“Ầm… Ầm.” Tiếng
nổ của hai trái hỏa tiễn làm vang rền bầu trời cư xá Ngân Hàng. Khói
lửa bay ngút trời. Tiếng động cơ trực thăng, tiếng súng và tiếng kêu
khóc của con người nhào trộn thành một thứ âm thanh khủng khiếp. Trên
kênh Tẻ không còn đến một chiếc xuồng con lảng vảng, không phải vì thế
mà dòng sông êm đềm trôi.
Hôm đó là ngày 26 tháng 4 năm 1975!
Sài
Gòn chưa mất nhưng Sài Gòn đang thoi thóp, Sài Gòn đang nghẹt thở yếu
dần, Sài Gòn đang bấn loạn với hàng trăm người hàng ngàn người cùng xe
cộ, và những bước chân vội vàng rời bỏ Sài Gòn.
Mọi
người tìm đường chạy ra khỏi thành phố và trên cầu Tân Thuận, hướng về
Nhà Bè kẹt cứng. Tôi ngược dòng người khi đến giữa cầu thì tiếng máy
cạch cạch của hai con “óc nóc” đang ngự trị và làm chủ bầu trời với
những âm thanh muốn làm vỡ toang màng nhĩ. Tôi đứng trên chỗ cao nhất
của cầu Tân Thuận giương mắt nhìn hai con “quạ sắt” đang hoành hành bầu
trời cư xá Ngân Hàng. Tiếng máy ầm ầm từ hai chiếc trực thăng lấn át và
nhận chìm những tiếng động cơ xe hơi uể ỏa nằm tê liệt trên cầu.
Hai
con “quạ sắt” rà trên khu dừa nước như hai con chim bói cá đang găm mắt
rình mồi. Những cánh chong chóng quay tít tạo thành một vòng tròn mờ ảo
trên đầu. Rặc một tiếng, đuôi trực thăng đổi chiều đẩy khối sắt nhào về
hướng phát ra mảnh khói xanh, và, xẹt xẹt hai quả rocket từ dưới bụng
con “chim sắt” phóng ra nhắm vào hàng dừa nước trước mặt. Hai vệt khói
trắng chưa kịp tan biến trên nền trời thì những thân cây dừa nước bắn
tung lên khỏi mặt đất và hai tiếng nổ ầm ầm long trời lở đất. Hai chiếc
trực thăng quay đầu trở lại quần thảo trên bầu trời, tiếng đại liên cạch
cạch cạch nhả ra từ hai con “chim sắt” cày nát khu dừa nước và những
cây bình bát. Tiếng súng vừa dứt thì xẹt xẹt những quả rocket còn lại
dưới bụng tiếp tục phóng đi, những đường khói trắng được kẻ chi chít lên
nền trời, và liên tục những tiếng nổ chát tai, để lại những cột khói,
lửa. Và mặt nước trên con rạch Dừa sóng dậy cuồn cuộn. Nhả hết “bầu tâm
sự”, hai con “chim sắt” quay đầu bay về hướng cầu chữ Y. Để lại những
ngọn dừa nước, những cây bình bát bên cạnh cư xá Ngân Hàng bốc cháy.
Bóng
người và tiếng súng cũng im đi. Bên tai tôi chỉ còn nghe tiếng máy ầm ì
của đoàn xe nhúc nhích từng ly bò qua cầu Tân Thuận.
Ngày
26 tháng 4, dưới chân cầu Tân Thuận phía bên kho 11, Khánh Hội, con
đường bị chận lại không cho người vào thành phố. Tôi mò lên cảng Kho 5
và bến Bạch Đằng nơi có nhiều tàu bè để tìm đường đi. Nhưng không qua
được, tôi quay đầu trở lại.
Nhà tôi nằm
trên Tỉnh Lộ 15. Con đường Tỉnh Lộ 15 từ Sài Gòn về Nhà Bè bắt đầu từ
ngày 24 tháng 4 người và xe cộ chạy tấp nập. Những chiếc xe Peugeot 203
màu đen bóng chở những gương mặt xa lạ, lớn bé già cả trai gái với những
vali ngỗn ngang đua nhau về Nhà Bè.
Những
ngày dầu sôi lửa bỏng ở Sài Gòn các trường đại học đóng cửa, tôi thường
ghé thăm Lim và nói chuyện ra đi. Tôi chơi thân với Lim và Lim là em
trai của Phương. Nhà Phương cách nhà tôi hai cái vườn và năm đó Phương
học ở đại học Văn Khoa. Phương và Lim còn có người chị tên Na, chị Na
đang theo học Sinh Lý Sinh Hóa ngoài Thủ Đức, mộng vào trường Y khoa Sài
Gòn. Bình nhật tôi thường qua chơi với Lim. Mỗi lần qua chơi Phương hay
bẻn lẻn lúc gặp mặt tôi. Phương có cái bớp trên má, mà mỗi lần ra nắng
cái bớp xanh lại hiện lên rõ hơn, hay có lẽ cái nắng làm cho da mặt
Phương hồng thêm, cho nên cái bớp xanh nổi bật ra. Đôi mắt Phương đen
long lanh, và nụ cười của Phương càng làm tăng thêm vẽ đẹp đôi mắt, mỗi
lần Phương cười nhìn tôi. Nhưng tâm hồn Phương rất hồn nhiên, những lần
gặp mặt đột ngột Phương chỉ “chào anh” thật nhỏ rồi cuối mặt, chân đá
những hạt bụi bên đường bước đi thật lẹ.
Hôm nay tôi đến tìm Lim. Ông Tri Phương, ba của Lim nói:
- Cho bác gởi con Phương và Lim cho cháu.
Tôi mở miệng nói “dạ” như cái máy!
Làm
như tôi đã rành đường đi nước bước lắm! Nhưng chỉ trong một thoáng, tôi
nhìn Phương và trong đôi mắt hoài nghi của Phương hình như nàng đang
nói: “Anh có biết đường không mà làm tài lanh đó!”
Hôm đó tôi rất mạnh dạng. Tôi đến nắm tay Phương và nói:
- Sửa soạn đồ đi, mình xuống Nhà Bè ngay bây giờ.
Nói xong tôi liền rời nhà Phương chạy về lấy túi hành trang đã có sẳn.
Trên
đường về nhà tôi thầm nói: “Ít ra ông Tri Phương còn có chút mạo hiểm.
Chứ có đâu như Mẹ và người anh cả tôi, lúc nào cũng nói: Mầy chỉ là
thằng sinh viên, làm gì mà sợ, đi cho chết sao.”
Tôi
vẫn biết mình chỉ là một tên sinh viên cột gà chưa chặt, nhưng sao tôi
vẫn muốn đi. Câu nói: “Các con làm gì thì làm nhưng đừng bao giờ làm
cộng sản” của Cha tôi hồi còn sinh thời, lúc này thường quanh quẩn trong
đầu tôi. Chắc chắn trong câu nói của Cha tôi có điều gì to lớn lắm nên
đã hằn sâu trong tâm khảm của ông. Nhiều ngày nay tôi năng nỉ Mẹ và các
anh cho tôi đi. Nhiều khi sự chống đối quá quyết liệt và tôi đã nói:
- Con chấp nhận cái chết, nếu không thì 20 năm sau con sẽ trở lại.
Có nghĩa là tôi đã đánh đồng sinh mạng bằng 50 phần trăm sống và chết, khi quyết định ra đi.
Cuối cùng Mẹ tôi đành nói:
- Thôi, nếu con nói như vậy thì cứ tìm đường đi đi, để sau này con không trách móc ai.
Những
ngày này đâu đâu cũng bàn tán chuyện ra đi và trên dài phát thanh còn
loan tin có những đoàn người ra đến biển thì bị bắn chết hoặc bị bắt trở
về ngồi tù. Những lời đồn làm hoang mang nhiều người và gây ra sợ sệt.
Vì vậy mà Mẹ tôi, người anh cả và người Cậu cứ nghĩ rằng: “Đất nước hết
chiến tranh, chính quyền sẽ giúp cho dân làm ăn giàu mạnh, chứ có ai bắt
bớ hành hạ đâu mà đi vào chỗ chết.” Cho nên không hưởng ứng chuyện ra
đi.
Tôi lấy túi hành trang, vỏn vẹn chỉ
có bộ sách Toán Lý Hóa, cuốn Giải Tích, cuốn tự điển Anh-Việt Việt-Anh
của Lê Bá Kông, một cây sáo trúc và khoảng mười gói mì ăn liền. Trong
nhà lúc này vắng tanh, chỉ có Mẹ và đứa em gái út lẩn quẩn nhìn ra
đường. Tôi ôm Mẹ hun lên trán một cái và nói:
- Con đi nhe Mẹ.
Chỉ bấy nhiêu thôi rồi tôi đến xoa đầu đứa em gái:
- Ở nhà ngoan, anh đi.
Mẹ tôi buồn, nhìn tôi và chỉ nói được mấy tiếng:
- Con đi thật sao!
Rồi đưa mắt nhìn theo.
Tôi
đi bộ trở lại nhà Phương. Phương và Lim đã sửa sọan xong hành lý, mỗi
người gọn gàng chỉ một vali nhỏ, tôi không biết đựng những gì trong đó.
Phương nói với tôi:
- Chị Na cũng đi luôn nhe anh.
Tôi trả lời gọn:
- Ừ, đi luôn.
Chúng
tôi rời nhà Phương xuống Nhà Bè. Hỏi thăm và tìm hết mọi nơi nhưng
tuyệt nhiên không thấy dấu vết gì về những chiếc tàu thủy đậu ngòai sông
Nhà Bè để bốc người đi! Thất vọng, ảo nảo. Chúng tôi quanh trở về. Tôi
nói với Phương:
- Hết đường rồi, cảng Sài
Gòn và bến Bạch Đằng thì bị cô lập, sông Nhà Bè cũng không có tàu bè
nào đậu đó. Chắc anh không giúp được gì đâu, thôi chắc mình nằm đây chờ
trận.
Phương
cũng buồn nhìn tôi ra về. Thì ra mấy ngày nay tin dưới Nhà Bè có những
chiếc tàu thủy cập bến chờ bốc người đi chỉ là lời đồn, và cũng vì những
lời đồn đó mà mấy ngày nay Tỉnh Lộ 15 người xuống Nhà Bè nườm nượp!
Mấy ngày này tôi nao ức được đi nhưng không biết đi bằng cách nào, và tôi thường ra bờ sông Sài Gòn ngồi nhìn.
Tôi
nhớ về Tân Thuận ở được vài ba năm thì Cha tôi qua đời. Sau ngày đưa
Cha tôi về quê an táng ở Núi Đồi, Mẹ tôi mua khu đất của ông Tri Phương
ngoài mặt Tỉnh Lộ 15, xây lên căn nhà và anh tôi mở tiệm sửa xe ở đó.
Ngoài những giờ học tôi phụ anh Hạnh sửa xe. Năm tháng trôi qua, tôi lớn
lên ở đó, sau ngày đỗ Tú Tài tôi vào đại học Khoa Học Sài Gòn thì
Phương cũng vào trường đại học Văn Khoa. Ông bà Tri Phương làm nghề buôn
bán vật liệu xây cất và đặt tên cửa hiệu Tri Phương. Tôi biết chữ
Phương lấy từ tên của người con gái giữa, chị của Lim. Ông Tri Phương
người quê Long Xuyên, An Giang về lập nghiệp nơi đây từ đầu thập niên
60. Bà Tri Phương người xề xòa, hiên lành, những buổi chiều tối bà luôn
ra trước sân đốt vài ba cây nhan vái bốn phương tám hướng. Sau này bà
Tri Phương thường qua chơi trò chuyện với Mẹ tôi.
Những ngày cuối tháng Tư ngồi trên bờ sông Sài Gòn nhìn về bầu trời Thủ Thiêm lúc nào cũng có khói lửa chiến tranh nghi ngút.
Trưa
29 tháng 4 tôi ra căn cứ chuyển vận Hải Quân kho 18 ở Tân Thuận Đông
chơi và xem tình hình. Đến cổng kho 18 tôi thấy nhiều người hôi của đang
khuân vát những thùng đồ từ kho 18 ra. Tôi men theo bờ rào xuống căn cứ
chuyển vận. Đi cùng tôi có người anh bà con, Điện, theo tôi tìm đường
đi. Những ngày này Điện bám sát tôi. Khi đến cổng vào căn cứ chuyển vận
Hải Quân thì những người lính Lôi Hổ, mặt mày hung tợn, tóc dài quá bờ
vai, đầu đội nón tai bèo, ôm súng lên đạn két két chỉa vào tôi và Điển
quát:
- Trở ra ngay, không tao bắn chết bây giờ.
Nhìn
những con mắt sát thủ hằng ngày sống ở rừng sâu, đối với những người
lính Lôi Hổ này: chết là chuyện thường. Tôi liền cùng Điện quay đầu trở
lại. Trên đuờng trở ra tôi thấy những chiếc xe Peugeot chở đầy người kéo
nhau đi vào căn cứ chuyển vận. Nhưng tôi thì vác túi hành trang đi ra,
lòng buồn dịu vợi!
Trở lại nhà tôi ngồi nhìn dòng xe nối đuôi chạy về Nhà Bè.
Chiều
29 tháng 4 tôi lên nhà Lim tìm Phương nhưng không thấy chị em Phương ở
nhà. Tôi bước ra khỏi nhà Phương về nhà cùng Điện trở lại kho 18 xem
người ta hôi của. Những ngày này lúc nào rời nhà trên vai tôi cũng mang
túi hành trang với những cuốn sách. Khi đến kho 18 tôi nhìn xéo về cổng
căn cứ chuyển vận, một điều làm tôi rất ngạc nhiên: Những người lính gác
cổng đã bỏ trống cửa ngõ! Tôi nhìn chung quanh thấy anh Hát đang đứng
nhìn đám người khiên đồ từ kho 18. Anh Hát là Thiếu Úy bộ binh QLVNCH từ
Quảng Trị vừa về. Tôi kêu anh Hát và Điện lần mò tới cổng vào sân tàu
và không thấy một ai ngăn cản. Ba đứa tôi đi thẳng luôn, và trước mặt là
ba chiếc tàu Hải Quân đổ bộ chứa đầy dân và những người lính Lôi Hổ.
Cảnh người nhôn nháo trèo lên tàu, la ó ồn ào như bầy ong vỡ tổ. Bên lề
đường những chiếc xe Peugeot không người, cửa mở tung, xe Lambretta,
Vespa, và Honda 67 đỏ chói nằm la liệt đầy đường. Thì ra đây là những
chiếc xe mà mấy ngày nay chạy tấp nập trên Tỉnh Lộ 15. Mọi người vứt bỏ
xe cộ bên đường leo lên tàu. Tôi mạnh dạng bước đến và leo lên tàu rồi
anh Hát và Điện cũng bước lên tàu. Thì ra lúc này những người lính gác
cổng đã rút lui lên tàu để cùng đi với gia đình. Trên tàu đông nghẹt
lính Lôi Hổ và gia đình, tôi hoàng toàn xa lạ, nhưng lòng thầm vui. Nhìn
lên bờ, xa xa tôi thấy bóng dáng của đứa em gái trên bãi cỏ, tôi liền
gọi thật lớn: “Đào.” Đứa em tôi chạy lại. Rồi một lát anh Hai tôi cũng
chạy lại bên chiếc tàu há miệng. Cả hai chỉ đứng trên bờ nhìn ba người
tôi trên tàu.
Trong túi hành trang tôi
không có gì để uống và lúc đó tôi thấy khác nước, tôi liền bảo đứa em
gái lấy cho tôi ca nước. Nó chạy đi và thật lẹ sau đó trao cho tôi một
canh nylon đầy nước. Tôi muốn dẫn đứa em đi theo, nhưng nghĩ tới những
nguy hiểm trước mặt và những tin tức từ đài phát thanh mấy hôm nay, tôi
đành làm thinh. Đứa em trao cho tôi canh nước xong trở lại trên bờ với
người anh cả.
Trời
lúc đó khỏang 8 giờ tối. Tôi, anh Hát và Điện đang đứng cùng đoàn người
lô nhố trên tàu. Ba chiếc tàu và cả ngàn người chen lấn trên đó, xì xầm
như phiên chợ. Tự nhiên anh Hát nắm tay tôi và nói:
- Ở
nhà chỉ có tao và mầy là hai người biết chuyện và lo cho gia đình, bây
giờ nếu cả hai cùng đi thì ai lo cho gia đình đây. Thôi mầy đi đi, tao
trở lại.
Vừa
nói xong anh Hát nhảy xuống tàu trở lại trên bờ cùng Đào và anh Hai.
Tôi không kịp nói lời nào, chỉ biết nhìn hai anh và đứa em. Tôi đang do
dự về lời nói của anh Hát thì chiếc tàu đã bị chặt đức giây neo, từ từ
de ra dòng sông. Tôi ôm túi hành trang nhìn hai ngươi anh, đứa em, và
con tàu cứ lùi dần ra xa. Lúc đó là 8 giờ 20 phút tối 29 tháng 4. Chỉ
trong vòng 25 phút sau khi tôi bước chân lên tàu, con tàu chặt neo! Tôi
đưa tay lên vãy chào. Trong giây phút hình ảnh của ba người thân mờ dần
trong bọt nước, rồi mất hẳn. Bóng tối trùm xuống, trong cái chớp mắt tôi
nghĩ đến Phương, nhưng, xa rồi!
Con tàu quay đầu về hướng biển Đông. Và tôi, bắt đầu cuộc phiêu lưu.
(Đồng Sa Băng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét