Chương mười tám
Tôi muốn nói
hai bài báo trên Nhân Dân liên quan đến tôi.
Bài đầu là
viết phê bình “Khói trắng”, phim ca ngợi công nhân nhà máy xi măng Hải Phòng đã
ngừng sản xuất bất cần đảng ủy và ban giám đốc để chữa máy cho có năng suất
cao.
Phạm Văn Đồng
giục báo phê bình. Hoàng Tùng bảo tôi:
- Phải thấy anh Đồng quần soóc tìm tôi
đang tập thể dục ở sau cây đa và một lần nữa xuống tận nhà ăn còn có mình tôi tập
thể dục muộn để nhắc tôi lần thứ ba.
Tôi nói:
- Có đáng om xòm gì đâu anh?
Nhưng vẫn
đành viết. Chiếu lệ. Ký một cái tên vu vơ, đại khái Nguyễn Thành gì đó.
Sáng hôm báo
đăng bài ấy, tôi ra Thủy Tạ ăn sáng thì vồ phải đúng Tiến Lợi, đạo diễn bộ phim
láng cháng đi qua. Tôi kéo anh vào mời cùng ăn bí-tết, cà phê. Bảo anh là tôi
đã bị yêu cầu viết phê bình phim của anh tuy thấy nó chẳng đáng bới ra.
Tiến Lợi cảm
động:
- May là ông chứ đứa khác thì chuyến này được dịp nó xin tôi tí tiết phải
biết. Ông ơi, từ đầu đến cuối bộ phim, Ngài xem kỹ lắm. Ông lạ gì ở ta phim nào
cũng đều là phải Ngài duyệt cả. Có khi còn cao hơn cả Ngài nữa.
Trần Vũ làm
một phim hợp tác xã mà ông Lê Duẩn gọi đến hỏi anh có biết hợp tác xã là gì
không? Là làm ăn lớn! Trần Vũ sau đó bảo: “Gì chứ làm ăn lớn như Cụ phán thì dễ
thôi. Cứ cho người và trâu bò, thúng mủng, cuốc xẻng, nón mũ ra đen ngòm đồng
là không kêu em làm bé được nhé. Không ư? máy kéo đếch có thì chỉ có đếm mông
mà coi là làm lớn hay bé thôi chứ? Mông quá chứ, ra đồng đều là cắm đầu xuống
đất cả...”
Phim “Khói
trắng” tôi cũng thế. Ngài phán tốt, phán từ lúc còn là âm bản. Thành dương bản
Ngài lại xem, lại phán tốt: Phim này sờ gáy khối cha bảo thủ đây, Ngài nói. Cuối
cùng đến khâu phát hành có cho chiếu không thì lại cũng phải ý kiến tối thượng
kiêm tối hậu của Ngài nữa chứ, đâu phải bọn tôi muốn gì thì muốn... Bây giờ trở
ra mình tôi chịu đòn...
Ngài đây là
Tố Hữu. Nếu biết Tố Hữu đỡ đẻ bộ phim này như Tiến Lợi vừa nói thì liệu tôi có
dám móc Ngài "sản phu” (không phải phụ) lên để buộc Ngài cùng chịu liên đới
trách nhiệm không? Chắc không. Mà có dám thì bài báo đến cửa Hoàng Tùng cũng rụng.
Tố Hữu chuyên đánh trống thổi kèn thúc quân thẳng tiến, Phạm Văn Đồng đến lúc cần
gắn hàm thiếc vào cho cỗ máy sản xuất mà thật ra chả vị nào ở ta hiểu phải xoay
sở với nó như thế nào thành đâm ra ông chẳng bà chuộc.
Trên đường về
tòa báo, ngán cho mình, tôi đã vòng lên tận đầu Khai Trí Tiến Đức cũ rồi mới quặt
lại, khá buồn. Tôi chẳng qua chỉ là cây
bút vệ sinh công cộng quét lá quét lẩu xì xằng sao cho nghe cứ là soàn soạt thật
to ở bên tai một số người thế thôi... Thế mà tại sao không nghĩ tới chữ bồi
bút? Nhận ra bản mặt không phải chuyện dễ.
Bài thứ hai
quan trọng hơn nhiều.
Liên hoan
sân khấu 1962 xôm trò. Nhiều kịch diễn. Gây xôn xao có “Nhật ký Địa chất” của
Thiết Vũ và “Con Nai Đen” của Nguyễn Đình Thi.
Trong hội diễn,
Phan Ngọc, thư ký của Tố Hữu đã dạm trước với tôi một “bài tổng kết theo ý anh
Lành.” Sau bế mạc, Phan Ngọc đưa cho tôi bài viết đã hẹn.
Tôi đọc ngay
ở sân báo. Nói: Không thể khen “Con Nai Đen là một thành công.”
- Anh Tố Hữu đánh giá đấy, - Phan Ngọc nói.
- Nhưng báo đảng thì nên thận trọng. Tôi thấy nên
sửa đi. Đừng vội nói là thành công, cần được đăng báo.
Phan Ngọc hỏi ngay vậy sửa
thế nào. Tôi nói sửa “Con Nai Đen” là một thành công thành “một thí nghiệm đáng
hoan nghênh.”
Phan Ngọc
reo lên:
- Hay! Giỏi!
Nhưng hôm
sau anh lại mang chính bài báo ấy đến. Cười bảo anh Lành đã xem, đã sửa và đã
ký tên ra lề đây. Nghĩa là chỉ có đăng thôi, miễn bàn, miễn mó máy.
Câu tôi sửa
hôm qua đã được Tố Hữu chữa lại thành: “Con Nai Đen” là một thành công đáng
hoan nghênh (chữ “thí nghiệm” của tôi bị giập đi, nhưng chữ “đáng hoan nghênh”
thì được giữ để làm tên lửa đẩy cho chữ thành công đã được mực đỏ long trọng khều
vớt lại.) Nơ-rôn tôi đã bị Tố Hữu bẻ đôi lưu dùng một nửa để nâng cấp “Con Nai
Đen” lên!
Hôm sau báo
đăng bài này. Khoảng mười giờ, tôi nhận điện thoại Trường Chinh. Hẹn tôi hai giờ
chiều lên gặp anh. Đầu tiên tôi cần đi
lùng cho ra Như Phong. Phải sục đến dăm ba chiếu rượu. Rồi kể qua sự tình, bảo
anh chiều nay cùng lên Trường Chinh. Chuyện quan trọng không thể chỉ phó lên
tuy phó tôi làm là chính và tuy chỉ phó tôi được gọi.
Trong phòng
khách, cái chỗ tôi quá quen thuộc, tôi và Trường Chinh ngồi trên đi văng, trước
mặt là Như Phong. Trường Chinh nghiêm nghị nhìn tôi hỏi, dằn giọng tuy cố giữ
bình tĩnh:
- Anh làm ở báo nào? Đúng, tôi hỏi là anh làm ở
báo nào? Anh làm ở báo đảng mà anh đi khen “'Con Nai Đen là một thành công đáng
hoan nghênh” ư? Tôi hỏi các anh căn cứ vào cái gì mà khen tướng lên như thế?
Anh có thấy đây là một vở kịch équivoque, ambigue, mập mờ, nước đôi, cạnh khoé
không? Tôi đã hỏi “người ta” (không nói rõ tên nhưng tôi chắc là Nguyễn Đình
Thi) vở kịch này nhằm chửi ai? Người ta bảo là chửi Kennedy! Ô hay, Kennedy tổng
khởi nghĩa thành công bao giờ mà rồi bị mê lú suýt mất nước, phải nhờ đến pho
tượng? Tôi vặn thế thì người ta bảo chửi Tito. Chửi Tito thì cứ réo thẳng tên
ra mà chửi chứ sao phải mập mờ? Người ta lại nói đây là chửi Khroutchev! Đồng
chí Khroutchev làm sao mà chửi? Tôi hỏi anh. Anh có nhớ tôi đã bảo anh nếu thấy
ai chửi đồng chí Khroutchev thì nói với tôi để tôi báo cáo lên Bác không?
(Vâng, tôi nói, tôi nhớ, hôm tôi kể với anh chuyện Bác lên Lạng Sơn bị mưa mà
không chịu chèo, anh đã nói như thế với tôi.) Anh Nguyễn Đình Thi là người thế
nào? Các anh không hiểu anh ấy bằng tôi đâu. Hôm nay tôi mời các anh lên để nghe
các anh nghĩ thế nào về vở kịch này, về anh Nguyễn Đình Thi… Nào, các anh nói
xem vì lẽ gì mà khen vở “Con Nai Đen”?
Tôi bèn thuật
lại từ đầu đến đuôi cuộc đấu chữ, cưa cụt chữ và ghép chữ. Tất nhiên đưa cả bản
thảo có Tố Hữu ký và các chỗ tôi và Tố Hữu sửa ra làm bằng. Trường Chinh cầm
xem xong trả lại. Nói, giọng nhẹ hẳn:
- Thôi được, các anh về, tôi sẽ nói chuyện
với anh Tố Hữu.
Đạp xe về,
thấy Thi bị điểm danh, Như Phong thích lắm cứ hỏi: “Thằng Thi nhát lắm mà sao
nó lại dám trêu Trường Chinh nhỉ?”
Tôi nói năm
1957, 58, Thép Mới qua Bắc Kinh đã phàn nàn với tôi là hai cha Tố Hữu, Hoàng
Tùng đều nhờ Trường Chinh dạy dỗ nâng đỡ mà nên thì đến sửa sai Cải cách Ruộng
đất, hai cha chửi Trường Chinh ác nhất. Nay Tố Hữu lập tại gia điện thờ Lê Duẩn
thì phải chiêu nạp con công đệ tử mới như Thi đến chầu văn hầu bóng cho rôm rả. Và vì thế Thi hết nhát! Trường Chinh nói hiểu Thi là thế.
Đến trước
báo Quân đội Nhân dân, trời đổ mưa sầm sập. Chúng tôi núp dưới mái ô văng nhà
Điện Quang. Lấy thuốc lá hút, tôi nói:
- Tố Hữu chuyến này lên to. Bộ chính trị
đây...
- Sao cậu biết? - Như Phong tròn mắt, tru giẩu
hai môi lại chờ câu trả lời.
- Đấy thôi, đang cáu thế mà nghe đến Tố Hữu là
cụ thôi ngay. Ngày xưa Tố Hữu sợ Trường Chinh hơn cọp. Tố Hữu nay đã thế nào và
Trường Chinh phải thế nào thì Thi mới dám bóng gió Trường Chinh lú lẫn chứ.
Quen nghe Thi nịnh, Trường Chinh thấy ngay anh này thờ chủ mới. Xem rồi Trường
Chinh trả miếng lại ra sao.
Tôi còn nghĩ
Tố Hữu đánh trống thổi kèn thúc công nhân tự tiện đóng sản xuất lại chữa máy
thì nay quay sang đánh trống thổi kèn thúc văn nghệ sĩ phang vào tối đẳng linh
thần… chứ đâu là thí nghiệm văn chương nữa nhưng tôi không nói ra với Như
Phong. Ý nghĩ chết người. Tuy vẫn ngỡ nội bộ lãnh đạo của ta thương yêu nhau
hơn nội bộ lãnh đạo Trung Quốc song tôi đã mơ hồ cảm thấy trong cánh gà sân khấu
đang có đồ lề thanh long đao, mã tấu xê dịch.
Tôi thầm tin
Trường Chinh sẽ rất quyết liệt giữ vững quan điểm, chính kiến của anh. Tôi
không hiểu vi-rút đại loạn của phương bắc có sức lây nhiễm và phá phách ghê gớm.
Tôi vẫn nhìn
Trường Chinh bằng con mắt hồi Cách Mạng Tháng Tám huy hoàng cờ bay… Tôi không
hiểu “đấu tranh giai cấp ở bên ngoài xã hội” rồi sẽ phải phản ánh vào trong
chóp bu nội bộ đảng. Nghĩa là khi yên lành thì tôi với anh là đồng chí, khi cần
hạ nhau thì nắm ngực bảo nhau là đại lý xấu xa của giai cấp thù địch.
Cuối cùng
Trường Chinh chịu yên bề nhưng “Con Nai Đen” cũng im tiếng. Có lẽ người ta chỉ
cần tạm quệt cho một ít nhọ nồi. Xì xầm trong giới văn nghệ: “Con Nai Đen” chĩa
vào ông ấy vì xét lại, nhụt ý chí cách mạng đấy đấy…
Bắc Kinh
công kích Liên Xô ngày một dữ. Hà Nội phải cho hai ông anh ngừng tiếp âm. Dân tối
tối ngồi đầy quanh cột đồng hồ Bờ Hồ hóng gió trời và hóng lửa hai ông anh chửi
nhau nom có kém náo nhiệt đi.
Thì hai ông
anh lu bù quăng ấn phẩm, tài liệu vào. Hầu như nhà cán bộ nào cũng đầy sách Bắc
Kinh phê phán Liên Xô. Có chủ nhân rất tự hào bầy cả chồng ở ngay trên bàn trà
nước rồi hễ ai đến lại ấp cả bàn tay lên khoe: - Đọc hết, đều đọc hai lượt hết.
Cho thấm. Riêng bài thứ chín thì nghiền hẳn ba lượt! Quá hay! Lý luận thì Bắc
Kinh quá giỏi!
Một tối, đến
nhà Đào Vũ gửi xe đạp để vào rạp Tháng Tám, Chính Yên trở ra bảo tôi đứng chờ ở
hè:
- Cả nhà nó vợ con sáu bảy người đang ngồi quanh bàn ăn, Đào Vũ giơ tay nói:
“Toàn gia nghiên cứu, anh bảo đảng phải làm chứng cho thành tích nhà tôi về lập
trường đấy nhá!”
Kim Lân một
hôm hề hề bảo tôi: - Bi giờ em lại được phong làm thằng lính gác tư tưởng
rồi cơ đấy ạ. Khốn nạn, cái thân em còm nhom nom hãi bỏ mẹ đi thế này mà
cũng bắt em đăng lính đi gác tư tưởng. (Ngoẹo đầu vén tay áo lên cho thấy toàn
xương rồi nhảnh mồm nghiến răng vờ lên gân.)
Sỉ Trực,
giám đốc nhà phát hành sách Sunhaxaba thì thào bảo tôi:
- Từ nay tôi được giao
cho làm lính canh cổng tư tuởng, này, chết như bỡn đấy.
- Sao không thấy tài liệu Liên Xô đâu cả? -
tôi hỏi.
- Đừng lộ ra đấy nhé. Kễnh (Tố Hữu) chỉ thị
cho chúng tớ là đem tài liệu Liên Xô bán kín đáo cho đồng nát còn tài liệu Bắc
Kinh chửi Liên Xô thì phân phát kỳ hết. Còn dặn cho một người hai bản cũng
không sao. Người ta có, người ta lại cho mượn truyền đi.
Tài liệu của
Bắc Kinh gồm “chín bài” đại phá xét lại mà cán bộ gặp nhau hồi ấy thường hỏi
nhau đọc đến bài thứ mấy để đo mức độ cập nhật, tức là lòng dạ sáng tối của
nhau. Trường Chinh đã tổng kết đó là “chín quả đấm thôi sơn của Trung Quốc đánh
sập chủ nghĩa xét lại Liên Xô”. Riêng với tôi thì chúng đánh sập mất lòng yêu mến
Trường Chinh bấy lâu nay của tôi.
Cùng chín quả
đấm còn một luồng gió cách mạng rất độc nữa là sách về Lôi Phong, người học trò
trung thành của Mao Chủ tịch.
Buồn vì thời
thế, tôi hay vào trường kịch ở Cầu Giấy chơi. Đang lúc đoàn thanh niên ở trường
phát động học Lôi Phong. Nhìn các nữ diễn viên tương lai mặt hoa da phấn vừa vào
trường nghệ và trường tình cắm cúi nghiền cái gã moi rác lấy bàn chải đánh răng
đã bị vất đi đem về dùng, tôi thấy thương quá. Để tuyên truyền mạnh hơn cho tư
tưởng Mao, Tố Hữu ra lệnh ngành kịch dựng vở “Dưới ánh đèn nê ông” của Trung Quốc
ca ngợi Quân giải phóng vững vàng vào Thượng Hải không hề bị sa ngã, mua chuộc.
Nghe mọi nhười xì xào nó quá xoàng, Tố Hữu đã triệu tập các báo đến chỉ thị:
“chỉ được phép khen”. Tố Hữu nhấn mạnh:
- Khen chê vở này là vấn đề lập trường,
lúc này lập trường là nghệ thuật.
Có lúc tôi
mong Phạm Văn Đồng đứng ra ngăn như với “Khói trắng”. Nhưng trong pha trận mạc
này, ông đồng tình với Tố Hữu.
Tố Hữu đi rồi,
Chi Lăng được giao cho lên giới thiệu cái hay của vở kịch. Tội cho anh. Không
nói trái được bụng mình, anh trước sau cứ mấy câu dở kịch này nó dỉ dài… dỉ đài
lắm, nó dỉ… đài thiệt… thiệt mà… và hết.
Bửu Tiến sau
họp kéo vai tôi lại thì thầm:
- D đại cho nên đ. Diễn nỗi... vì bầy đàn đạo diễn,
diễn viên đều là di tiểu, đuôi bé tí chỉ dùng để biểu cảm với bề trên được mà thôi...
Tôi bảo anh:
“Người ta đang bê Bắc Kinh lên tận mây xanh, không biết liệu có ngày nhào xuống
đất đen không?”
Một phản ứng
thôi chứ chả có cơ sở gì xác đáng… Nhiều cái điên rồ tôi từng thấy ở Bắc Kinh
mà rồi có ai làm sao đâu!
Bửu Tiến giỏi
chơi chữ. Anh đã đặt ra các tên Chi Lăng Nhăng, Trần Bảng Lảng, Thiết Vũ Phu…
trong giới kịch. Người ta đang hăng hái
tuyển ngự lâm quân hay “lính gác tư tưởng”. Tôi được kén rất sớm, sớm nhất. Một
sáng Phan Ngọc hớn hở bảo tôi:
- Anh Lành nói tìm Trần Đĩnh bảo hăng và trẻ như
Trần Đĩnh thì hãy phất cờ lên! Thời cơ rồi!
Tôi dằn giọng
đáp lại:
- Về bảo anh ấy hộ là Trần Đĩnh nói nó chẳng có cờ quái nào hết. Nhớ
nói hộ, chẳng có cờ với cơ hội quái nào hết.
Kịp kìm
không nói “cơ hội gì? Cơ hội cho đất nước làm bãi chọi trâu ư?”. Phải nhìn Phan Ngọc ù té phóng vội đi. Vẻ cái
tướng của tôi cũng dữ.
Cơ quan nào
cũng thành hai phe giáo điều và xét lại đả nhau. Có khi thượng cả cẳng chân cẳng
tay. Tất cả rừng rực tâm huyết lao vào cuộc chiến đấu bảo vệ chủ nghĩa Mác Lê. Nào ai biết ình là quân cờ trong ván cờ Mao bày? Cũng chả ai để ý cộng sản Ấn
Độ chia hai, theo Mác và theo Mao đối địch. Nê-pan cũng một Đảng cộng sản M (tức
là Mao-ít) và một Đảng cộng sản M-L (Mác - Lênin). Nhật thì dứt khoát không
Mác, không Lê, không chuyên chính vô sản, chỉ có chủ nghĩa xã hội khoa học. Ba
bề bốn bên ai cũng bảo mình là chân lý. Chính là nhờ đã ngẫm nghĩ về cái sức mạnh
cộng sản giỏi tương tàn này mà trong lúc bị hỏi cung tôi đã viết vào biên bản:
chủ nghĩa Mác-Lê như mảnh trời vỡ rạn, mỗi đảng nhận lấy một mảng sao vụn nát
bảo đó là ánh sáng chân lý của mình.
Nhưng đến
nay, bây giờ khi viết những dòng này, tôi lại hình dung thấy tất cả phe cộng sản
lúc ấy là một chậu nước lớn nhưng đã ngầu đục bị Mao lắc cho nổi sóng cuộn gió
và bên trong chậu đó các anh hùng hảo hán, các kẻ vệ đạo nghiêng ngửa hò hét hủy
diệt nhau. Trong sóng gió tối tăm ấy của cộng sản (thiên hạ đại loạn Trung Quốc
được nhờ) lập loè một tín hiệu Mao gửi Mỹ: mi không thấy là ta đánh kẻ thù số một
của mi đấy ư? Có chìa tay ra với ta không?
Tới đầu bạc,
cái râu bạc và đang dột tứ bề rồi tôi mới thấy Bắc Kinh đã góp phần chính làm
tàn phế cộng sản và chấm dứt chiến tranh lạnh! Nhưng mà tốn máu Việt Nam quá.
Trở lại một chút bản thảo bài Tố Hữu biểu dương “Con Nai Đen.”
Sáng lên Trường
Chinh thì tối tôi đến Nguyễn Tuân kể lại câu chuyện quanh bài báo khen “Con Nai
Đen” và cho Tuân bản thảo có hơi thở rừng rực ủng hộ “cái mới” của Tố Hữu.
Đúng, Duẩn
là cái mới, giới văn nghệ cần lập điện thờ và Trường Chinh là cái cũ… Biết Tuân
thích các văn bản “có bút tích lịch sử” và để báo cho Tuân thấy được “mạch lịch
sử đang rẽ ngang quẹo dọc” như thế. Tuân gật gù thú vị gấp nó lại làm tư rồi cẩn
thận đút vào túi trên bên trái chiếc áo bà ba đen (các đường chỉ may đều bạc trắng
lên, như kiểu quần jeans may chỉ vàng), lấy tay khẽ đập đập như đe: đừng có
hòng chạy thoát.
Đâu những
năm 1980, một hôm tôi hỏi Tuân còn giữ bản thảo đó không, tôi cần xem lại một
chỗ. Tuân ngơ ngác:
- Ông đưa tôi bản thảo nào nhỉ...? Với lại, vặt vảnh lắm,
tôi chả nhớ đâu.
Lúc này Tuân
và tôi đã nhạt. Anh và Chế Lan Viên là hai cây bút thượng thừa của báo đảng.
Tôi thì bị cấm đến báo đảng...
Chợt nhớ đến
hồi tôi đi cung về đã lâu, Nguyễn Thành Long bảo tôi: - Thời gian Đĩnh đi vắng,
ông Tuân có dặn mình thôi từ nay đừng nói đến Trần Đĩnh nữa nhá..., tuy tôi vẫn
trọng lủy cái côté homme (phương diện người).
Ở tiểu thuyết
Sang et volupté à Bali, “Máu và Khoái lạc ở Bali” của Vicki Baum Nguyễn Tuân
cho tôi mượn, anh đề bút chì ở dưới tên sách một dòng rất nhỏ, chữ cỡ co 6, kín
đáo nhưng nắn nót: Năm (tôi không nhớ rõ), ngày này mình đi căng. Tôi đọc mà
thương Tuân. Anh từng bị tù - và anh tự hào, thì đó, dòng chữ nắn nót như thư
pháp mà anh phải cho ở ẩn kia - nhưng đó lại là một vết nhơ: Đại Việt - anh cẩn
thận cho chỗ đặt chân của anh cũng là đúng thôi. Đảng ghét tổ chính trị! Vì tì ố
này cho thấy anh đã từng không nhìn thấy đảng, đã bị những tiếng nói bậy bạ
chúng lôi dắt anh đi mà chúng thì tất cả đều là đối địch hiểm độc của đảng ở
trên trường trận cướp chính quyền. Tuân từng có lúc hỏi tôi nếu mà dọn được nước
đi xa khỏi ông láng giềng háu uýnh thích ục thì nên dọn đến đâu. Na Uy, Thụy Sĩ
hay đây? Tuân hất đầu gợi ý.
Đọc dòng
“ngày này mình đi căng” tôi lần đầu tiên phát hiện ra rằng ở ta, yêu nước không
được đảng đóng dấu xác nhận là công cốc, thậm chí còn là điều nguy hiểm. Bởi
theo đảng thì ranh giới giữa yêu nước và phản động vô cùng mong manh.
Chương mười chín
Một sáng
tháng 6 năm 1962, Trường Chinh điện thoại gọi tôi.
- Anh hiện có bận gì không? - Anh hỏi.
- Dạ, có việc gì anh cứ bảo ạ, - Tôi nói.
- Tôi hỏi anh có bận việc gì lúc này không?
- Anh để tôi hỏi anh Hoàng Tùng... (Lát sau
tôi quay lại nói) Anh Hoàng Tùng nói hiện tôi không bận.
- Thế tốt rồi, sáng mai sáu giờ anh đến nhà
tôi. Mang theo quần áo mặc cho khoảng một tuần đến mười ngày nhé.
Đúng hẹn đến.
Trường Chinh bảo tôi chúng ta đi Bãi Cháy nghỉ hè nhưng mà tôi có cả việc nhờ
anh. Để đến nơi sẽ bàn cụ thể.
Vợ chồng Truờng
Chinh, Huấn, vợ Đăng Xuân Kỳ ngồi một Volga, tôi cùng com-măng-ca với Tuất, vụ
phó vụ bảo vệ, nhà ở hàng Điếu, gần nhà Đinh Đăng Định, phó nháy của Bác.
Ở tại tòa
nhà sáu cạnh trên sườn đồi nhìn ra vùng biển nhoi nhỏ. Tuất, An, bác sĩ đi theo
- anh bữa bữa phải ăn thử trước thức ăn và bảo đảm thức ăn không phải là món
lưu lại - cùng với tôi ở tầng trệt, gia đình Trường Chinh ở tầng trên, lên bằng
một cầu thang gạch xoáy trôn ốc. Đêm đầu không ngủ được: đi tuần quanh nhà hay
đổi gác, lính hô to quá.
Ngay tối hôm
ấy, Trường Chinh nói anh nhờ tôi viết giúp hồi ký. Anh sẽ làm việc với tôi buổi
tối. Sáng thì thăm mỏ, nhà máy, vịnh Hạ Long, chiều nghỉ ngơi tắm biển.
Hồi ký về
chuyến anh đi dự Hội nghị trung ương lần thứ 8, tháng 5 năm 1941 tại Pắc Bó. Viết
cả đoạn đi đường lặn lội, li kì có Chu Văn Tấn dẫn lối. Theo anh, Hội nghị
trung ương 8 là hết sức quan trọng với cách mạng Việt Nam cũng như với cá nhân
anh. Trước hết, hội nghị đặt ra đường lối đại đoàn kết dân tộc, lập lực lượng
vũ trang và mở căn cứ địa đánh Pháp đuổi Nhật giành độc lập cho đất nước dưới sự
lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh tức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Vốn là tên
một tổ chức cách mạng do Tưởng Giới Thạch lập ra và hoạt động ở Hoa Nam). Thứ
hai, lần đầu tiên anh gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh. Thứ ba lãnh tụ
đã xem “Đề cương Văn hóa” của anh và Nguyễn Ái Quốc đã chê văn anh Tây. “Tôi từ
đấy chú ý văn viết thật ta và bí quyết tôi dặn các anh khi viết hãy dùng nhiều
“thì, là, mà” vào chính là bắt đầu có từ Hội nghị 8 ấy,” - anh cười giảng thêm.
Anh không
nói ở hội nghị ấy, với chứng kíến và tán thành của Nguyễn Ái Quốc (lúc ấy không
biết Đệ tam đã giải tán, tôi vẫn đinh ninh Cụ nhân danh Đệ tam về nước và ở tôi
cũng như ở dân ta hồi đó, ngộ nhận này đã làm uy tín của Cụ tăng thêm lên rất
nhiều), anh mới chính thức là tổng bí thư. Làm Nam Kỳ khởi nghĩa, tổng bí thư
Nguyễn Văn Cừ bị Pháp tử hình và sau đó, hội nghị trung ương họp ở Đình Bảng
quyết định anh Chinh quyền tổng bí thư. Ở Nam ra thông báo tình hình, Phan Đăng
Lưu đã không nhận vị trí này vì còn phải gấp vào Nam ngăn cuộc Cao Biền phiêu
lưu duy ý chí dậy non. Có một nét lạ: không hiểu sao từ hồi ấy tôi luôn đinh
ninh Lê Duẩn kế thừa bền bỉ dẻo dai tinh thần duy ý chí tả khuynh này.
Viết cho Trường
Chinh, tôi hơi ngại. Anh là cây bút lão luyện. Dạy tôi từ chữ “ngày sinh nhật”
đến phổng phao chứ không phải “phổng phang” v.v... Ở bên anh, tôi cảm rõ thấy cốt
cách áp đảo của con người anh, nó khiến cho tôi không dễ bề tung hoành sắp xếp
ký ức anh như với những vị lãnh đạo khác mà tôi mặc sức “Đĩnh hóa” kỷ niệm, cảm
xúc cùng ý nghĩ của các vị ở trong gian phòng tối đầy ma thuật của tôi rồi tôi
tráng, rửa, in, phóng, cắt, ghép thoải mái. (Và các vị cũng vô cùng thoải mái
chấp nhận chân dung đã trải qua nhiều bùa chú văn học của mình.) Riêng với Trường
Chinh tôi chắc anh không thích tôi đem tấm vải đen lắm phù phép của tôi trùm
lên các chuyện của anh.
Ngại viết
cho anh nhưng tôi cũng thú vị. Không thể không nghĩ sao anh không gọi Thép Mới.
Hoàng Tùng có lần bảo tôi văn cha Thép gần đây lên dây phừng phưng ghê quá mà vẫn
không cất lên được. (Cái mà Thép Mới tự hào là có chất chính trị và tư tưởng
hơn trong khi tôi chỉ chuộng chi tiết.) Nhưng tôi ngờ có lẽ Trường Chinh thấy
Thép Mới đã bỏ anh mà ngả về Lê Duẩn, Sáu Thọ. Giống Tố Hữu và Hoàng Tùng khi sửa
sai cải cách ruộng đất. Vậy lần nhờ tôi viết này - tôi từng bất bình hỏi anh
sao dư luận cứ nói có chủ nghĩa xét lại ở ta - phải chăng là anh muốn làm một
cuộc tập hợp của chính phái? Chả biết đúng sai thế nào nhưng tôi thấy khoái.
Tôi cùng trận địa với người mà tôi hằng rất đỗi tin cậy.
Nên ngay tối
đầu tiên nghe Trường Chinh nói viết Hội nghị trung ương 8, tôi liền thầm hói:
sao anh chọn viết đề tài này? Đó là bước ngoặt quyết định ở thời kỳ Cách mạng
tháng Tám nhưng sao anh lại chọn đưa nó ra đúng vào cái thời li loạn quan điểm
này? Vào cái thời xu thế tả khuynh sặc sụa đang đo nhiệt tình cách mạng cao thấp
ở chỗ có gan đánh Mỹ hay không và đang coi nhiệt tình cách mạng cao thấp chính
là linh hồn của cách mạng. Vào cái lúc mà chắc anh cũng nghe thấy cán bộ đảng
viên đang xì xào rộng rãi rằng anh “bênh Kroutchev” và Lê Duẩn gần đây hay nói
đến đầu óc cá nhân khiến cho có vị lãnh tụ xưa sẵn sàng lên đoạn đầu đài mà bây
giờ lại không dám hy sinh và người ta tán thêm rằng Lê Duẩn ám chỉ anh và cả Cụ
Hồ. Rồi nhỡn tiền, vở “Con Nai Đen” của Nguyễn Đình Thi cạnh khóe anh đã được
cho diễn, rồi được Tố Hữu rước lên mây xanh ở trên chính ngay báo đảng, tờ báo
do tay anh, trí óc anh dựng nên.
Tôi nghĩ và
thú vị. Trường Chinh chọn cách ra mắt bằng hồi ký lúc này chứng tỏ anh không dễ
mà chịu để cho Lê Duẩn ép anh đầu hàng Mao đâu. Và anh lại nhờ tôi. Anh hẳn phải
biết rõ tôi không thích Mao rồi. Tôi rắp tâm sẽ hết sức viết cho hay.
Lúc này nói
đến Hội nghị trung ương 8, theo tôi, phải chăng Trường Chinh nhằm kín đáo cảnh
báo đường lối ta hiếu chiến của Mao Trạch Đông mà Duẩn và đa số các vị trong
Trung ương hiện đang say đắm? Tôi yêu
Trường Chinh và không ưa Lê Duẩn. Quan điểm tả khuynh bạo lực của Lê Duẩn không
thuyết phục tôi. Tôi thấy lù lù ở sau nó bộ khung cốt đồ sộ của Mao. Về đạo đức,
và cái này rất quan trọng, tôi không chấp nhận việc mới hôm nào coi hòa bình và
đoàn kết phe như giữ con ngươi của mắt thì nay họ đưa những luận điểm sặc sụa
ngụy biện ra lật ngược lại. Thí dụ nay nói ở Hội nghị 81 đảng cộng sản toàn thế
giới, ta phải ký tán thành chung sống hoà bình vì không muốn phe tan nát ngay
lúc đó, còn bây giờ phải chống Tuyên bố chung ấy thì tung luận điểm vì Liên Xô
đã đầu hàng Mỹ, bán đứng phong trào cộng sản vậy cứ trung thành với Hội nghị 81
đảng nữa là nguy hiểm... Hay Đại hội 3 đề ra “chiếu cố miền Nam” thì nay phải
“giải phóng miền Nam” mới xây dựng được miền bắc!
Vào việc,
nghe Trường Chinh nói, tôi tranh thủ ghi lại thật đầy đủ. Không hỏi vặn hỏi vẹo
lắm như với Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm.
Những cuộc đi thăm đi chơi hằng sáng rất thú vị. Ngồi tàu dạo khắp Hạ
Long, lên cả đảo Tuần Châu. Nhưng khi đi qua hòn đảo có bãi cát nhỏ xinh xắn mà
Cụ Hồ và nhà du hành vũ trụ Liên Xô Titov đã ghé chơi ở đó, tôi không thể không chạnh lòng. Các dân “Mao - nhiều” ở báo Nhân Dân từng xì xào việc Cụ “kéo” Titov
ra giữa chốn trùng dương vắng vẻ mịt mù. "Ở đấy bàn bạc với nhau cái gì thì bố
ai mà biết được!" (Nói rồi lại liếc nhìn tôi! Riêng T. D. T. một lần nói với
tôi rằng Titov có đưa thư riêng cho ông Bác nhưng sau đó khi tôi hỏi lại thì
anh trợn mắt lên và gần như tru tréo: - Này, đây là anh nói ra đấy chứ không phải
tôi đâu nhá! Đấy anh vừa nói đấy thôi, ai hỏi là tôi bảo anh nói…) Tóm lại nay
chỉ còn Bác Mao thiêng. Bác Mao thôi rất xa, Bác nay ốp sát bên ta mà thay Bác
Hồ. Tôi đôi ba phen muốn nói thế để chọc lại Mao - nhiều.
Một buổi chiều
ở Bãi Cháy, chúng tôi ngồi xuồng cao su biệt kích dạo chơi trên vụng nhỏ trước
nhà sáu cạnh. Thấy bọn tôi ngụp lặn, Trường Chinh đòi xuống. Xuống dễ, lên mới
rầy. Anh bám vào mép xuồng để lên làm cả xuồng với chúng tôi ở trên lật úp. Anh
vừa cố bám lại vào xuồng vừa cười thú nhận: “Tại bụng to quá đấy mà..., bụng to
quá mà.” Cuối cùng hai anh bảo vệ đùn bên dưới, Huấn, con dâu anh và tôi Quỳ ở
trên xuồng kéo anh lên. Đầu gối tôi chảy máu ra vì trượt mãi vào cát đọng vón lại
ở trên xuồng.
Tối ấy, trước
khi làm việc anh kể tôi một chuyện liên quan đến bụng to. Ở đường đi trong Chủ
tịch phủ gần chỗ Bác, một hôm anh thấy một hàng cây dầy trồng chắn ngang. Anh hỏi
ai làm trò kỳ cục này. Thì được biết là Bác. Buộc ai đến đây cũng phải nhảy để
cho bé cái bụng lại. Nhớ là, Bác dặn, không được phạt ngọn, cứ để cây lớn, khi
nào không nhảy qua được Bác sẽ tính sau...
Thời hạn đã
hết. Anh đã xong phần kể, từ nay công việc chủ yếu thuộc về tôi. Tối trước hôm
về Hà Nội, anh và tôi làm việc buổi cuối cùng. Anh hỏi tôi cần gì thêm nữa. Tôi
nói không nhưng viết chắc sẽ khó.
- Vì sao? - Anh hỏi.
- Tôi tự nhiên thấy thế ạ. Có lẽ vì anh là cây
bút lão luyện, - tôi nói.
- Tôi nhờ anh vì tôi tin anh viết tốt. Tôi chỉ
viết văn chính luận, còn văn học thì phải cần đến anh.
Bất chợt tôi
hỏi:
- Có thể nói Hội nghị trung ương lần thứ 8 ở Pác Bó là bắt đầu chấm dứt thời
giáo điều mạo hiểm tả khuynh kéo dài của đảng được không anh?
Ngồi bật thẳng
dậy, nhô người về đằng trước, Trường Chinh nhíu lông mày nghiêm nghị nhìn tôi,
rồi rành rọt từng tiếng như đang có nhiều người chứ không phải mình tôi nghe:
-
Không! Anh nghĩ không đúng. Đường lối của đảng ta là liên tục phát triển có kế
thừa, không có chuyện thay đổi đường lối cũng như chấm dứt cái này cái kia.
Tôi im nhưng
bụng không thông. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội rồi đại đoàn kết cả với địa chủ
và tư sản mà lại bảo từ xưa vẫn thế là làm sao? Trí phú địa hào đào tận gốc, trốc
tận rễ rồi Xô viết Nghệ Tĩnh là đúng thì sao không cứ thế kế thừa làm lại? Nếu
đó là đúng thì sao không vài năm một lần hay Hội nghị trung ương 8 cho tái diễn
Xô viết Nghệ Tĩnh, Nam kỳ khởi nghĩa?... Cũng thắc mắc tại sao đảng cứ phải giữ
tiếng là “đường lối trước sau như một”? Nhận sai mà sửa thì càng vẻ vang càng
nâng cao trình độ đảng lên chứ?
Xuống nhà,
tôi sắp rẽ ở khúc cầu thang lượn xoáy ốc thì anh gọi. Tôi quay lại đứng trước mặt
anh. "Không được ló ra ở đâu cái ý anh vừa hỏi tôi. Nhớ đấy! Đây là chỉ thị của
tôi.”
Vẻ như anh
lo cho tôi. Nhưng ngay sau đó tôi lại thấy anh sợ tôi nói ra thì người ta sẽ tưởng
tôi là loa tán phát quan điểm của anh. Tình hình này, Mao - nhiều không thể
không hỏi Trường Chinh đưa Trần Đĩnh đi chơi ở Hạ Long lâu vậy là có chuyện gì?
Nhưng rồi thấy
hơi khoa trương, Trường Chinh giơ một tay lên nhoẻn cười rồi nói "Thôi, anh xuống
được rồi đấy. Cần nhớ như thế cho tôi". Tôi lại hiểu cái cười này đang nói:
“Này, anh láu lắm, anh không moi được gì ở tôi đâu. Nhưng anh hỏi như thế là
anh hiểu tâm sự tôi rồi đấy. Hiểu tâm sự thì tốt, thì viết mới đạt và hay...”
Tôi bám vào
một điểm: anh bác ý kiến tôi nhưng không hề nhắc lại chữ tả khuynh của tôi mà
chỉ nói không có chuyện đảng ta chấm dứt cái này chấm dứt cái kia... Anh phải
vague, - mơ hồ, kín đáo như vậy vì chính sự thật là anh có nghĩ như vậy.
* * *
Tôi đã phụ
lòng gửi gắm của Trường Chinh. Viết không được!
Trước hết tôi không còn bụng dạ để viết. Thế giới nổi lên vụ tên lửa
Khroutchev đưa vào Cuba và ngày ngày tôi phải nghe Mao - nhều ở báo ra rả chửi
“thằng trọc” lúc tả (đưa tên lửa vào) lúc hữu (lẽ ra uy tín bị sứt mẻ rồi thì
đánh luôn cho bỏ con mẹ nó đi chứ lị!) Tôi bảo các ông coi đánh Mỹ như thiến
chó ấy.
“À, chính thế,
tất cả là ở cái khí phách Võ Tòng. Có thì nhìn giái Mỹ bằng quả ớt, không có
thì nhìn bằng cái thượng lương sắp rơi xuống đầu...”
Trưởng phó
ban ở báo nghe truyền đạt ý Cụ Hồ nói đưa tên lửa vào được thì tốt, mà nếu
không được thì rút ra thôi chứ có làm sao? Và ý Trường Chinh giải thích ở Quốc
hội: kẻ cướp nó đang đấm cửa mà ta bất thần mở toang ra có khi lại làm cho nó
ngã đấy! Rõ ràng hai vị đều chống lại luận điểm Bắc Kinh đang túm lấy dịp này
bôi nhọ Liên Xô và Khroutchev, cổ vũ chiến tranh với Mỹ.
Phạm Lợi đưa
tay che miệng bảo tôi: - Ông lạ quá, ông cứ hăng hái ghi tên xung phong đi sang
Cuba đánh Mỹ thì hỏi có mất gì đâu nào? Mai kia Khơ nó không cho tàu chíến chở
quân thì bám cây chuối hột với lại hai cái hột sẵn có làm phao mà sang chí nguyện
à?
Cứ quãng mười
giờ sáng, Nguyễn Thành Lê lại tủm tỉm cầm một tập dầy tin tham khảo đứng ở sân
gọi to: - Nghe tin Trọc (Khơ, Khroutchev) không?
Ầm ầm bâu đến.
Vỗ tay, reo, ríu rít kết đoàn. Hét to nhất, lộ mặt nhất, lắng xắng nhất là cán
sự 5 Hữu Thọ.
Đúng là phát
chẩn tin vàng tin bạc. Một buổi họp trưởng
phó ban, sau khi chửi tổng bí thư các đảng cộng sản Đông Âu đã dốt lại hèn, làm
tay sai cho Liên Xô, Hoàng Tùng chỉ vào mấy Mao - nhều nói: - Các tướng này
sang Ba Lan và Đức, Tiệp thừa sức làm tổng bí thư...
Nhìn mặt mấy
người được điểm danh, tôi hiểu hết tục ngữ “được lời như cởi tấm lòng”. Hạnh
phúc đúng là đang rịn ra ở trên những bộ mặt chợt mềm chảy xuống vì xúc động.
Không nhịn
được, tôi nói rất to, như quát: - À, đến thế nữa cơ ư? Tôi sẽ hỏi anh Trường
Chinh!
Tất cả cười ồ.
Một vài cái liếc chế riễu về phía tôi như bảo “đi mà mách!” Tôi liền chột dạ. Họ đã biết một cái gì mới?
Hình như có một tổng hành dinh ngày đêm phát đi những động thái cơ bản trong cuộc
co thắt chí mạng của cỗ dạ con đường lối và nhân sự bí mật này.
Họp xong,
Lưu Động bảo tôi ở ngay dưới gốc cây đa ngoài cửa phòng họp:
- Tớ lạy cậu, cậu
hãy bình tĩnh!
- Thế là họ
muốn nổ chiến tranh à? Họ muốn biến đất nước thành ra bãi chọi trâu à?... Hay
gì đánh nhau? Thế là thiên hạ sẽ đại loạn cho Trung Quốc nhờ, như Mao nói đây!
Khốn nạn, đại
loạn là cách mạng, yên bình là phần cách mạng, nói ngang như thế mà nghe lại sướng
mê sướng mẫn lên với nhau kìa! Khốn nạn! Tôi quát to hơn. Lưu Động chắp tay lại:
“Thôi, tớ lạy cậu, lạy cậu!” Tôi nói rất
to, mấy tướng Mao - nhều đang khoái trá ở trong phòng họp bước ra đều ngoảnh lại.
- Lòng yêu nước gì mà toàn xây dựng trên việc
chửi bố chửi mẹ nước khác lên như thế chứ?
Tôi biết lúc
này lòng yêu nước đang được đun sôi lên xình xịch làm một thứ cháo lú. Nhưng ý
nghĩ này tôi không dám nói ra với bất cứ ai. Kẻ nào bị lên án không yêu nước -
bằng chứng dễ thấy thôi: nó không dám đánh Mỹ - thì kẻ ấy chết đầu nước. Người
ta có vẻ đang dựng giàn tế để kén lấy vài tên phản diện - những đứa đã mất lòng
yêu nước - đưa chúng lên đó làm một cuộc hiến sinh cho cả vạn đứa sợ. Buồn cười!
Chửi tất, trừ Mặt Trời Hồng.
Tôi ra Bờ Hồ,
mệt như mới ốm dậy. Vài tháng trước tôi vừa trả Chế Lan Viên quyển Zarathoustra
a dit, - “Zarathoustra đã nói” mà anh tặng tôi. Không hiểu sao lúc này đi một
mình ven hồ lô xô bóng cây, tôi bỗng nhớ đến cái bóng của Zarathoustra chuyện với
Zarathoustra và nảy ý có lẽ nên cố viết một truyện về chủ nhân và cái bóng của
hắn.
Cặp nhân vật
này cứ đêm đến lại thì thầm lên sổ thu chi được mất với nhau. Chủ nhân mất nhiều,
rất nhiều, tóm lại toàn bộ bản ngã hắn… Nhưng bù lại cái bóng của hắn lại thu về
rất nhiều. Địa vị, quyền lợi, tên tuổi. Tóm lại vớ bẫm. Và rồi cái bóng cứ thế
lớn ra, trùm lên chủ nhân, hóa thành hào quang lý tưởng dắt dẫn chủ nhân và chủ
nhân không còn.
Nhưng chán
ngán vì lý tưởng đang vụn vỡ thành các mảnh vụn, tôi đã coi chuyện viết là thứ
phù phiếm, thậm chí sai lầm, và rốt cuộc thì tét hết.
(CÒN TIẾP)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét