệt
trở thành người Việt Nam đầu tiên từ trong nước chính thức gửi email ra nước
ngoài.
Cuối năm 1995, từ Khánh Hòa, ông Nguyễn
Anh Tuấn, giám đốc Trung tâm Tin học Teltic, Bưu điện Khánh Hòa, tiếp cận với cả
ông Thuận, ông Thái, tự mày mò nghiên cứu công nghệ giao thức truyền thông
Internet rồi lập ra mạng VietNet. VietNet thuê cửa ra Úc của NetNam và sử dụng
hệ thống điện thoại nội bộ để kết nối với các thuê bao cá nhân. Từ 31-1-1996,
VietNet chính thức hoạt động. Cuối năm 1996, về mặt nhà nước, một
“taskforce” được thành lập để chuẩn bị kết nối Internet gồm: Chu Hảo, thứ trưởng
Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Mai Liêm Trực, Tổng cục Bưu Điện; Nguyễn
Khánh Toàn, thứ trưởng Bộ Công an.
Những điều kiện tối thiểu để có thể nối
mạng đều đã được chuẩn bị, lợi ích thì ai cũng rõ nhưng làm cho các nhà lãnh đạo
hết lo sợ là một điều không hề dễ dàng. Thời điểm quyết định kết nối Internet
cũng là thời điểm chuyển giao thế hệ lãnh đạo ở Việt Nam. Ông Chu Hảo nói: “Từ
ông Võ Văn Kiệt đến ông Phan Văn Khải đều ủng hộ, nhưng khó nhất là phải được Bộ
Chính trị cho phép”. Giáo sư Đặng Hữu, từ sau Đại hội VIII, tháng 6-1997, chuyển
sang bên Đảng làm trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Từ bên trong, các ủy viên Bộ
Chính trị lo sợ Internet nhất được ông Đặng Hữu tìm cách thuyết phục.
Theo ông Đỗ Trung Tá, ông Đỗ Mười
cũng trở thành một người ủng hộ, ông Mười nói: “Tôi mà thạo tiếng Anh có khi
tôi còn sử dụng Internet nhiều hơn các anh vì tôi đọc nhiều hơn”. Phó Thủ tướng
Phan Văn Khải yêu cầu nhóm phải trực tiếp báo cáo Ban Bí thư. Theo ông Chu Hảo:
“Đến ngày hẹn, ông Đỗ Mười đang ở miền Nam, đề nghị chúng tôi báo cáo trực tiếp
ông Lê Khả Phiêu, thời gian ấy là ủy viên Thường vụ Thường trực Bộ Chính trị”.
Gặp ông Lê Khả Phiêu, ông Mai Liêm Trực
trình bày về pháp lý, Chu Hảo nói về kỹ thuật, Nguyễn Khánh Toàn báo cáo về đảm
bảo an ninh. Đây là giai đoạn mà ông Lê Khả Phiêu sắp trở thành tổng bí thư,
ông tỏ ra khá cởi mở. Giáo sư Chu Hảo nói: “Chúng tôi chia sẻ những lo sợ của
ông Phiêu cũng như của các vị trong Ban Bí thư về an ninh, về bí mật quốc gia,
sợ văn hóa đồi trụy và phản động tràn vào Việt Nam. Chúng tôi nói về những tiến
bộ khoa học kỹ thuật trong ngành bảo mật thông tin nhưng không dám khẳng định
là kiểm soát được tất cả. Chúng tôi cho rằng tường lửa cũng như cái khóa, khóa
tốt thế nào cũng có người mở được, nên vấn đề quan trọng vẫn là con người. Ông
Phiêu rất thích lập luận ‘vấn đề quan trọng là con người’, ông đồng ý”.
Tháng 12-1996, Trung ương Đảng khóa
VIII họp Hội nghị lần thứ hai bàn về khoa học công nghệ. Ông Đỗ Trung Tá nói:
“Tôi mở một phòng máy và dùng sơ đồ đơn giản nhất để ‘giới thiệu Internet và
các biện pháp đề phòng’. Các ủy viên dự họp Trung ương được Tổng Bí thư Đỗ Mười
cho phép tới tìm hiểu về Internet và tường lửa. Bằng vài thuê bao Internet nối
với server của VDC, tôi cho tải các websites có nội dung tốt xuống cho các uỷ
viên Trung ương xem; rồi cho tải những web-sex, các uỷ viên Trung ương giữ ý
quay mặt đi, tôi cho anh em biểu diễn kỹ thuật ngăn các web-sex này lại. Các ủy
viên Trung ương nói: Nếu làm được như thế thì cho mở được. Hội nghị Trung ương
2 thừa nhận Internet tải được trí tuệ của nhân loại về và tin rằng có thể ngăn
các nội dung xấu”.
Ngày 5-3-1997, Chính phủ ban hành Nghị
định 21 “quy định tạm thời quản lý Internet” theo nguyên tắc “quản lý được đến
đâu thì phát triển tới đó”. Ngày 19-11-1997, tại trụ sở Tổng cục
Bưu điện, 18 Nguyễn Du, Hà Nội, “Lễ kết nối Internet toàn cầu” đã được long trọng
tổ chức.
Luân chuyển cán bộ
Ông Lê Khả Phiêu được đưa lên giữ chức
tổng bí thư trong một hội nghị Trung ương, thay vì được bầu trong đại hội
(12-1997). Sau khi nhận chức không lâu, ông Phiêu xuất hiện trong
một cuộc họp báo với gần 200 phóng viên trong nước và quốc tế. Bộ quân phục cấp
tướng đã được thay bằng comple xám, cavat màu sáng, mái tóc vốn lòa xòa phủ
trán, che sát cặp mắt nhỏ, được xịt keo, chải lật ra phía sau, để lộ vầng trán
rộng. Cuộc họp báo được thực hiện vào buổi chiều, được ghi hình và sau khi biên
tập, được phát trong chương trình thời sự tối của Đài Truyền hình Việt Nam. Ông
Lê Khả Phiêu, rõ ràng, đã nỗ lực tạo ra khác biệt với những người tiền nhiệm.
Ngày 18-1-1998, khi đến thăm Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tuyên bố: “Dân chủ 100% là
hình thức”. Trong nền chính trị của Việt Nam nơi mà các ứng cử viên của Đảng
thường không lo sợ rớt mà chỉ lo mất phiếu mấy phần trăm thì phát biểu đó của Tổng
Bí thư có rất nhiều thông điệp. Tuy nhiên, quyết định mang tính cải cách chính
trị ngay sau đó của ông: “Quy chế dân chủ ở cơ sở” lại là một điển hình về hình
thức.
Quyền lực thực sự của Tổng Bí thư Lê
Khả Phiêu bắt đầu được thể hiện sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần hai.
Tuy trong Nghị quyết này, ông Lê Khả Phiêu đặt ra tham vọng “nghiên cứu lý luận
trong nước và thế giới, làm rõ hơn mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta” nhưng trên thực tế chỉ có “cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng”
và “luân chuyển, điều động cán bộ” mới thực sự giúp ông tạo ra những bước đi
quyền lực.
Vấn đề luân chuyển, điều động cán bộ
từng được Hội nghị Trung ương 3, khóa VIII đặt ra như một giải
pháp nhằm “bồi dưỡng toàn diện, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán
bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn; khắc phục tình trạng khép
kín, cục bộ trong từng ngành, từng địa phương, từng tổ chức”. Nhưng, kể từ khi
Nghị quyết này được thông qua (6-1997), việc luân chuyển cán bộ gần như chưa thực
hiện.
Từ thập niên 1990, vai trò địa phương
trong hệ thống chính trị Việt Nam càng ngày càng gia tăng. Điều này thể hiện
qua con số các bí thư tỉnh ủy được cơ cấu vào Trung ương. Đặc biệt,
đại biểu địa phương cũng thường chiếm hơn 80% số đại biểu của các đại hội Đảng,
thành phần thực sự có tiếng nói thông qua các lá phiếu. Kinh tế thị trường đã
làm cho con số các tỉnh thành tự túc được ngân sách tăng lên. Luật Đất đai và
Luật Đầu tư bắt đầu tăng thẩm quyền được cấp đất, cấp giấy phép đầu tư cho tỉnh,
thành. Chính quyền địa phương bắt đầu có điều kiện để độc lập hơn với trung
ương. Đây cũng là giai đoạn xuất hiện thuật ngữ “trên bảo dưới không nghe”, một
câu đùa ý nhị còn để chỉ trật tự hành chính không còn trung ương tập quyền nữa.
Chính sách luân chuyển cán bộ không
chỉ giúp Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu bố trí nhân sự của mình vào các vị trí chủ chốt
mà còn đặt các nhà lãnh đạo địa phương vào thế phụ thuộc vào ông hơn. Đang là
người đứng đầu một tỉnh, họ có thể bị “luân chuyển” đến một vị trí ngồi chơi
xơi nước. Các quyết định “luân chuyển” lại chủ yếu được thông qua
trong Thường vụ Bộ Chính trị nơi mà tổng bí thư là người có tiếng nói quyết định.
Ngay sau khi nhậm chức, ông Lê Khả
Phiêu đã đưa Bộ trưởng Lao động và Thương binh Xã hội Trần Đình Hoan về làm
chánh Văn phòng Trung ương. Quyết định này được coi là nhằm tạo chỗ trống để có
thể đưa một ủy viên Trung ương cùng quê Thanh Hóa, bà Nguyễn Thị Hằng, lên bộ
trưởng Lao động và Thương binh Xã hội. Cuối năm 1999, một ủy viên Trung ương
người Thanh Hóa khác, ông Tô Huy Rứa phó giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia
được luân chuyển về làm bí thư Thành ủy Hải Phòng. Tháng 2-2000, Bộ trưởng
Thương mại Trương Đình Tuyển bị “luân chuyển” về làm bí thư Tỉnh ủy Nghệ An.
Trong tiệc tiễn do Văn phòng Chính phủ
tổ chức, ông Trương Đình Tuyển đã đọc một bài thơ của ông nói rằng, việc ra đi
của ông đơn giản vì (Tổng Bí thư) cần “chỗ trống”. Chỗ trống để đưa Thứ trưởng
kỳ cựu Vũ Khoan rời Bộ Ngoại giao, tạo “chỗ trống” cho ông Nguyễn Dy Niên, cùng
quê Thanh Hóa với Tổng Bí thư, lên bộ trưởng.
Luân chuyển cán bộ còn ảnh hưởng tới
các ủy viên Bộ Chính trị: Tháng 1-2000, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Phan Diễn
được điều về làm bí thư Quảng Nam Đà Nẵng thay thế ông Trương Quang Được ra Hà
Nội làm Trưởng Ban Dân vận thay thế ông Nguyễn Minh Triết được điều trở lại Sài
Gòn làm bí thư; Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Trương Tấn Sang lại phải
ra Hà Nội “lấp vào chỗ trống” Trưởng Ban Kinh tế của ông Phan Diễn.
Không mấy địa phương hài lòng với việc
trung ương đưa người về nắm những vị trí chủ chốt, cho dù, có những người được
điều “về quê” như Trương Đình Tuyển, bí thư Nghệ An, Phan Diễn, bí thư Quảng
Nam - Đà Nẵng, và có những người như ông Nguyễn Minh Triết, được đưa về một nơi
thế lực hơn. Luân chuyển có thể là cơ hội của người này, có thể lại chấm dứt sự
nghiệp chính trị của người khác. Luân chuyển cán bộ, vì thế, vừa có thể tạo ra
đồng minh, vừa tích lũy “ân oán” cho ông Lê Khả Phiêu người vận hành cơ chế đó.
“16 chữ vàng”
Ông Lê Khả Phiêu còn phải nhận lãnh
trách nhiệm lịch sử trong một giai đoạn mà quan hệ đối ngoại, đặc biệt là với
Trung Quốc, có rất nhiều thử thách. Nguyên tắc “hai nước xã hội chủ nghĩa phải
cùng chống âm mưu của đế quốc xóa bỏ chủ nghĩa xã hội” xác lập trước Hội nghị
Thành Đô (9-1990) đã được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và những đồng chí của ông
đặt trên cả truyền thống cảnh giác nghìn năm trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Là một vị tướng quân đội mới bắt đầu
làm chính trị, ông Lê Khả Phiêu đã không tránh khỏi những ứng xử thiếu kinh
nghiệm với các nhà lãnh đạo cơ mưu của Bắc Kinh. Những quyết định đưa ra trong
nhiệm kỳ của ông đã từng bị chỉ trích cả trong nội bộ và trên dư luận, nhất là
đối với những quyết định gay go để kết thúc đàm phán Hiệp định Biên giới Việt
Nam - Trung Quốc. Nhưng, trên nhiều phương diện, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu chỉ
là người thừa kế những chính sách được thiết lập từ thời “Thành Đô”.
Đầu năm 1991, ông Đoàn Mạnh Giao được
cử đi Đài Loan. Đây là chuyến đi đầu tiên của một quan chức Việt Nam đến một
nhà nước không được chính quyền Trung Quốc công nhận. Đài Loan được coi là đối
tác đầu tư tiềm năng số một của Việt Nam. Theo ông Đoàn Mạnh Giao: “Đôi bên cần
mở một đường bay thẳng. Lâu nay, từ Đài Loan đến Việt Nam vẫn phải quá cảnh ở
Bangkok. Tôi làm đề án, chuẩn bị khôi phục quan hệ kinh tế với Trung Quốc và
khôi phục kinh tế dân gian với Đài Loan. Chủ nhiệm Văn phòng Trần Xuân Giá
trình lên, ông Võ Văn Kiệt đưa ra Bộ Chính trị khóa VI, cả Bộ Chính trị đồng
ý”.
Sau một thời gian ngắn đàm phán, Việt
Nam chấp thuận cho hãng China Airline mở đường bay thẳng Kao Hung - Tân Sơn Nhất.
Mọi việc chuẩn bị xong, China Airline mở tiệc ra mắt ở khách sạn Rex, Sài Gòn.
Tiệc mời lúc 5 giờ 30 chiều, thì 1 giờ 30, Phó chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ
trưởng Hoàng Thúc Tấn nhận được điện thoại từ đích thân Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Ông Đỗ Mười hỏi: “Ai phụ trách vấn đề Đài Loan?”. Ông Tấn: “Thưa anh, Đoàn Mạnh
Giao?”. “Phải Giao con ông Đoàn Trọng Truyến không? Bảo cậu ấy nói chuyện với
tôi”. Ông Giao cầm máy, ông Đỗ Mười hỏi: “Ai cho phép cậu bay với Đài Loan?”.
Ông Giao: “Thưa, chính bác cho phép, Đề án đã được Bộ Chính trị thông qua ạ”.
Ông Đỗ Mười: “Đấy là trước khi khôi phục quan hệ với Trung Quốc”.
Ông Đỗ Mười yêu cầu, ngay trong chiều
hôm ấy, Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ và Đoàn Mạnh Giao phải sang làm việc
với Ban Bí thư. Chiều, ông Trần Quang Cơ sang, cuộc làm việc có cả Thường trực
Ban Bí thư Đào Duy Tùng và Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà. Đào Duy Tùng nói
thẳng: “Trước thì Bộ Chính trị chủ trương như thế, nhưng nay kinh tế phải phục
tùng chính trị. Không cho Đài Loan bay. Nếu ai cho bay, tôi sẽ ra lệnh cho tên
lửa bắn hạ”.
Buổi tiệc hôm ấy ở Rex và các chuyến
bay từ Đài Loan sang Sài Gòn bị hủy bỏ. Chủ tịch hãng China Airline gọi điện
thoại cho ông Đoàn Mạnh Giao than phiền. Ông Giao trấn an: “Chuyện này sẽ được
xử lý”. Ông Võ Văn Kiệt sau đó chỉ đạo lập hồ sơ cho thấy hàng không Đài Loan
bay đến hầu như tất cả các nước, kể cả bay đến Quảng Châu, Trung Quốc, chứ
không chỉ có bay đến Việt Nam để xin Bộ Chính trị khóa VII xem xét lại.
Ông Đoàn Mạnh Giao nói: “Ông Kiệt là
người mà những lúc bế tắc luôn vượt ra khỏi ý thức hệ và ngoại giao kinh điển để
đạt được mục đích”. Khi đó, ông Võ Văn Kiệt đang thèm khát nguồn vốn ODA từ Đài
Loan cho đường dây 500kV và các công trình hạ tầng đầy tham vọng của ông. Đài
Loan có quỹ OECDF có thể cho “những nước chậm phát triển có quan hệ kinh tế thực
chất với Đài Loan” vay. Theo ông Đoàn Mạnh Giao: “Buổi tối trước khi tôi đi Đài
Loan, ông Kiệt gọi lên Văn phòng. Tôi lên thấy ông đang ngồi một mình. Ông nói:
‘Qua đó, mày tìm cách vay năm mươi triệu USD cho đường dây 500kV’. Tôi nói:
‘Không được đâu chú ơi, quỹ này người ta chỉ cho vay cho các vấn đề xã hội’.
Ông nói: ‘Vậy mới phải tìm cách’. Tôi sang gặp một quan chức quen của Đài Loan
tên là Giang Bỉnh Khôn, chuyển thông điệp của Thủ tướng cho Đài Loan, ông Giang
nói sẽ báo lên trên và tính”.
Ít lâu sau, Lâm Thủy Cát, vụ trưởng Vụ
Á - Thái của Bộ Ngoại giao Đài Loan đến Hà Nội gặp ông Đoàn Mạnh Giao, nói: “Có
một việc khẩn thiết tôi muốn bàn: Tổng thống Lý Đăng Huy đang ở Indonesia, trên
đường về muốn dừng ở Đà Nẵng và muốn hội kiến với Thủ tướng Võ Văn Kiệt một giờ.
Việt Nam có thể bố trí để Thủ tướng đi tuần du miền Trung ghé qua. Cuộc gặp sẽ
được giữ hết sức bí mật để thỏa thuận một số việc, phía Đài Loan, sau cuộc gặp
này có thể cho Việt Nam vay từ 300 đến 500 triệu USD”. Ông Giao nói: “Tôi báo lại
với Thủ tướng, chỉ lưu ý ông là truyền thông Đài Loan có thể sẽ có được tin này
và sẽ loan đi. Một tuần sau ông Kiệt nói ông Đỗ Mười đã đồng ý. Chưa kịp liên hệ
với Lâm Thủy Cát thì mấy ngày sau ông Kiệt lắc đầu: “Hỏng rồi, ì xèo hết trong
Bộ Chính trị. Căng lắm, không thuyết phục được”.
Nhưng chính quyền Đài Loan vẫn rất thực
tế: Đường bay Kao Hung-Tân Sơn Nhất vẫn được mở. Văn phòng Kinh tế Văn hóa Đài
Bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn được thiết lập. Ông Võ Văn Kiệt vẫn vay được
ba mươi triệu USD đầu tiên với lãi suất rất thấp.
Kể từ năm 1991, quan hệ giữa Hà Nội
và Trung Quốc bắt đầu được thúc đẩy bằng các “chuyến thăm hữu nghị”. Các nhà
lãnh đạo Trung Quốc tăng dần nhịp độ đến Hà Nội: tháng 11-1992, Thủ tướng Lý Bằng;
tháng 11-1994, Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch; tháng 6-1996, Tổng Bí thư Đảng, Chủ
tịch nước Giang Trạch Dân; tháng 11-1996, Thủ tướng Chu Dung Cơ. Nhưng, có thể
nói, phải đến chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tới Bắc Kinh
vào tháng 2-1999, công cụ “ý thức hệ” mới được Bắc Kinh khai thác ở “tầm cao” để
đến gần hơn với Hà Nội.
Trong cuộc gặp thượng đỉnh này, Tổng
Bí thư Giang Trạch Dân đưa ra “hai phương châm” làm nền tảng cho quan hệ hai nước
thể hiện trong “16 chữ vàng” và “4 tốt”. “16 chữ vàng” của Giang Trạch Dân là:
“Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”.
Và “4 tốt” gồm: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
“Hai phương châm” cùng với Bản Tuyên
bố chung giữa Giang Trạch Dân và Lê Khả Phiêu đưa ra trong chuyến đi được hai Đảng
đánh giá: “Đã xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ
hai nước trong thế kỷ mới, đánh dấu quan hệ Trung Việt đã bước vào giai đoạn
phát triển mới”. Thủ tướng Phan Văn Khải (1997-2006) nói: “16 chữ vàng với 4 tốt
chỉ là những lời nói. Tôi làm thủ tướng cũng muốn tạo ra sự tin cậy lẫn nhau nhưng
Trung Quốc chẳng tin mình, mình thì cũng không tin họ”.
Nhưng, như Đặng Tiểu Bình từng tuyên
bố “Trung Quốc làm gì cũng có tính toán”. Đây là thời điểm Trung Quốc cần những
quyết định của phía Hà Nội để kết thúc tiến trình đàm phán Hiệp định Biên giới.
Ngày 7-11-1991, trong chuyến đi Bắc
Kinh của Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt, “Hiệp
định tạm thời về việc giải quyết các công việc trên vùng biên giới hai nước”,
Việt Nam - Trung Hoa, đã được ký kết. Đường biên giới đất liền giữa Việt Nam và
Trung Quốc dài 1.406 km, có truyền thống lâu đời, bắt đầu được
phân định lại.
Đường biên giới truyền thống đó là cơ
sở để người Pháp, sau khi chiếm Bắc Kỳ, đàm phán với triều đình Mãn Thanh, ký
Công ước 26-6-1887 và Công ước bổ sung 20-6-1895. Đây là hai văn bản pháp lý quốc
tế đầu tiên xác định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, đường
biên giới dài 1.406 km, từ Móng Cái đến biên giới Lào - Trung, chỉ có 341 cột mốc.
“Lời văn công ước mô tả đơn giản, không rõ ràng, không phù hợp với thực địa, bản
đồ tỷ lệ nhỏ, nhiều địa danh, khu vực không thể hiện như bãi Tục Lãm, Tài Xẹc,
Dậu Gót, nhiều khu vực chưa được phân giới cắm mốc hoặc cắm mốc quá thưa. Ngoài
ra, qua hơn trăm năm, hệ thống mốc cũng bị hư hại, xê dịch, phá hủy do chiến
tranh và thời gian”.
Năm 1955, ngay trong giai đoạn mà
tình hữu nghị Việt - Trung đang được mô tả là như “môi với răng”, chính quyền
Trung Hoa cộng sản đã có ý “đẩy lùi biên giới” sâu vào phía lãnh thổ Việt Nam:
“Tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên
giới Việt-Trung đến Yên Viên gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt Nam, phía
Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt Trung sâu trong lãnh thổ Việt Nam
trên 300m so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường
biên giới giữa hai nước đi qua… Cũng tại khu vực này, phía Trung Quốc đã ủi nát
mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100m trên đường quốc lộ để xoá vết
tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột kilômét số 0 đường bộ sâu vào lãnh thổ
Việt Nam trên 100m, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực
này”.
Ngày 2-11-1957, Ban Bí thư Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc đề nghị hai bên giải quyết vấn đề biên giới trên cơ sở tôn trọng đường
biên giới lịch sử theo hai Công ước Pháp - Thanh (1887 và 1895) và mọi tranh chấp
có thể giải quyết bằng đàm phán. Tháng 4-1958, Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của phía Việt Nam. Điều này có thể được coi là
một “thắng lợi quan trọng của quan hệ Trung - Việt” nếu như hơn một thập niên
sau, Trung Quốc không lặp lại những điều mà họ đã làm hồi năm 1955.
Có lẽ ít có một quốc gia to lớn nào lại
sử dụng những phương thức lấn cõi theo kiểu người Trung Quốc đã làm ở Việt Nam:
“Ở một số địa phương, do địa hình phức tạp, điều kiện sinh hoạt của dân cư
Trung Quốc gặp khó khăn, theo yêu cầu của phía Trung Quốc, Việt Nam đã cho mượn
đường đi lại, cho dùng mỏ nước, cho chăn trâu, lấy củi, đặt mồ mả,… trên đất Việt
Nam. Nhưng, lợi dụng thiện chí đó của Việt Nam, họ đã dần dần mặc nhiên coi những
vùng đất mượn này là đất Trung Quốc. Khi xây dựng các công trình cầu cống trên
sông, suối biên giới như cầu ngầm Hoành Mô, Quảng Ninh, cầu ngầm Pò Hèn, Quảng
Ninh, đập Ái Cảnh, Cao Bằng, cầu Ba Nậm Cúm, Lai Châu,… phía Trung Quốc cũng lợi
dụng việc thiết kế kỹ thuật làm thay đổi dòng chảy của sông, suối về phía Việt
Nam, từ đó dịch dần đường biên giới”.
Chuyện Trung Quốc tự ý di chuyển, lén
lút đập phá, thủ tiêu các cột mốc, lấy tên bản của Trung Quốc đặt cho xóm của
Việt Nam… có thể tìm thấy ở bất cứ địa phương nào trên vùng biên giới. Họ cũng
không ngần ngại áp dụng những phương thức như vậy để lấn chiếm những vùng lãnh
thổ nổi tiếng lâu đời của Việt Nam như Đồng Đăng, thác Bản Giốc.
“Ngày 20-2-1970 phía Trung Quốc đã
huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng
dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho
công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh
sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn
Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc. Khi quan hệ hai bên
còn hữu nghị, Trung Quốc đã xây dựng đường sắt vượt qua đường biên giới lịch sử
300m rồi coi điểm nối ray đó là biên giới. Họ trắng trợn nguỵ biện rằng khu vực
hơn 300m đường sắt đó là đất Trung Quốc vì không thể có đường sắt của nước này
đặt trên lãnh thổ nước khác”.
Đàm phán biên giới Việt - Trung lần
thứ nhất diễn ra tại Bắc Kinh ngày 15-8-1974, khi “tình hữu nghị” giữa hai nước
bắt đầu có những rạn nứt sau chuyến đi năm 1972 của Nixon. Sau khi đánh chiếm
Hoàng Sa, ngày 19-1-1974, Trung Quốc bắt đầu gia tăng các hoạt động khiêu khích
biên giới 1978, diễn ra khi các vụ khiêu khích vũ trang từ phía
Trung Quốc tăng cao hơn. Đối thoại chấm dứt khi xung đột lên đỉnh
điểm bởi vụ “nạn kiều”. Sau cuộc chiến tranh biên giới, kéo dài từ ngày 17-2 đến
5-3-1979, ngày 18-4-1979, cuộc đàm phán lần thứ ba được nối lại tại Hà Nội.
Nhưng, từ đó cho đến năm 1991, xung đột vũ trang liên tục diễn ra. Theo Bộ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, mỗi năm Trung Quốc gây ra hơn tám trăm vụ khiêu
khích biên giới.
Đàm phán chỉ thực sự bắt đầu ở vòng
thứ tư, tháng 10-1992, sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Ngày 19-10-1993, hai đoàn đàm phán chính phủ đã ký thỏa thuận về những nguyên tắc
cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ.
Trên cơ sở bản đồ và thực địa, hai
bên đưa ra đường biên giới trên thực tế theo nhận thức của mình. Đây là một
công việc không hề dễ dàng cho Việt Nam vì phần đất biên giới phía Việt Nam vẫn
đầy mìn Trung Quốc. Chiến tranh cũng đã buộc dân chúng ở nhiều nơi phải rời khỏi
những vùng đất sinh sống và canh tác truyền thống. Trong khi đó, các đoàn khảo
sát từ Hà Nội lên lại chỉ tiến hành “xác lập bản đồ hiện trạng” trong bí mật.
Những phần đất mà bản "Bị vong lục ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt
Nam" mô tả là đã “bị Trung Quốc dùng những thủ đoạn xấu xa” để lấn chiếm
trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1978 giờ đây phần lớn được gọi là những khu
vực “hai bên có nhận thức khác nhau”. Cả Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Mạnh Cầm và trưởng đoàn đàm phán giai đoạn đầu, ông Vũ Khoan, đều thừa
nhận, các địa phương không hài lòng với kết quả này.
Trong khi đó, kể từ năm 1993, Trung
Quốc tiếp tục gây xung đột ở nhiều sắc thái khác nhau để tiếp tục gây áp lực
lên các vòng đám phán. Đường lên cửa khẩu Chi Ma, huyện Lộc Bình, Lạng Sơn, phải
dừng lại trước đường biên 63m. Cho dù cột mốc 44, cắm từ thời Pháp - Thanh vẫn
còn, năm 1993, khi tỉnh Lạng Sơn cho rải đá, lực lượng vũ trang Trung Quốc từ
phía Ái Điểm, đã tràn sang để ngăn cản việc thi công. Ngày 28-5, Trung Quốc đưa
hàng trăm binh sỹ có vũ trang từ Ái Điểm sang, theo sau là mười lăm xe chở đá.
Trong khi phía Việt Nam chưa kịp phản ứng, hai xe “vượt biên” sang đổ đá chồng
lên đoạn công nhân Việt Nam đang thi công. Ngay lập tức bộ đội biên phòng, hải
quan, công nhân và nông dân Chi Ma được huy động ra ngăn chặn.
Ngày 11-6-1993, lính Trung Quốc rút.
Từ đó, Tổ cột mốc 44 được đồn biên phòng Chi Ma thành lập, bảy cán bộ biên
phòng đã phải túc trực 24/24, trong gió Chi Ma thổi bạc mặt, trong rét Chi Ma
có khi xuống dưới độ 0. Vì bị phía Trung Quốc ngăn cản không thể dựng nhà, Tổ cột
mốc 44 chỉ có thể dựng một túp lều bằng sáu cọc tre và những thùng giấy carton
nằm bên lãnh thổ Việt Nam năm mét.
“Nhật ký” của Tổ ghi nhận ba mươi hai
sự kiện tiêu biểu xảy ra xung quanh mốc 44: một lần biên phòng Ái Điểm, Trung
Quốc, cho dựng một nhà tạm lấn sang đất Việt Nam hai mét; hai mươi hai lần lực
lượng vũ trang Trung Quốc xâm nhập sâu vào đất Việt Nam từ năm đến ba mươi lăm
mét, bảy lần xâm canh, một lần lén chôn một bia đá sang đất Việt Nam hai mươi
mét… Phía bên kia mốc 44, Trung Quốc dựng một bức tường đá, dày một mét, cao ba
mét, bao bọc đồn Ái Điểm. Trên bức tường đó, sâu hoắm những lỗ châu mai, nhìn
sang.
Thiếu tá Lục Văn Moong, người từng là
đồn phó Chi Ma bốn năm, nói: “Có rất nhiều chuyện không được ghi chép, đó là những
cục đá được ném sang từ phía bên kia lúc nửa đêm”. Mỗi tấc đất
biên giới trong thời gian này, không chỉ để cấy lúa, trồng rau mà còn là khát vọng
lãnh thổ và ý chí quốc gia của đôi bên. Tại Cao Bằng, nhiều nơi, bộ đội biên
phòng phải dựng lưới B40 cho nông dân cày cấy ở những thửa ruộng giáp biên để
ngăn phía Trung Quốc ném đá sang. Ở Hà Giang, cho đến trước khi tiến trình phân
giới cắm mốc thực hiện xong, hầu hết các điểm cao chiến lược đều đang có quân
Trung Quốc chiếm đóng.
Ngày 30-12-1999, sau sáu vòng đàm
phán ở cấp chính phủ, mười sáu vòng đàm phán ở cấp chuyên viên, chủ yếu tập
trung xử lý 164 khu vực C, hai bên đã ký “Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền”.Theo
đó: “Quy thuộc khoảng 114,9 km2 cho Việt Nam (gồm 112,3km2
thuộc khu vực C; 2,6 km2 thuộc khu vực A và B) và khoảng 117,2 km2
thuộc Trung Quốc (trong đó có 114,8 km2 thuộc khu vực C; 2,4 km2
thuộc khu vực A và B)”. Nhìn qua các con số thì có vẻ như “đây là
một kết quả công bằng”. Nhưng, trên thực tế, chính quyền địa
phương, các cán bộ biên phòng và người dân nhìn thấy từng tấc đất giờ đây đã
thuộc về Trung Quốc. Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Khi tôi lên, Cao Bằng nói, những
phần đất này lâu nay là của ta sao các anh để thế này. Tôi phải giải thích là
phải theo các nguyên tắc đã thỏa thuận trong quá trình đàm phán”.
Quá trình “chuyển đường biên giới từ
lời văn Hiệp ước 1999 và bản đồ ra thực địa, một cách chính xác, rõ ràng và
đánh dấu bằng một hệ thống mốc giới chính quy hiện đại” vẫn là một con đường
cam go. Ở 109 “khu vực tồn đọng”, được coi là những “khu vực khó, nhạy cảm, có
lịch sử tranh chấp lâu đời”, hai bên đã phải tiến hành thêm mười lăm vòng đàm
phán các loại, “vòng ngắn nhất kéo dài chín ngày, vòng dài nhất hai mươi ba
ngày, phiên họp dài nhất ba mươi mốt giờ liền”, để “giải quyết
các mâu thuẫn giữa lời văn với bản đồ đính kèm Hiệp ước, giữa bản đồ với thực địa
và sự không rõ ràng của một số từ ngữ trong Hiệp ước”.
Một trong những “khu vực nhạy cảm”, cửa
khẩu Hữu Nghị, mốc km0 nơi đường biên giới giờ đây đi qua vốn là mốc 19 cũ của
Pháp, cách điểm nối ray 148m về phía Bắc. Đối chiếu với “Bị vong lục ngày
15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam” sẽ thấy cột mốc tham chiếu ở khu vực này
không phải là “19 cũ” mà là “cột mốc 18 nằm cách cửa Nam Quan 100m trên đường
quốc lộ đã bị Trung Quốc ủi nát để xóa vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt
cột km0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100m”. Nếu 300m từ đường biên
giới lịch sử đến điểm nối ray này là khu vực có “nhận thức khác nhau”, thì việc
Việt Nam được chia 148m so với phần nước lớn Trung Quốc được chia 152m là công
bằng như các nhà đàm phán giải thích. Nhưng, phần 300m này là của Việt Nam, năm
1955 bị Trung Quốc lấn vào so với đường biên lịch sử.
Tại khu vực thác Bản Giốc: “Theo quy
định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới đi theo
trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong, hai bên đã điều chỉnh đường biên
giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960,
quy thuộc 1/4 cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ thác cao cho Việt Nam”.
Thác Bản Giốc là một biểu tượng mà trong suốt hàng trăm năm đã nằm trong tiềm
thức của người Việt Nam. Bức ảnh nổi tiếng về thác Bản Giốc do nhà nhiếp ảnh Võ
An Ninh chụp đã từng ngự trị trong sách giáo khoa, trên các tờ lịch in màu hiếm
hoi của miền Bắc thời trước năm 1975.
Theo "Bị vong lục 15-3-1979 của
Bộ Ngoại giao" thì toàn bộ khu vực thác Bản Giốc nằm trong lãnh thổ Việt
Nam cho tới ngày 20-2-1970 mới bị phía Trung Quốc “đưa 2.000 người kể cả lực lượng
vũ trang” sang lấn chiếm. Các tài liệu lịch sử của người Pháp và những người
dân sống lâu năm ở khu vực Đàm Thủy đều biết rõ toàn bộ thác Bản Giốc nằm sâu
trong biên giới Việt Nam chứ không phải là phần được “quy thuộc” như các nhà
đàm phán trong thập niên 1990 giải thích.
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm
thừa nhận: “Anh em Cao Bằng cũng phản ứng, nhưng muốn thỏa thuận được thì mình
cũng phải nhượng bộ”. Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy định của Hiệp ước
1999, đường biên giới đi theo trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong. Ông
Nguyễn Mạnh Cầm giải thích: “Sở dĩ chia thác Bản Giốc như vậy là vì trước đó
mình đã thỏa thuận nguyên tắc ‘đường biên giới đi theo trung tuyến dòng chảy’.
Nguyên tắc này do anh Vũ Khoan trực tiếp đàm phán thỏa thuận với Đường Gia Triền.
Tất nhiên là có xin ý kiến Bộ Chính trị”.
Theo ông Vũ Khoan: “Bản thân vấn đề
là quá phức tạp, chúng tôi phải lần mò từng mét đất. Năm 1991, thỏa thuận
nguyên tắc mở ra đàm phán biên giới. Năm 1992 bắt đầu đàm phán nguyên tắc, ông
Võ Văn Kiệt chỉ đạo trực tiếp cụ thể và phải bàn, quyết định tập thể. Nhiều người
không hiểu, một con sông ở biên giới hai nước thì phải chia đôi. Thực tế lịch sử
có những điều mình nói cũng không đúng”. Ông Nguyễn Mạnh Cầm thừa nhận: “Năm
1993, khi thông qua những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới, thấy rằng
việc phân chia theo trung tuyến dòng chảy là một nguyên tắc hợp lý. Lúc bàn
nguyên tắc này, Bộ Chính trị chưa nghĩ tới những trường hợp cụ thể như Bản Giốc”.
Theo Thủ tướng Phan Văn Khải: “Thác Bản
Giốc mình không thể nào lấy hết. Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chịu nhưng kéo
dài quá thì không xong toàn cục. Bãi Tục Lãm họ có ý đồ lấn thật. Tổng Bí thư
Lê Khả Phiêu và Cố vấn Đỗ Mười cũng phải đấu với Trung Quốc trên tình hữu hảo mới
được như vậy. Tôi, ông Vũ Khoan và ông Lê Khả Phiêu đã đấu tranh rất căng thẳng
nhưng đôi bên cũng phải có nhân nhượng, chẳng thà mình có một phân định sau này
còn có cơ sở để đấu tranh”.
Việc hoạch định biên giới, cụ thể là
phân chia 227 km2 nằm trong 164 khu vực có tranh chấp, hoặc có nhận
thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới, gọi là khu vực C được quyết định
trong nhiệm kỳ của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và Thủ tướng Phan Văn Khải. Tương
nhượng là điều không thể tránh khỏi trong các cuộc đàm phán, nhưng tương nhượng
ở Hữu Nghị Quan, thác Bản Giốc, những nơi mà từ xa xưa các nhà nước Việt Nam đều
đã khẳng định chủ quyền và trong tiềm thức nhân dân, đã trở thành một phần lãnh
thổ thiêng liêng quả là những quyết định khó phân công, tội.
Còn một sự nhượng bộ khác mà chắc chắn
lịch sử rồi sẽ có ý kiến đó là nhượng bộ trên điểm cao 1509, Vị Xuyên, Hà
Giang.
Ngày 16-5-1984, sau mười tám ngày
dùng một lực lượng lớn tấn công, Trung Quốc đã chiếm và chốt giữ hai mươi chín
điểm dọc biên giới Việt Nam, trong đó có điểm cao 1509. Hàng ngàn người lính Việt
Nam đã hy sinh trong các đợt phản công lấy lại hai mươi cao điểm ở Thanh Thủy,
Vị Xuyên bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1984. Nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang,
có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến
tranh Biên giới, đa số hy sinh trong giai đoạn 1984 - 1985, có người hy sinh
năm 1988 khi tái chiếm điểm cao 1509. Giai đoạn 1984 - 1985, theo ông Nguyễn
Thanh Loan, người trông coi nghĩa trang: “Cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở
về từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau”.
Theo Đại tá Phó chỉ huy trưởng Biên
phòng Hà Giang Hoàng Đình Xuất: “Từ khi chiếm được điểm cao 1509, Trung Quốc
cho xây dựng trên đỉnh một pháo đài quân sự. Ở phía bên kia, Trung Quốc xây được
đường xe hơi lên tận đỉnh trong khi bên mình dốc, hiểm trở. Theo nguyên tắc mà
hai bên thống nhất, đường biên giới đi qua đỉnh, cắt đôi pháo đài mà Trung Quốc
xây dựng trên cao điểm này, nhưng khi hoạch định biên giới, phía Trung Quốc cho
rằng, đây là một khu vực có ý nghĩa thiêng liêng nên họ xin được giữ lại toàn bộ
pháo đài để làm du lịch. Đau xót là các nhà lãnh đạo của chúng ta đã đồng ý. Phần
Việt Nam nhượng Trung Quốc ở đây tuy chỉ có 0,77 hecta nhưng, 1509 là một vị
trí chiến lược. Từ trên pháo đài ấy có thể nhìn thấy từng chiếc ô tô ở thị xã
Hà Giang”.
Tuy không bình luận trực tiếp trường
hợp điểm cao 1509, nhưng Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm giải thích: “Tôi
nghĩ, các anh ấy cũng biết, nhượng một tấc đất là có tội, nhưng với một nước lớn
như Trung Quốc thì tranh chấp phải được giải quyết để có được một biên giới hòa
bình. Trước đó không ngày nào là không có khiêu khích”. Chính quyền Trung Quốc
đã liên tục gây sức ép, từ cả những việc nhỏ mọn như ném đá vào những người dân
Việt Nam cày cấy trên lãnh thổ bên biên giới của mình. Điều này đe dọa sự ổn định
mà chính quyền Việt Nam kỳ vọng nên không dám bảo lưu những “khu vực nhạy cảm”
như thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan… Theo ông Vũ Khoan: “Bảo lưu là mình luôn phải
sống trong nơm nớp”.
Đường biên giới trước đây chỉ có 341
cột mốc, nay được đánh dấu chi tiết hơn bằng 1.971 cột mốc, với 1.378 vị trí mốc
chính và 402 vị trí mốc phụ. Theo ông Nguyễn Hồng Thao: “Kết quả này là sự thể
hiện sinh động của mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam -
Trung Quốc theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt”(VNN). Nguyễn Hồng Thao
là thành viên của Đoàn đàm phán, ông ấy có thể chỉ nhắc lại “phương châm 16 chữ
và tinh thần 4 tốt” như một cái máy ngoại giao. Nhưng người dân Việt Nam thì
không mấy ai thiếu trải nghiệm để hiểu sâu về người láng giềng tự cho là tốt
đó.
Việt Nam đã phải phân chia biên giới
phía Bắc trong thế yếu. Yếu không chỉ vì đàm phán với một đối tác to lớn hơn
mình gấp nhiều lần, với một chính quyền rất khó lường, mà còn vì, toàn bộ quá
trình đàm phán, hoạch định và phân giới cắm mốc đều được tiến hành trong bí mật.
Trí tuệ của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước không được tập hợp. Sức mạnh
của dư luận không được sử dụng để vạch trần những thủ đoạn khiêu khích của Bắc
Kinh. Sự hiểu biết thực địa của người dân biên giới đã không được khai thác để
giúp Việt Nam giữ từng tấc đất.
Hiệp định thương mại Việt-Mỹ
Cũng năm 1999, trong khi mang “Phương
châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt” về từ một láng giềng nhiều thủ đoạn, Tổng Bí
thư Lê Khả Phiêu lại đánh mất cơ hội ký hiệp định thương mại với một đối tác tiềm
năng: Hiệp định Thương mại Việt Mỹ.
Tại tiểu bang Ohio (Mỹ), sau khi
thông báo quyết định dỡ bỏ lệnh cấm vận của Tổng thống Bill Clinton với Bộ trưởng
Lê Văn Triết, Bộ trưởng Ron Brown đề nghị bộ thương mại hai nước lập ra tổ công
tác chuẩn bị cho quan hệ song phương. Brown cho biết luôn là ông sẽ lập nhóm
USTA do bà Barshefsky làm nhóm trưởng. Khi trở về Việt Nam, Bộ trưởng Lê Văn
Triết đến thẳng phủ thủ tướng, chờ ông ngoài Thủ tướng còn có Bộ trưởng Đậu Ngọc
Xuân, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm.
Ông Triết kể chi tiết cuộc trò chuyện
với Ron Brown. Ông Kiệt hỏi: “Theo anh, điều này sẽ tác động đến việc mở cửa của
Việt Nam như thế nào?”. Ông Triết: “Theo tôi, nó phù hợp với chủ trương đa
phương hóa, thêm bạn bớt thù. Chắc chắn sẽ có một số anh chưa nhất trí, có anh
sẽ phân vân, nhưng mình mà lẩn quẩn thì không những mất cơ hội mà còn ảnh hưởng
đến việc mở rộng quan hệ với những đối tác khác”. Ông suy nghĩ rồi nói: “Các
anh nghiên cứu ngay xem quyết định bỏ cấm vận sẽ tác động đến việc Việt Nam mở
rộng quan hệ với các nước như thế nào. Phần ngoại giao, anh Cầm phải có kế hoạch
mở rộng quan hệ đa phương ngay sau khi Mỹ chính thức tuyên bố. Anh Triết chuẩn
bị tờ trình, trình Bộ Chính trị xin chủ trương cho đàm phán ký kết hiệp định
thương mại với Mỹ”. Ông Triết hỏi: “Ký một hiệp định song phương như với các nước?”.
Ông Kiệt nói: “Đúng!”.
Ông Lê Văn Triết kể: Tôi về làm
phương án đàm phán, chuẩn bị xong, tôi mời đại diện Bộ Ngoại giao, Tài chánh,
Ngân hàng, Bộ Kế hoạch Đầu tư… tới họp và góp ý. Văn phòng Trung ương cũng
thông báo năm ngày sau đó Bộ Chính trị sẽ nghe trình bày. Tại cuộc họp Bộ Chính
trị, tôi trình bày xong, ông Đỗ Mười nói: “Yêu cầu các bộ có phản biện trước”.
Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Đậu Ngọc Xuân vun xới mạnh. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Mạnh Cầm phát biểu thận trọng. Thứ trưởng Bộ Tài chánh Chu Tam Thức thì chừng mực.
Nghe xong, ông Đỗ Mười phát biểu rất căng: “Chúng ta đã đổi mới thành công, các
nước đều thừa nhận, đời sống khá hơn có cần bàn tay của Mỹ?”. Ông Đậu Ngọc Xuân
nói: “Sự giúp đỡ của Mỹ là cần thiết”. Ông Đỗ Mười: “Mình hoàn toàn độc lập, cần
gì phải giúp đỡ. Việc gì phải ký hiệp định thương mại?”.
Hôm ấy, theo chỉ đạo của anh Kiệt, Bộ
Thương mại trình một lúc hai đề án: một để đàm phán gia nhập WTO, một để ký BTA.
Nhưng, theo ông Triết, với cả hai, ông Đỗ Mười nói: “Việt Nam còn nghèo, hàng
hóa sản xuất tỷ trọng bao nhiêu, ăn thua gì, ra nó đè chết ngay lập tức. Cái thứ
ba, mình xưa giờ chủ yếu quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, chỉ am hiểu xã
hội chủ nghĩa. Giờ quan hệ với người ta, bị buộc phải theo những quy định của
người ta mình càng mất độc lập”. Bấy giờ ông Triết mới nhận ra lý do ông Võ Văn
Kiệt mời bằng được Cố vấn Phạm Văn Đồng tham gia phiên họp này. Theo đề nghị của
ông Kiệt, Cố vấn Phạm Văn Đồng phát biểu ngắn: “Bây giờ là thời kỳ toàn cầu
hóa, ai cũng phải có quan hệ với các quốc gia. Đường lối đa phương hóa mà ta đã
đi là đúng. Đã đúng thì cứ tiếp tục. Thời đại này không ai còn tự cung, tự túc.
Có gì mà không dám làm ăn với Mỹ với WTO”.
Ông Kiệt tiếp lời: “Tôi tán thành ý
kiến anh Đồng. Xu thế đó là không thể tránh khỏi. Nói để anh Mười yên tâm, tiền
thân của WTO là GATT, một tổ chức mà Liên Xô là sáng lập viên, lúc đầu có ba
mươi quốc gia. Chỉ khi có khối SEV, Liên Xô mới rút ra. Bây giờ nước Nga cũng
muốn trở lại WTO, làm đơn xin mà họ đã chấp nhận đâu. Những nước tham gia đều
theo những nguyên tắc nhất định được hình thành bằng sự đóng góp của các thành
viên. Đã có 100 nước tham gia, có những nước yếu hơn Việt Nam, nhiều nước còn phải
sắp hàng. Anh Đồng rất đúng, Việt Nam tuy còn yếu, hàng hóa chưa nhiều, chưa hiểu
hết quy luật. Nếu mình đứng ngoài thì sẽ như cũ. Tham gia vào thì đội ngũ mới
trưởng thành. Mới hiểu thị trường, luật pháp ra sao mà ứng phó. Phải tham gia để
có tiếng nói của mình, còn nếu đứng ngoài thì họ quyết sao mình chịu vậy. Trung
Quốc đã gửi hàng trăm người đi đàm phán lâu nay mà vẫn chưa được. Giữ gìn chế độ
là nhiệm vụ của mình, nhưng không thể giữ chế độ bằng cách không chơi với ai cả”.
Ông Phạm Văn Đồng tiếp: “Anh Mười lo
lắng mình bị lép vế cũng có lý vì mình còn yếu. Nhưng, tôi thì tôi không sợ.
Như anh Kiệt nói, phải vào hang mới bắt cọp”. Ông Đỗ Mười không kết luận. Ông
Phạm Văn Đồng đề nghị: “Bộ Thương mại và Bộ Ngoại giao hoàn chỉnh phương án, để
báo cáo lại”.
Tháng 5-1996, ông Nguyễn Đình Lương
tháp tùng ông Lê Văn Triết đi Washington, DC., gặp Charlene Barshefsky, trưởng
Đại diện Thương mại Mỹ. Thông điệp mà Barshefsky chuyển cho ông Triết vẫn là
Hoa Kỳ sẵn sàng ký hiệp định thương mại song phương. Ông Lương nói: “Khi về
nhà, tôi biết số phận của mình. Tháng 8-1996, tôi chuẩn bị một tờ trình, phân
tích bối cảnh quốc tế, phân tích những ý đồ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam rồi đề
ra năm nguyên tắc để bộ trưởng ký trình thủ tướng. Ông Triết đưa ra lấy ý kiến
trong Bộ, một số cán bộ chủ chốt không đồng ý, lấy lý do, “không cần bàn nguyên
tắc, cần bàn cụ thể thôi”, ông Triết cũng phân vân chưa ký. Phải một tháng sau,
trước giờ ông Lê Văn Triết ra sân bay đi nước ngoài, tôi nói: “Anh ký đi, Văn
phòng Chính phủ giục”. Ông ký. Chiều tôi mang lên Văn phòng Chính phủ. Sáng hôm
sau, Văn phòng gọi: Lương ơi, báo tin mừng cho mày, anh Sáu (Võ Văn Kiệt) chỉ
ghi một chữ: ‘Đồng ý’, viết từ bên này trang giấy kéo sang tới bên kia”.
Đàm phán Việt- Mỹ, theo ông Nguyễn
Đình Lương: “Lên bờ xuống ruộng. Năm năm cực kỳ khó khăn. Khó nhất là vì ngay từ
khi bắt đầu, ông Võ Văn Kiệt đã không còn ở vị trí quyết định. Trong các vị
lãnh đạo, số người đồng ý không nhiều, lý do: đây là vấn đề nhạy cảm, nhiều người
muốn mình không trắng, không đen, công được hưởng, tội không phải mình. Tôi là
một quan chức bé tí. Nhưng cuộc họp nào cũng phải có mặt, vì viết bài, sửa bài
cũng tôi. Bộ Chính trị họp xong bảo chuẩn bị bài ra Ban Chấp hành. Cứ tiếc, ông
Kiệt không còn làm Thủ tướng nữa”.
Lúc ấy trên Bộ Chính trị còn có ba
ông cố vấn: Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt. Ông Lương nói, chúng tôi gọi tổng
bí thư là “hoàng thượng”, trên “hoàng thượng” là “vương gia”. Trước khi quyết,
“hoàng thượng” còn phải xem ý “vương gia”. “Vương gia” lại có hai phía, người ủng
hộ quyết liệt, người thì không. Theo ông Lương: “Cứ mỗi khi họp Bộ Chính trị,
chúng tôi lại phải hỏi Văn phòng: ông Kiệt có ra họp không. Có mặt ông Kiệt thì
cán cân sẽ khác. Từ đầu, quan điểm của ông Kiệt đã rất rõ ràng: phải bình thường
hóa với Mỹ, ký Hiệp định Biên giới với Trung Quốc, ký Hiệp định thương mại Việt-Mỹ.
Trong cuộc họp, có khi ông mở đầu, nhưng thường, ông nghe hết các ý kiến. Cho
dù các ý kiến trong cuộc họp phát biểu theo chiều hướng nào thì ý kiến của ông
Kiệt vẫn là phải ký”.
Ngày 30-8-1999, ông Nguyễn Đình Lương
sang Washington, D.C., hoàn tất văn bản để chuẩn bị ký. Theo ông Lương: Ngày
1-9, khi tiếp ông Lương tại phòng làm việc, Phó đại diện thương mại Hoa Kỳ
Richard Fisher nói: “Lương, tôi hỏi ông một câu thôi: phía Hoa Kỳ định ký BTA tại
Hội nghị APEC, Việt Nam có ký không?”. Ông Lương nói: “Chắc chắn
ký với điều kiện ông giải quyết cho tôi mười vấn đề”. Thực ra, theo ông Lương:
“Mười vấn đề mà tôi đề nghị ấy chỉ là tiểu tiết nhưng các nhà lãnh đạo bên Đảng
đòi giải quyết”. Fisher nói: “Ông về báo với lãnh đạo của ông, nếu Việt Nam quyết
định ký tại Auckland, có sự chứng kiến của Bill Clinton thì những vấn đề còn lại
sang đó sẽ được giải quyết hết”. Hội nghị ký tại Auckland, có sự chứng kiến của
Bill Clinton thì những vấn đề còn lại sang đó sẽ được giải quyết hết”. Hội nghị
9-1999 tại Auckland, New Zealand.
Ông Nguyễn Đình Lương nói tiếp: “Tôi
về báo cáo. Bộ Chính trị họp đồng ý nhưng chưa ra thông báo. Hai ngày trước khi
APEC nhóm họp, phía Hoa Kỳ cử bà Ngoại trưởng Madeleine Korbelová Albright sang
Hà Nội. Albright sang, chỉ làm một việc duy nhất là thuyết phục ký. Bill
Clinton muốn gây tiếng vang, ông ta muốn kết thúc trang sử quan hệ Việt Nam Hoa
Kỳ trong nhiệm kỳ tổng thống của mình. Nếu việc ký kết thành công, tháng
11-1999, Bill sẽ sang thăm Việt Nam luôn. Người Mỹ khi ấy còn có một mục tiêu
khác: đàm phán Mỹ - Trung đang bế tắc sau chuyến đi của Chu Dung Cơ, Bill
Clinton muốn việc ký BTA với Việt Nam như một tín hiệu gửi tới Bắc Kinh”.
1999, từ Thành phố Hồ Chí Minh, ông
viết thư gửi Bộ Chính trị, xin vắng mặt phiên họp ngày 7-9-1999 bàn về
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và “xin phát biểu với Bộ Chính trị một
số ý kiến”. Ông Kiệt cho biết, những ý kiến này, ông đã trao đổi với ông
Nguyễn Mạnh Cầm tại Hà Nội trong lần gặp tuần trước đó. Ông Võ Văn Kiệt
viết: “Nên lưu ý những diễn biến trong quan hệ Mỹ - Trung và nên tính
tới tình hình chính trị nội bộ của Mỹ. Chúng ta không đặt vấn đề
nhất thiết, bằng mọi giá phải ký nhanh hiệp định này nhưng nếu có
điều kiện thì nên ký sớm để phía Mỹ có thể phê chuẩn hiệp định
trước bầu cử”. Ông Kiệt cũng đưa ra một số lập luận để cho thấy việc hai nước
ký hiệp định tại một nơi thứ ba, Auckland, New Zealand, nhân Hội nghị APEC
là “bình thường và ngày càng thông dụng”.
Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Ngày
7-9-1999, Bộ Chính trị họp đồng ý ký hiệp định tại Auckland. Anh Phiêu đã rất
hào hứng nói, nên thưởng gì cho anh em đàm phán. Tôi nói khoan đã anh ạ, chờ
xem thế nào, nhỡ người Mỹ lật lọng”. Người Mỹ không lật lọng nhưng nhà ngoại
giao lão luyện người Mỹ, bà Albright, đã phạm một lỗi nhỏ góp phần làm hỏng việc
lớn. Mười giờ sáng ngày 8-9-1999, gặp Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, bà Albright
được ông Cầm xác nhận “sẽ ký”; hai giờ chiều gặp Thủ tướng Phan Văn Khải, ông
Khải vui vẻ trả lời: “Sẽ ký”.
Có lẽ, nghĩ sứ vụ đã hoàn thành, cho
nên năm giờ chiều hôm ấy, khi hội đàm với Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, thay vì chỉ
đề cập đến việc ký kết BTA, bà Albright đã buột mồm hỏi: “Thế giới giờ chỉ còn
bốn nước xã hội chủ nghĩa, theo ông, có tiếp tục giữ được không?”. Sau khi khẳng
định với bà Albright, “chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục phát triển thắng lợi”, Tổng
Bí thư Lê Khả Phiêu gặp hai ông cố vấn Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Mọi việc bắt đầu
thay đổi.
Ông Đỗ Mười thừa nhận: “Buổi chiều,
khoảng năm giờ, trước ngày đi họp APEC, anh Phan Văn Khải sang gặp tôi, nói:
‘Anh Mười ạ, mai tôi đi, anh cho ký đi’. Tôi bảo chưa được. Mai anh gặp
Clinton, tôi đề nghị anh nói ba điểm: Chúng tôi muốn ký trong nhiệm kỳ của ngài
nhưng hiệp định phức tạp quá không như hiệp định chúng tôi ký với EU, nên còn một
số vấn đề trong Đảng và Chính phủ có ý kiến khác nhau. Tôi đề nghị ngài chỉ thị
cho phái đoàn đàm phán phía Mỹ cùng chúng tôi bàn tiếp những vấn đề đó rồi sẽ
ký. Ký được trong nhiệm kỳ của ngài thì tốt, nhưng nếu chưa ký được thì trước
khi ngài nghỉ, mời ngài sang thăm Việt Nam để quan hệ giữa ngài và Việt Nam có
trước, có sau”.
Trước đó, theo ông Đỗ Mười: “Hiệp định
nó dày thế này, Bộ Chính trị ít người đọc. Tôi có thời giờ, đọc thấy nhiều vấn
đề quá. Tôi gọi các vị lãnh đạo đến, nói: ‘Cái này mới quá. Đây là hợp tác toàn
diện chứ đâu có phải chỉ là thương mại. Tôi đề nghị Bộ Chính trị bàn tiếp”.
Theo ông Nguyễn Đình Lương: “Hôm sau,
8-9-1999, trước giờ chuyên cơ chở Thủ tướng Phan Văn Khải, Bộ trưởng Thương mại
Trương Đình Tuyển và Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đi Auckland, tôi nhận được điện:
Ông Lương ngồi đấy, chờ có lệnh mới đi”. Ông Lương chờ, ngày thứ nhất Bộ Chính
trị chưa họp, ngày thứ hai nghe tình hình khó khăn. Ngày thứ ba, quyết định
không ký. Ngày thứ tư, tôi về. Vừa tới nhà đã thấy chuyên viên trong vụ ngồi đợi,
bảo “lên văn phòng Ba Dũng ngay”. Ông Lương chạy lên thấy Phó Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đang nhăn nhó.
Ông Lê Khả Phiêu giải thích về việc
trì hoãn ký BTA một cách thận trọng: “Tôi bảo anh Phan Văn Khải cứ đi, mời Tổng
thống Bill Clinton sang, sẽ ký. Lúc đó có chế độ cố vấn, dù sao cũng phải tôn
trọng. Trong Bộ Chính trị, tuyệt đại đa số cũng chưa đồng ý. Ta không được chuẩn
bị kỹ. Có hai chương họ tự đưa vào, năm thành bảy chương. Trước những vấn đề quốc
tế khi có những ý kiến khác nhau thì phải đảm bảo chín muồi cả về nội dung lẫn
kỹ thuật và phải tôn trọng tính tập thể”.
Trong nhiều tình huống “tập thể” chỉ
là nơi pha loãng trách nhiệm cho các cá nhân. Phiên họp Bộ Chính trị mang tính
quyết định này diễn ra khi những người am hiểu quá trình đàm phán nhất như ông
Phan Văn Khải, Trương Đình Tuyển (ủy viên Trung ương thường được mời dự), Nguyễn
Mạnh Cầm đều đang ở Auckland. Ông Đỗ Mười chỉ tay hỏi: “Các anh đã đọc chưa mà
biểu quyết? Các anh biểu quyết bán nước à?”.
Đúng như ông Đỗ Mười nói, trong Bộ
Chính trị rất ít người đọc và gần như không có ai đọc kỹ như ông. Ông Nguyễn Đức
Bình buông một câu: “Toàn cầu hóa chỉ đem lại đói nghèo”. Trong khi ông Nguyễn
Phú Trọng lưu ý về “diễn biến hòa bình”. Tuy không có được vai vế như Đào Duy
Tùng nhưng từ khóa VIII, ông Nguyễn Đức Bình trở thành “nhà lý luận hàng đầu của
Đảng”. Theo ông Nguyễn Đình Lương, trong suốt quá trình đàm phán, mỗi khi xin ý
kiến Bộ Chính trị, ông Nguyễn Đức Bình lại nói: “Chúng ta không chống toàn cầu
hóa nhưng chỉ tham gia phong trào toàn cầu hóa do vô sản lãnh đạo chứ không nên
tham gia toàn cầu hóa do giai cấp tư sản lãnh đạo hiện nay”.
Cũng theo ông Nguyễn Đình Lương:
“Chúng tôi rất khó để biết ý kiến thật sự của ông Lê Đức Anh. Không chống BTA
nhưng ông Lê Đức Anh nói: nên ký Hiệp định Biên giới với Trung Quốc trước khi
ký Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ. Trong khi đó, nhiều ủy viên Bộ Chính trị nhận
được những ‘thông tin mật’ từ Tổng cục II: Trung Quốc phản ứng rất xấu nếu ký
hiệp định thương mại”. Theo ông Phan Văn Khải, khi ông Đỗ Mười đặt
lại vấn đề về BTA, ông Lê Đức Anh đã đồng ý với ông Mười là chưa ký. Tại
Auckland, theo ông Phan Văn Khải, ông và Bill Clinton vẫn gặp nhau. Clinton biết
rõ nội tình Việt Nam nên cả hai đều không nhắc tới BTA.
Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm nói:
“Tôi tiếc đứt ruột. Năm 1999, Bill Clinton muốn ký trước mặt các nhà lãnh đạo đủ
cả phương Tây lẫn phương Đông. Khi ấy các tập đoàn sản xuất hàng xuất khẩu sang
Mỹ chỉ chờ có hiệp định là nhảy vào Việt Nam. Mình quyết định không ký, mất biết
bao nhiêu cơ vào tháng 11-2001. Thị trường 1,2 tỷ dân này đã có một
sức hút to lớn đối với các nhà đầu tư. Năm năm sau, năm 2006, Trung Quốc trở
thành quốc gia có mức tăng trưởng cao nhất thế giới: 10,7% so với năm 2005.
Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Mất thêm một
năm đàm phán, phía Mỹ cũng chấp nhận một số đề nghị của ta nhưng đồng thời cũng
bắt mình phải chấp nhận thêm những yêu cầu của họ”. Mãi tới ngày 14-7-2000, Hiệp
định Thương mại Việt - Mỹ mới được ký ở Washington, khi nhiệm kỳ của Tổng thống
Bill Clinton chỉ còn chưa đầy 6 tháng.
Về tổng thể, theo Thủ tướng Phan Văn
Khải: “So với những nội dung định ký năm 1999, Hiệp định Thương mại (BTA) Việt
- Mỹ ký năm 2000 không đạt được thêm tiến bộ nào”. Nhưng, về mặt thời gian, thất
bại năm 1999 đã đánh mất của Việt Nam hơn hai năm cơ hội. Ngày 4-10-2001, Thượng
viện Mỹ mới thông qua BTA và hai tuần sau, ngày 17-10-2001, được Tổng thống
G.W.Bush phê chuẩn. Cứ mỗi năm chậm trễ, người dân Việt Nam phải chịu thiệt hại
hơn 1,5 tỷ USD.
Bill Clinton và Lê Khả
Phiêu
Gần cuối nhiệm kỳ của mình, Tổng thống
Bill Clinton thăm chính thức Việt Nam. Ông là vị tổng thống Mỹ thứ hai đến nơi
mà ông nói, giờ đây là tên của một đất nước chứ không chỉ là một cuộc chiến
tranh, và là tổng thống Mỹ đầu tiên tới Hà Nội. Tại đây, Bill Clinton đã được
đón tiếp bằng hai thái độ có thể nói là trái ngược nhau, một của người dân và một
của các nhà lãnh đạo trong các nghi lễ đón ông chính thức.
Bill Clinton và tùy tùng tới sân bay
Nội Bài lúc 11 giờ đêm ngày 16-11-2000. Điều ngạc nhiên là vị tổng thống của quốc
gia mà chính quyền đang coi như kẻ thù lại được hàng ngàn người dân Hà Nội và
các địa phương lân cận đứng chờ trong đêm lạnh dọc hai bên đường cao tốc Thăng
Long - Nội Bài. Dường như cảm kích trước sự chào đón đó, Tổng thống Clinton đã
bật đèn trong khoang xe của mình để vẫy tay đáp trả người dân Hà Nội. Dân chúng
cũng đã chen chúc đến khu Văn Miếu để nhìn thấy Bill Clinton. Hai hôm sau, khi
rời Hà Nội đến Sài Gòn cũng vào lúc mười một giờ đêm, Bill Clinton lại được người
dân đứng chờ và reo hò khi thấy ông xuất hiện từ sân bay Tân Sơn Nhất.
Trong khi đó, Bộ Chính trị đã phải
tính đến từng nụ cười, cái bắt khi đón vợ chồng Tổng thống Mỹ. Thủ tướng Phan
Văn Khải kể, khi tiếp Clinton, ông đã không cười và bàn tay thì chỉ đưa ra nhẹ
mà không nắm lại. Ông Nguyễn Đức Hòa, trợ lý của ông hỏi: “Người ta đã sang tận
đây, tiếc gì anh không nở một nụ cười với họ?”. Ông Khải nói: “Không được đâu
mày ơi, Bộ Chính trị đã thống nhất là không được cười”. Chiều
17-11-2000, một ngày trước khi Tổng thống Bill Clinton nói chuyện với sinh viên
ở trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Tướng Nguyễn Chí Trung, trợ lý của Tổng Bí
thư Lê Khả Phiêu đã mấy lần xuống “quán triệt” với Ban Giám đốc các nghi thức,
khi nào thì đứng dậy, khi nào vỗ tay.
Bill Clinton là một nhà hùng biện,
bài nói chuyện ngày 17-11-2000 tại hội trường Đại học Quốc gia Hà Nội của ông
được chuẩn bị kỹ. Thay vì theo kịch bản, sinh viên đã vỗ tay gần như liên tục ở
các đoạn đầu. Trước hàng trăm sinh viên, Bill Clinton đã bập bẹ vài từ tiếng Việt
mà ông nói là vừa cố học: “Xin chào các bạn”. Clinton đã làm cho các sinh viên
phải vỗ tay lần thứ hai trong đoạn mở đầu khi ông nhắc tới thành tích của vận động
viên Trần Hiếu Ngân, người Việt Nam đầu tiên đoạt huy chương tại
một Olympic, và các tuyển thủ bóng đá như Lê Huỳnh Đức, Hồng Sơn, đang tranh giải
ở Tiger Cup 2000 Bangkok.
Bill Clinton cho rằng, lịch sử giữa
hai quốc gia “vừa là nguồn đau thương cho các thế hệ đã qua vừa là nguồn hứa hẹn
cho các thế hệ sắp tới”. Ông nói: “Cách đây hai thế kỷ, trong những ngày đầu của
Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, chúng tôi đã vượt biển để tìm các đối tác thương mại và
một trong các nước mà chúng tôi tiếp cận đầu tiên là Việt Nam”. Clinton dẫn
thêm một câu chuyện, cho tới lúc đó, ít người biết đến: hơn 200 năm trước,
Thomas Jefferson đã cố Virginia. Jefferson là tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập
năm 1776 của nước Mỹ. Bản tuyên ngôn mà Clinton nói là đã “vang vọng trong Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập 1945” của Việt Nam.
Theo Bill Clinton: “Tất cả những điểm
gặp gỡ nhau trong lịch sử 200 năm này đã bị lu mờ trong vài thập niên vừa qua bởi
cuộc xung đột mà chúng tôi gọi là Chiến tranh Việt Nam và các bạn gọi là Kháng
chiến chống Mỹ”. Bill Clinton nhắc đến bức tường đá đen ghi tên những người Mỹ
chết trong chiến tranh Việt Nam, nhắc đến điều mà theo ông, các cựu binh Mỹ gọi
là “mặt sau của bức tường”, đó là “sự hy sinh lớn lao” của ba triệu
người Việt Nam. Đứng giữa thủ đô của một chế độ coi chính quyền miền Nam là “ngụy
quyền”, coi những người lính miền Nam là “ngụy quân”, Bill Clinton đã gọi đội
quân người Việt ở cả hai bên là “những người lính dũng cảm”.
Không đến hội trường Đại học Quốc gia
như một khách mời, nhưng có thể nói, người lắng nghe đầy đủ nhất bài phát biểu
của Bill Clinton chính là ông Nguyễn Chí Trung. Thế hệ Nguyễn Chí
Trung rất khó để chấp nhận cách gọi những người Việt ở phía bên kia, những người
mà ông coi là kẻ thù là “những người lính dũng cảm”.
Nhưng ông Trung còn quan ngại khi
Bill Clinton giải thích toàn cầu hóa và nói: “Theo kinh nghiệm chúng tôi, giới
trẻ sẽ có nhiều niềm tin hơn vào tương lai nếu họ có tiếng nói trong việc định
hướng tương lai, trong việc lựa chọn các nhà lãnh đạo chính phủ của họ và có một
chính phủ có trách nhiệm đối với những người dân mà chính phủ phục vụ”. Mặc dù
nhấn mạnh “chúng tôi không tìm cách và cũng không thể áp đặt những ý tưởng
này”, Bill Cliton nói với sinh viên: “Chỉ có các bạn mới quyết định xem có nên
chăng tiếp tục mở cửa thị trường, mở cửa xã hội của mình và củng cố nền pháp trị.
Chỉ có các bạn mới quyết định liên kết như thế nào giữa tự do cá nhân và nhân
quyền trên nền tảng giàu mạnh của bản sắc quốc gia Việt Nam”.
Vào thời điểm mà Bill Clinton đang
nói chuyện với sinh viên ở Hà Nội, Lý Tống, một cựu phi công của Không lực Việt
Nam Cộng hòa, từ California bay về Thái Lan, thuê một máy bay thể thao bí mật
bay vào vùng trời Việt Nam, rải truyền đơn ở Sài Gòn và Tây Ninh, kêu gọi lật đổ
chế độ cộng sản. Lực lượng phòng không hôm ấy đã bị Lý Tống qua mặt và hôm sau,
18-11-2000, vì quá cảnh giác đã nổ súng sượt vào một máy bay dân dụng.
Cuối buổi chiều 18-11-2000, Tổng Bí
thư Lê Khả Phiêu chào đón Tổng thống Bill Clinton bằng một bài phát biểu dài,
sau khi mở đầu theo đúng thủ tục: “Tôi hoan nghênh Ngài và Phu nhân cùng phái
đoàn Hoa Kỳ sang thăm Việt Nam”. Ông Lê Khả Phiêu bắt đầu: “Tôi đồng ý với Ngài
là chúng ta không quên quá khứ, không làm lại được quá khứ. Vấn đề quan trọng
là hiểu cho đúng thực chất cái quá khứ ấy. Cụ thể là hiểu cho đúng thực chất cuộc
kháng chiến chống xâm lược mà chúng tôi đã phải tiến hành… Việt Nam có đem quân
đi đánh Hoa Kỳ đâu mà Hoa Kỳ lại đem quân sang đánh Việt Nam? Cuộc kháng chiến
chống xâm lược của chúng tôi là giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và
đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho nên đối với chúng tôi, quá khứ không
phải trang sử đen tối, đau buồn và bất hạnh”.
Ông Lê Khả Phiêu nói tiếp: “Bà bộ trưởng
Ngoại giao Hoa Kỳ trong một lần gặp tôi có hỏi: chủ nghĩa xã hội có tồn tại được
không? Tôi nói: không những tồn tại mà chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục phát triển
thắng lợi… Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước, quan hệ thương mại
với hơn 150 nước. Đảng chúng tôi có quan hệ với hơn 180 đảng cộng sản, cánh tả,
đảng cầm quyền… Trong quan hệ quốc tế ngày nay, mọi quốc gia, dân tộc đều cần hợp
tác để cùng phát triển. Chúng tôi tôn trọng sự lựa chọn, cách sống và chế độ
chính trị của các dân tộc. Chúng tôi cũng đòi hỏi các nước tôn trọng chế độ
chính trị, sự lựa chọn của dân tộc chúng tôi”.
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu kết thúc bài
phát biểu “chào mừng” tổng thống đầu tiên của nước Mỹ đến Văn phòng Trung ương
Đảng: “Chúng tôi quý trọng nhân dân Mỹ, cảm ơn nhân dân Mỹ đã ủng hộ cuộc kháng
chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Thấy hình ảnh cháu Chelsea, tôi chạnh
nhớ cháu Emily, con gái của Morrison, và mẹ cháu
cũng đã từng sang thăm Việt Nam. Đó là biểu tượng đẹp của tình hữu nghị giữa
nhân dân hai nước”.
Bill Clinton nhớ lại: “Lê Khả Phiêu cố
gắng sử dụng hành động phản đối chiến tranh Việt Nam của tôi để cáo buộc những
gì Mỹ đã làm là hành vi đế quốc. Tôi đã rất giận dữ nhất là khi ông ta nói vậy
trước sự có mặt của Đại sứ Pete Peterson, một người đã từng là tù binh chiến
tranh. Tôi nói với nhà lãnh đạo Việt Nam rằng khi tôi không tán thành các chính
sách đối với Việt Nam, những người theo đuổi nó cũng không phải là đế quốc hay
thực dân, mà là những người tốt chiến đấu chống cộng sản. Tôi chỉ Pete và nói,
ông đại sứ không ngồi sáu năm rưỡi trong nhà tù ‘Hà Nội Hilton’ vì muốn thực
dân hóa Việt Nam”.
Ông Phan Văn Khải nhớ lại: “Ông Phiêu
nói như thời chiến tranh làm cho họ rất khó chịu. Ông ấy muốn tỏ rõ thái độ của
một chính quyền cộng sản. Nhưng, ông Phiêu không hiểu tình hình thế giới giờ
đây đã khác. Phe xã hội chủ nghĩa đã tan rã. Vấn đề là mối quan hệ giữa hai quốc
gia, chúng ta cần Mỹ. Nếu người Mỹ không vào thì những công ty lớn trên thế giới
không có ai vào cả”. Theo Tổng thống Bill Clinton thì giữa ông và Thủ tướng
Phan Văn Khải đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp trong lần gặp ở Auckland,
khi đó ông Khải cũng nói là ông cảm kích trước việc Bill Clinton đã từng phản đối
chiến tranh Việt Nam. Clinton nhớ lại: “Khi tôi nói: những người Mỹ phản đối
hay ủng hộ cuộc chiến tranh đó đều là người tốt. Ông Khải nói: tôi hiểu”.
Clinton nhận xét, dường như những người mà ông gặp ở Việt Nam, chức vụ càng cao
hơn thì ngôn ngữ càng “sặc mùi” cộng sản theo kiểu cũ hơn.
Đại hội IX
Ông Lê Khả Phiêu giữ chức tổng bí thư
được ba năm. Trong ba năm đó ông luôn chứng tỏ sự vững vàng, kiên định lập trường
của mình. Nhưng những nỗ lực của ông trước hết lại bị chính các
ông cố vấn sử dụng như một lý do để chống lại ông. Thái độ “kiên định” trước Tổng
thống Bill Clinton rồi sẽ bị các cố vấn phê bình là cứng nhắc. Trước Đại hội Đảng
lần thứ IX (4-2001) ông Lê Khả Phiêu đã bị cả ba ông cố vấn hiệp sức ép ông phải
rời chính trường.
Kiến nghị buộc ông Phiêu thôi chức được
cả ba ông cố vấn đồng tình và cùng ký. Ông Nguyễn Văn An nói: “Nó có kịch tính,
chính các ông ấy đưa ông Lê Khả Phiêu lên rồi lại đưa xuống. Những khuyết điểm
của ông Lê Khả Phiêu chỉ là nguyên cớ. Sẽ không làm được điều đó nếu cả ba ông
cố vấn không đồng tình, đặc biệt là vai trò của Lê Đức Anh và Đỗ Mười. Rất ít
trường hợp cả ba ông lại đồng tình như vậy”. Ông Nguyễn Văn An cũng thừa nhận:
“Nếu để ông Phiêu tiếp tục giữ chức thì sẽ dẫn đến tiền lệ tổng bí thư vi phạm
nguyên tắc cả đối nội và đối ngoại”. Điều đáng nói là sự “vi phạm nguyên tắc cả
đối nội lẫn đối ngoại” của ông Lê Khả Phiêu đều có bàn tay của Tổng cục II.
Về đối ngoại, ông An nói: “Ông Lê Khả
Phiêu gặp Giang Trạch Dân không theo con đường chính thống bằng quan hệ Đảng,
Nhà nước mà theo con đường tình báo”. Theo ông Nguyễn Đình Hương, thành viên
Ban Chuyên án A10: “Tháp tùng chuyến đi ấy của Lê Khả Phiêu gồm Trần Đình Hoan,
Nguyễn Mạnh Cầm và Phó Tổng cục trưởng Tổng cục II Nguyễn Chí Vịnh. Vịnh bố trí
một cuộc gặp giữa ông Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân. Khi gặp, cả ông Nguyễn Mạnh
Cầm và ông Trần Đình Hoan cùng đi nhưng phía Trung Quốc ngăn ông Cầm và ông
Hoan, chỉ cho Vịnh vào. Theo báo cáo của Vịnh thì hội đàm cũng không có thỏa
thuận riêng gì nhưng có nhiều người đặt vấn đề trong đó có Trần Đình Hoan”.
Theo ông Lê Khả Phiêu thì đây là một
cuộc gặp theo đề xuất của Giang Trạch Dân, phía Việt Nam cũng nhân đấy, muốn
“thăm dò thái độ của Trung Quốc đối với Mỹ và đối với chủ nghĩa xã hội”. Phía
Trung Quốc thỏa thuận thành phần, mỗi bên bốn người, chủ yếu là chỉ để tổng bí
thư gặp tổng bí thư. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Mạnh Cầm, trong khi ông bị chặn
lại thì phía Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền vẫn vào ngồi cùng
Giang Trạch Dân.
Ông Lê Khả Phiêu giải thích: “Tôi gặp
Giang Trạch Dân hai lần, lần thứ hai, hai bên thống nhất là nên có gặp riêng để
bàn về biên giới và Biển Đông. Trước cuộc gặp tôi có xin ý kiến Bộ Chính trị
nhưng nhiều anh quên. Tôi và Giang Trạch Dân chỉ thỏa thuận, trong vấn đề Biển
Đông, cái gì chỉ liên quan đến hai nước thì đàm phán song phương, cái gì còn
liên quan đến quốc gia khác thì đàm phán đa phương. Cho đến bây giờ thỏa thuận
này vẫn còn được thực hiện”.
Về đối nội, ông Lê Khả Phiêu bị cáo
buộc làm trái nguyên tắc khi ký Quyết định 234, cho lập ra một cơ quan theo dõi
nội bộ, chủ yếu là cán bộ cao cấp. Theo ông Vũ Quốc Hùng, phó chủ nhiệm Ủy ban
Kiểm tra Trung ương Đảng: “Việc xem xét những sai lầm của Quyết định 234 bắt đầu
sau khi ông Lê Đức Anh chính thức đặt ra”. Một ban chuyên án được Bộ Chính trị
cho thành lập với thành phần gồm: Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Chủ nghiệm Ủy
ban Kiểm tra Nguyễn Thị Xuân Mỹ, Trưởng Ban Bảo vệ Đảng Nguyễn Đình Hương.
Ông Vũ Quốc Hùng, phó chủ nhiệm Ủy
ban Kiểm tra Trung ương Đảng, người được giao thẩm tra các sai phạm của ông Lê
Khả Phiêu, cho biết: “Đầu năm 2001, Bộ Chính trị họp chuẩn bị Đại hội IX, chị
Nguyễn Thị Xuân Mỹ đi họp về nói, Bộ Chính trị đang kiểm điểm anh Phiêu gay gắt
nhiều chuyện: vấn đề Campuchia, quan hệ nam nữ, vô nguyên tắc khi ra Quyết định
234, ngành tình báo lâu nay chỉ nắm địch, nay được theo dõi nội bộ, gặp Giang
Trạch Dân, đi không hỏi, về không trình. Từ đó, Ủy ban Kiểm tra phải vào cuộc,
họp cả ngày cả đêm. Trong khi Bộ Chính trị vẫn cứ họp. Ông Phạm Thế Duyệt, ủy
viên thường trực Thường vụ Bộ Chính trị, thường xuyên gọi tôi sang, dặn: phải
có trách nhiệm với Đảng, phải khách quan, không chịu áp lực của mấy ông cố vấn”.
Theo ông Vũ Quốc Hùng: “Quyết định
234 được ký theo tham mưu của ông Vũ Chính. Lẽ ra anh Phiêu phải thận trọng.
Khi Vũ Chính tham mưu thì nói là làm sao để ngăn chặn diễn biến hòa bình, ngăn
chặn những xu hướng không tốt trong nội bộ Đảng. Tham mưu bằng mồm và có tham
mưu cả bằng giấy. Ông Phiêu thấy cần phải có một văn bản, một tổ chức nên ký”.
Ông Lê Khả Phiêu giải thích: “Lúc đó, có nhiều tin tình báo được đưa ra thiếu
kiểm chứng nhiều người có ý kiến. Tôi còn giữ thư anh Võ Văn Kiệt yêu cầu phải
chấn chỉnh công tác tình báo, nguồn tin tình báo cần được thẩm định trước khi
cho lưu hành trong nội bộ. Bản thân anh Lê Đức Anh cũng đồng ý là phải chấn chỉnh.
Vì thế tôi lập ra bộ phận này giao cho anh Phạm Thanh Ngân phụ trách”.
Về “quan hệ nam nữ”, theo ông Vũ Quốc
Hùng: “Trước khi đi Cuba, ông Lê Khả Phiêu có đến nhà anh Đoàn Mạnh Giao ăn
cơm. Tới đó có cả cô Đặng Thu Hà, con gái Trung tướng Đặng Kinh. Ông Phiêu giải
trình, quan hệ giữa ông và ông Đặng Kinh là quan hệ giữa cấp dưới với thủ trưởng,
ông coi cô Hà như là cháu. Tôi có hỏi anh Trần Đình Hoan, anh có thấy yếu tố
quan hệ nam nữ không. Anh Hoan nói không thấy. Còn “quan hệ với CIA”, khi đi Cuba,
đoàn có Ngô Xuân Lộc, Nguyễn Mạnh Cầm, Đỗ Trung Tá đi cùng, chuyển tiếp máy bay
ở Thụy Điển. Tại đây thông qua Hà có gặp một phụ nữ tên là Vũ Thị Dung, có người
tố cáo Dung là CIA”.
Trên thực tế, Vũ Thị Dung chỉ là một
cán bộ doanh nghiệp đi trong phái đoàn Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm châu Âu. Một
tấm hình chụp có Vũ Thị Dung trong chuyến đi này được photoshop, cắt hình những
người cùng chụp chỉ để lại hình Lê Khả Phiêu và Vũ Thị Dung để nói ông Phiêu
lén lút quan hệ với “gái” là một nữ điệp viên. Tại phiên họp Bộ Chính trị mà tấm
hình này được đưa ra, ông Nguyễn Mạnh Cầm xác nhận bức ảnh này khi chụp có cả
ông nhưng đã bị xóa. Trưởng Ban Tổ chức Nguyễn Văn An thừa nhận: “Bức ảnh được
cắt xén quá ấu trĩ. Tổng cục II đưa ảnh cho ông Đỗ Mười, ông Đỗ Mười đưa cho
nhiều người xem trước mặt Bộ Chính trị rồi đưa lại cho tôi quản lý”.
Đường đi của Quyết định 234 cho thấy,
khó có viên tướng nào trưởng thành trong thời gian ông Lê Đức Anh cầm quyền lại
có thể dễ dàng thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của ông. Khi trở thành tổng bí thư,
kiêm bí thư Quân ủy Trung ương, ông Lê Khả Phiêu bàn với Tướng Phạm Văn Trà, bộ
trưởng Quốc phòng và Phạm Thanh Ngân, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, lập ra một
cơ quan, thành phần gồm Tổng cục II, Cục Bảo vệ An ninh, Tổng cục Chính trị. Người
mà Tướng Lê Khả Phiêu giao thiết kế mô hình, chức năng, nhiệm vụ lại là Trung ướng
Vũ Chính.
Tướng Vũ Chính đã “thiết kế” chức
năng quyền hạn cho cơ quan này gồm cả quyền “theo dõi lực lượng cấp tiến trong
và ngoài quân đội”. Ông Phiêu được nói là đã gạch bỏ đoạn này nhưng, Tướng
Chính chỉ bỏ trong phần quyết định còn phần phụ lục hướng dẫn thì vẫn giữ
nguyên. Sau khi Tướng Phạm Thành Ngân ký nháy, Bí thư Quân ủy Lê Khả Phiêu đã
ký Quyết định 234.
Theo ông Vũ Quốc Hùng, từ khoảng
tháng 6-2000, Vũ Chính đã báo cáo với Cố vấn Lê Đức Anh rằng Quyết định 234 do
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu ký là sai. Nhưng đến ngày 5-1-2001, khi Bộ Chính trị họp
bàn chuẩn bị nhân sự Đại hội IX, Tướng Lê Đức Anh mới đưa ra Bộ Chính trị, đòi
kỷ luật ông Lê Khả Phiêu vì đã có “chủ trương theo dõi cán bộ cao cấp trong và
ngoài quân đội”. Ông Nguyễn Đình Hương cho rằng: “Quyết định 234 là một kịch bản
của ông Lê Đức Anh nhằm hạ bệ ông Lê Khả Phiêu, nhất là sau khi ông Phiêu tuyên
bố bỏ định chế cố vấn”. Ông Phiêu nói: “Có thể có mưu mẹo gì đấy nhưng tôi thì
chỉ nghĩ đơn giản”.
Trong tuần lễ từ ngày 3 đến
11-1-2001, nhân Đại hội Đảng toàn quân, cố vấn Lê Đức Anh đột ngột buộc tội Tổng
Bí thư Lê Khả Phiêu. Trong Hội nghị Bộ Chính trị, ông Lê Khả Phiêu thừa nhận có
sơ hở về hành chính trong việc ký Quyết định 234, ông vẫn còn giữ được bản thảo
và chứng minh Tướng Vũ Chính đã không sửa phần ông gạch bỏ. Ông Phiêu cũng cho
biết trước khi quyết định có họp Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương gồm Lê Khả
Phiêu, Phạm Văn Trà và Phạm Thanh Ngân. Hội nghị Bộ Chính trị ngày 5-1-2001 kết
luận việc ông Lê Khả Phiêu ký quyết định 234 là vi phạm nguyên tắc lãnh đạo tập
thể, yêu cầu hủy bỏ ngay Quyết định 234, giải tán ngay bộ phận tình báo theo
dõi nội bộ.
Sau Hội nghị Trung ương 11, các vị cố
vấn, đặc biệt là Tướng Lê Đức Anh cử người gặp các cán bộ lão thành, thông báo
những thông tin liên quan đến các “sai phạm của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu”. Theo
ông Vũ Quốc Hùng, đây là những việc làm sai nguyên tắc của Đảng và chính Ủy ban
Kiểm tra Trung ương Đảng đã gửi công văn yêu cầu các vị cố vấn phải giải trình.
Cũng theo ông Vũ Quốc Hùng, trước khi
có kết luận chúng tôi đã mời ông Lê Khả Phiêu sang Ủy ban Kiểm tra chất vấn. Ủy
ban Kiểm tra kết luật không đề nghị kỷ luật ông Lê Khả Phiêu và ông Phạm Thanh
Ngân nhưng không để tái cử trong nhiệm kỳ IX. Bộ Chính trị họp nói thẳng, ông
Phiêu phải rút khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Có ý kiến đòi phải kỷ luật ông
Phiêu trước khi cho nghỉ.
Ở Bộ Chính trị, ông Lê Khả Phiêu chấp
nhận, nhưng tại Hội nghị Trung ương 12, theo ông Nguyễn Văn An: ‘Khi Trung ương
bỏ phiếu, số người đồng ý cho ông Lê Khả Phiêu nghỉ chỉ chiếm 50,5%, số không đồng
ý là 49,5%, trong khi có năm ủy viên Trung ương vắng họp. Ông Phiêu không tâm
phục khẩu phục mà những người ủng hộ ông Phiêu cũng không tâm phục khẩu phục.
Chúng tôi cũng lo ngại rằng ra đại hội sẽ lộn xộn. Trong Bộ Chính trị thì còn
phân hóa. Ông Phiêu lại đang nắm quân đội. Tôi bàn với anh Phạm Thế Duyệt cho bỏ
phiếu lại. Bộ Chính trị đồng ý. Các ông cố vấn phản đối nhưng chúng tôi kiên
quyết làm. Thực ra khi đó đánh giá tình hình, bỏ phiếu lại thì ông Lê Khả Phiêu
chỉ mất thêm phiếu. Đưa ra Trung ương cũng bàn cãi mãi thì Trung ương mới biểu
quyết đồng ý cho bỏ phiếu lại. Ngày 18-4-2001, Ban Chấp hành Trung ương bỏ phiếu
lại, ông Phiêu chỉ còn một số phiếu rất thấp. Ông chấp nhận”.
Khi Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
họp phiên thứ nhất (22-4-2001) để bầu tổng bí thư, ông Phan Văn Khải được giao
chủ trì phiên họp. Trong danh sách thăm dò mà Ban Tổ chức công bố, ông Nông Đức
Mạnh đứng đầu, kế đó là Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Văn An và Phạm Thế
Duyệt. Ông Phan Văn Khải đã đề nghị “để thể hiện thái độ nhất trí cao trong Đảng”
chỉ giữ một mình ông Mạnh trong danh sách bầu tổng bí thư. Trung ương vỗ tay đồng
ý. Ông Mạnh “được bầu” với số phiếu 100%.
Ở sau hậu trường, theo ông Nguyễn
Đình Hương: “Ba ông cố vấn cũng đã có bàn nhau, cả ba nhân vật được các cố vấn
đưa ra cân nhắc trước như Lương, Trọng, An, đều có những vấn đề. Ông Mạnh nhờ
không nằm trong danh sách được chuẩn bị nên không có phản đối, con người ông Mạnh
lại trung dung, các ông tính, đưa ông Mạnh lên là yên. Nhưng cách tính trước mắt
ấy đã dẫn đến một sai lầm chiến lược”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét