Chương năm
Mỗi số báo
tôi được hai trang để tuyên truyền cải cách ruộng đất. Chủ yếu phổ biến kinh
nghiệm các đoàn đang giảm tô giảm tức ở Thanh-Nghệ. Và kinh nghiệm cải cách ruộng
đất ở Trung Quốc. Tài liệu ở nội san các đoàn giảm tô, bản dịch được Hoàng Ước,
thư ký của Hoàng Quốc Việt, người chỉ đạo cải cách ruộng đất lúc đó gửi cho.
Tóm lại các kinh nghiệm khêu gợi căm thù và tiến hành bạo lực (trong đó có cả
chuyện Pavlik Morozov, cậu bé tố cáo bố phú nông ở Liên Xô).
Cải cách ruộng
đất chính thức nổ pháo hiệu đầu tiên ở xã Dân Chủ, Đồng Bẩm, Thái Nguyên, trên
quốc lộ 1 lên Lạng Sơn. Đối tượng: Nguyễn Thị Năm, tức Cát Hanh Long, nhân sĩ
tên tuổi trong Trung ương Hội Liên Hiệp Phụ Nữ cũng như Trung ương Mặt trận
Liên Việt, người thường cùng họp long trọng với Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng,
Hoàng Quốc Việt. Nay bà trở thành địa chủ phản động, cường hào gian ác lợi dụng
tiếng thân sĩ để phá hoại cách mạng và kháng chiến, có nhiều nợ máu với bần cố
nông. Quản lý đồn điền Nguyễn Lân, nguyên vô địch võ sĩ quyền Anh trước kia nổi
tiếng khắp Ðông Dương cũng là đối tượng đấu tố và xử bắn. Đặc biệt Công, con
trai bà Nguyễn Thị Năm, Việt Minh bí mật, nay là chính ủy trung đoàn pháo 105
li đang học ở Côn Minh, Trung Quốc cũng bị gọi về, treo giò.
Một tình tiết
thú vị: khi tướng Pháp Cogny lập tập đoàn cứ điểm đầu tiên ở Nà Sản mà ta không
công phá được vì thiếu đại pháo bắn cầu vồng, đơn vị pháo 105 ly của Công đã
chuẩn bị về nước tham gia chiến dịch thì Cogny rút, pháo ta bèn nán lại học tiếp.
Ai ngờ việc đó đã khiến tướng Navarre kết luận Việt Minh không có đại pháo do
đó hăng hái nhảy lên Điện Biên Phủ và Piroth đại tá pháo binh Pháp ở Điện Biên
Phủ đã giật lựu đạn tự sát ngay khi pháo Việt Minh lên tiếng.
Để có phát
pháo mở đầu cuộc cải cách ruộng đất, Trường Chinh chỉ thị báo Nhân Dân tường
thuật vụ đấu Nguyễn Thị Năm - Cát Hanh Long. Tôi nhận nhiệm vụ. Trường Chinh
nói phân công tôi vì cần một bài báo viết nổi bật lên khung cảnh sôi sục, sinh
động của cuộc đấu tố để ca ngợi sức mạnh của bần cố nông được phát động, còn tội
ác thì tôi cứ theo tài liệu, cáo trạng của đội. Tôi nói tôi không dự đấu tố thì
anh bảo tôi khai thác Văn, người cấp dưỡng theo anh tới tận Đồng Bẩm và đã chứng
kiến các buổi đấu tố. Sở dĩ báo chí không dự đấu là vì giữ bí mật, ngại Đồng Bẩm
cách Hà Nội có vài chục cây số đường chim bay, Pháp có thể nhảy dù xuống đó. Cụ
Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt.
Thế là tôi
viết bài khai hỏa cải cách ruộng đất theo sự pha phách thêm nếm khó lòng tránh
khỏi của người cấp dưỡng đáng yêu của tổng bí thư.
Sống trên rừng
buồn, Văn nuôi một bộ râu dài rất đẹp. Cả vùng có lẽ chỉ có hai bộ râu tiên cốt
là của Cụ Hồ và của Văn. Nhưng Trường Chinh đã bắt anh cắt.” Anh để râu, dân cứ
lầm anh là Bác, mà chào anh Bác ạ, thì anh lại cười.”
Văn mất râu
nhưng còn đôi mắt cũng quăng quắc song mục đồng trùng. Dân lại kháo nhau: “Ông
Ké dạo này giấu râu, ta chào thì quay đi.” Tôi bảo Văn khéo phải đeo kính thày
bói chứ không khó lòng giữ nguyên được mắt. Xuống chợ Nỉ mà mua kính đi.
Vài anh em ở
đại đội bảo vệ ATK bảo tôi nhiều đàn bà con gái địa phương thích Văn lắm nhưng
anh ta không dám. Dám để có mà chết. Hôm sau họ sẽ kháo ầm là họ được Bác Hồ
thương ngay.
Bài báo này
tôi ký một tên ú ớ không còn nhớ và sau đó cũng không mó đến nó bao giờ. Chẳng
hiểu vì sao. Có lẽ để phối hợp với bài báo của tôi, CB (Bác Hồ) gửi đến bài “Địa
chủ ác ghê.” Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất nhân.”
Ai cũng biết
rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khóa
- thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát-Hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã kể các tội cụ thể
và con số cụ thể. (Trong hồi ký nói về mười nỗi buồn của Bác Hồ, viết Bác không
tán thành đấu Nguyễn Thị Năm nhưng phải nghe cố vấn Trung Quốc, Hoàng Tùng vô tình
hay cố tình quên bài báo Bác gây căm thù cao độ này. Đâm ra lại đổ cho Bác cái
lỗi không kiên định - nghe cả điều sai vốn trái với ý mình.)
Dăm bữa sau
bài “phóng sự nghe kể lại,” tôi xuống Đồng Bẩm. Tình cờ Tiêu Lang, báo Cứu Quốc,
trong đội cải cách về đây còn ở lại lo hậu sự. Tôi hỏi chuyện bắn, anh lè lưỡi
lắc đầu mãi rồi mới kể lại.
“Sợ lắm, tội
lắm, đừng có nói với ai, chết tớ. Khi du kích đến đưa bà ta đi, bà ta đã cảm thấy
có gì nên cứ lạy van” các anh làm gì thì bảo em trước để em còn tụng kinh.” Du
kích quát: “đưa đi chỗ giam khác thôi, im!.” Bà ta vừa quay người thì mấy loạt
tiểu liên nổ ngay sát lưng. Mình được đội phân công ra Chùa Hang mua áo quan,
chỉ thị chỉ mua áo tồi nhất.
Và không được
lộ là mua chôn địa chủ. Sợ như thế sẽ đề cao uy thế uy lực địa chủ mà. Khổ tớ,
đi mua cứ bị nhà hàng thắc mắc chưa thấy ai đi mua áo cho người nhà mà cứ đòi
cái rẻ tiền nhất. Mua áo quan được thì không cho bà ta vào lọt. Du kích mấy người
bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “Chết còn
ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?” Nghe xương kêu răng
rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ. Cuối cùng bà ta cũng vào
lọt, nằm vẹo vọ như con rối gẫy vậy...”
Rồi tôi được
nghe truyền đạt rằng các nước anh em ở Đông Âu, không phải Bác Hồ, tỏ ý không
tán thành cải cách ruộng đất mà còn bắn đầu tiên một phụ nữ.
Chính ủy
Công (được vinh dự CB nhắc đến trong bài báo trên kia) bị điệu từ Vân Nam về và
ngồi cùng mẹ chịu đấu tố nhưng nghe nói không được dự buổi chôn cất mẹ. Nhưng đầu
những năm 90, anh đã cải táng được cho mẹ rồi sau đó anh chết, lúc chỉ còn là một
người bạc nhược, sợ sệt, lú lẫn.
Khoảng 1980,
81, Minh Việt bị cổ chướng nằm bệnh viện, tôi ngày ngày đến trông nhà cho anh
chị và nhân tiện hiệu đính “Gia đình Ti–bô” cho Nhà xuất bản Văn học. Một sáng
nọ, một người trung niên đến. Rụt rè sợ sệt hỏi chị Minh Quang (vợ Minh Việt).
Tôi nói chị ấy đi làm. Thì anh nói tên anh là Công như thế như thế muốn đến xin
chị Minh Quang chứng nhận cho những ngày đầu kháng chiến anh có chiến đấu ở Khu
Thành Công. Ái ngại bảo anh chỗ tìm chị Minh Quang xong, tôi thăm hỏi. Anh nói
quên hết cả rồi.
- Còn nhớ tiếng Trung Quốc không? “Kai pao,
khai pháo, da tung xi xiang, đả thông tư tưởng, nhớ chứ?”
- Có 105 thì
còn chỉ huy được không?
- Quên hết rồi.
- Lắc, cười hiền lành.
Những chữ
“quên mất rồi” ở anh nghe thê lương, kỳ lạ như từ nguyên thủy hoang vắng. Thì
chợt nói:
- Cũng còn nhớ được một ít. Mặt Công hơi rạng sáng lên. Anh nói: “Cái
ngày 20 tháng 8 năm 1945, báo Đông Pháp nhà tôi mua tháng gửi lên thì lại đổi
thành Đông Phát, cả trang nhất đưa tin Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Tôi vội chạy
đưa cho Hoàng Thế Thiện để hắn chuyển ngay tới hai ông Trường Chinh, Võ Nguyên
Giáp đang chỉ huy đánh trại lính Nhật ở thị xã Thái Nguyên. Hai ông lúc ấy ở đồn
điền ông Nghiêm Xuân Yêm ở Cù Vân. Nhờ tờ báo này Trung ương mới biết Hà Nội đã
tổng khởi nghĩa...”
- Công lớn
quá..., tôi nói. (Nhưng bụng nghĩ Hoàng Thế Thiện sau hứng tội về vụ án một bộ
phận cấp ủy cộng sản Cam - pu - chia trong có Pen Sovan chống cộng sản Việt Nam
mà thoáng buồn.) Ngoài báo anh gửi đọc lại có xứ ủy cuốc bộ lên cấp báo Nhật đe
cho quân tiến đánh, ông Trường Chinh bèn lệnh ngừng lại và về Hà Nội xem xét.
Không thì còn thúc quân đánh rồi Nhật nó đàn áp ra sao không biết.
Nhưng Công
đã lại lắc đầu “quên, quên...” Lú lẫn đã thành một boong ke trú náu ở trong não
từ khi anh thanh minh mình tham gia cách mạng là do yêu nước thật lòng nhưng
người ta cứ nhất định bảo anh “chui vào để phá hoại cách mạng.” Nhìn anh lò dò
xuống lại cầu thang ra về, tôi không khỏi thương xót cho một cơ ngơi lớn sụp đổ
dễ như bỡn.
Ngày Công
sung sướng đưa số báo có tin Tổng khởi nghĩa cho Trung ương, anh đâu có ngờ rồi
nó sẽ đưa tan nát thảm khốc đến với gia đình anh.
Bà Năm không
thể biết anh con là cựu chính ủy pháo rồi mắc chứng quên. Nhưng dân Đồng Bẩm
thì không quên. Ở xã này có một quả đồi được dân tự động đặt cho nó tên một nạn
nhân lớn: đồi Nguyễn Thị Năm. Đồi A1 Điện Biên Phủ thì Nhà nước đặt. So tên hai
quả đồi thấy xem ra dân chuộng công minh hơn tự ca ngợi công tích.
Sau Nguyễn
Thị Năm một tháng đến lượt xử Cử Cáp. Phát khai hoả thứ hai. Lần này tôi đến dự
buổi thi hành án: bắn.
Mít tinh
tuyên án vào buổi tối. Bãi đất thuộc xã Phú Xuân, vùng chè Tân Cương. Vài trăm
con người ngồi vây kín lấy một khoảnh đất trống. Khai mạc rất thình lình.
Cũng thình
lình chánh án Lê Giản xuất hiện. Lại cũng rất thình lình mấy người lính giải
hai đối tượng đi ra. Cử Cáp, hơn bảy mươi tuổi, nguyên huấn đạo, ủy viên Mặt trận
Liên Việt, cũng địa chủ kháng chiến, thân sĩ như Nguyễn Thị Năm, tức là thuộc
diện bị chính sách cải cách ruộng đất chiếu cố. Ấn tượng mạnh nhất ở ông già là
chỏm râu bạc trắng. Cạnh cụ, bí thư chi bộ nhưng nay đã thành “Quốc dân đảng”
thông đồng với Cử Cáp phá hoại kháng chiến. Thấp nhỏ, chạc bốn chục tuổi, anh
có cái dáng quen thuộc của cán bộ xã ta thường hay lui tới nhà cùng cơm nước,
ngủ đêm...
Không như Cử
Cáp nom lớ ngớ - diễn viên chưa quen vai - anh có bộ dạng phức tạp: vừa sợ vừa
khấp khởi. Đến phút cuối cùng thế nào đảng cũng hiểu bụng dạ trung thành của
anh mà tha anh. Hai bị cói lép kẹp dưới nách, hai bị cáo đứng rúm ró. Duy một vật
sống động, phiêu diêu tự tại: chòm râu cụ Cử Cáp. Nó cứ thanh nhàn vờn múa
trong cái không gian và không khí rùng rợn, căng thẳng như đông cứng lại này.
Tôi thấy nó như đang muốn thị phạm một cách giao tiếp dễ nghe, dễ hiểu, dễ tin
cậy, không phải cái lời lẽ từ nay khó lọt tai nhau.
Chánh án Lê
Giản tuyên bố Chủ tịch nước bác đơn xin ân xá. Lim, lệt sệt đôi ủng ra hô: Giải
chúng đi!
Vọt ra năm
sáu người lính đẩy hai người tù quay lui. Tôi thấy thô bạo quá. Nhưng kìa, họ vừa
mới quay người, tốp lính đã Quỳ rộp một cái xuống, đưa tiểu liên lên bóp cò. Lửa
nhằng nhằng. Hai cái thân đổ vật. Chị cốt cán trẻ đứng bên tôi ôm chặt lấy tôi
líu lưỡi lại: “Anh có dầu... dầu Con Hổ, cho em...?”
Đúng là phải
dạy và nạp căm thù vào. Không thì khó có thể tự nhiên đùng đùng bạo lực. Hai
xác người nằm thẳng mềm mại. Bộ quần áo Cử Cáp xòa trắng tôn thêm mầu ánh bạc của
chòm râu lên - cái vùng trắng duy nhất tinh khiết ở đây. Lịch phịch đôi ủng nặng,
Lim đến bên từng nguời bắn vào thái dương phát súng “ân huệ.”
Thương, sợ
và cả bất bình lẫn lộn trong tôi. Một sức mạnh nào đó không biết đã kéo tôi là
đứa vốn nhát máu đến đứng trước cụ Cử Cáp. Vô thức muốn nói với cụ một lời phân
vua: “Thưa cụ, tôi không muốn thế này cho cụ...” Hay đúng hơn, chính chòm râu
ông nội chợt hiện lên gọi tôi đến với nó?
Cái bị cói vẫn
trung thành lép kẹp dưới nách gầy. Cạnh nó, một quả chuông to tướng, đỏ sậm, mầu
ấm Mạnh Thần, quả tim bật ra như một chồi thịt nhầy nhụa, thon thót trên ngực
người chết: cái chồi thịt, cái nụ sống ấy đang lén leo ra tìm gấp một nẻo trú ẩn
riêng, xa khuất hẳn cái nơi đáng sợ này.
Sáng sau,
cùng một cán bộ đội - nhất đội nhì trời -, tôi vào nhà Cử Cáp. Một dãy nhà
trình cổ, sơ sài trên một thềm đá ong quá cao, ngang eo tôi, nứt toác, sứt sẹo.
Một mảnh sân đất đỏ quá rộng tưởng đi mãi không hết. Một bà già ngồi xổm trên
thềm hai tay quàng ôm một đứa bé. Nhác thấy chúng tôi, bà cụ vội buông hai tay
đứng lên để chắp lại vái. Con mắt cháu bé lập tức trợn lên kinh hoàng. Nó kêu
“E!” Một tiếng rồi chạy. Rồi ngã ịch một cái từ trên thềm cao xuống sân.
Hai chúng tôi
liền trở ra. Như đứa bé muốn chạy trốn khỏi đó. Tôi đi mà vẫn thấy như nguyên
hai con mắt cháu bé trợn lên khiếp đảm nhìn chúng tôi rồi gieo mình từ trên thềm
cao xuống mà tôi thấy rõ ở đó một hành vi quyên sinh, một cử chỉ cự tuyệt nhìn
mặt bầy dã thú! Tôi đã muốn đi đến bế cháu.
Nhưng bài học
lập trường giai cấp, bài học căm thù và trên hết tất cả là sự sợ đã xui tôi bỏ
trốn. Tôi nhận ra từ nay có một viên tư lệnh chỉ đạo toàn bộ ứng xử của tôi: nó
là cái sợ.
Trước hết sợ
mất lập trường là sai với đảng. Ôi, sai với đảng là sai tất cả!
Lại ký một
cái tên nhăng nhít... Lạ! Vinh dự thế mà sao không lấy tên thật? Điều này lúc
đó quả là khó hiểu nhưng đến nay tôi đã có thể giải thích: trong mỗi chúng ta đều
có mầm tử tế chống lại cái xấu. Vấn đề là ta nuôi nó, nghe nó hay là giết nó đi
thôi.
Cần nói thêm
một điều: hơn mười năm sau, Lim treo cổ tự sát tại chính nhà mình.
Tôi đôi lần
đọc lại danh sách người bị tuyên án tử hình do các đoàn ủy thí điểm giảm tô
trong Thanh-Nghệ gửi lên Cụ Hồ để duyệt ân xá. Mỗi bản gồm tên bảy tám con người
khốn khổ. Bên lề, phần lớn Cụ viết “có đáng là cường hào gian ác hay không?”
(hay có đúng hay không tôi không chắc vì chữ a của Cụ cũng mở gần như chữ u).
Các dấu hỏi ở cuối câu đều đánh rất to còn chữ viết thì run rẩy và bé. Như một
giằng co, một phân vân. Cái dấu hỏi nổi bật hẳn lên như một tín hiệu phủ nhận dễ
biểu thị đa nghĩa hơn ngôn ngữ.
Tiêu diệt
giai cấp, bạo lực đồng thời hủy diệt cốt lõi nhân văn ở trong lòng những người
đem chia con người ra làm ta, bạn và thù...
Xấu hổ về phản
ứng tồi tàn của mình, tôi kính nể những bạn bè đã vượt được cái sợ trong cải
cách ruộng đất.
Trước hết là
Trần Châu. Mẹ vợ anh bị bao vây ở một túp lều chân đồi trong đồn điền chè Mỏ Bạch.
Châu về thăm. Hôm trước, cô em vợ học ở Tàu về, thấy cái lều thì ghé hỏi: - Bà
Lan ở đây nay ở đâu ạ? Mẹ đáp: “Dạ, không có bà Lan ạ, chỉ có con địa chủ Lan
thôi.” Cô con gái ù té chạy ra đường lên xe ngồi khóc một mình.
Rồi Đinh Văn
Đảng. Hay tin mẹ nguy khốn, như con ăn mày la liếm ở chợ, Đảng bèn về cứu mẹ,
nhờ người đưa mẹ ra chỗ hẹn rồi đạp xe chở mẹ lên Vinh, sáng sau đáp xe hàng ra
Hà Nội. Anh nói suốt chuyến về cứu mẹ, lúc nào tim anh cũng thình thình đập, có
lúc ngỡ vỡ ra đến nơi. Sau này Đảng bị xuất huyết não, tôi cứ nghĩ cái gốc sâu
xa là phải tính từ ngày anh về cứu “con mẹ ăn mày” từng thăm nuôi đứa con tù vì
họat động cách mạng. Đảng kể xem phim đấu địa chủ, người xem ném ầm ầm các thứ
lên màn ảnh. Thấy dép bị giật, anh cúi xuống. Bạn đồng sự ngồi cạnh anh đang
hét căm thù và túm lấy dép anh để ném, dép ở chân hắn còn nguyên! “các cái vờ vịt
này các ông ấy thấy cả nhưng không mắng mỏ,” Đảng nói, vì biết có cái bột giả ấy
mới gột nên chất hồ a dua mà ta hay mỹ tự là phong trào và khí thế cách mạng.
Thì ra chúng ta chuyên sính dùng hàng dỏm.
Trần Lưu Hậu,
họa sĩ, có một kinh lịch ghê sợ. Đi vẽ, nhân thể làm “công tác quần chúng,” anh
cùng Lưu Công Nhân, cũng họa sĩ, đến nhà một thân sĩ do Mặt trận huyện giới thiệu.
Hai họa sĩ được chiêu đãi quá chu đáo, đến mức Hậu áy náy, khó ngủ. Hậu hay Nhân
đã vẽ vị thân sĩ. Éo le, nửa năm sau, tham gia cải cách ruộng đất, Hậu lại đến
xã này và vị thân sĩ kia đã trở thành đầu sỏ bị đấu tố. Ông bị bắn. Hậu phải giấu
bao chuyện, nhất là các thắc mắc của mình quanh vị thân sĩ mà theo Hậu là rất tốt,
rất yêu nước… Buồn, ân hận, phân vân, Hậu rời trường đấu và bắn về đội một
mình… Thì gặp một tốp năm sáu người vội vã, lén lút như phi pháp đi ngược lại:
người nhà vị thân sĩ lên lấy xác ông. Hậu bảo mình vội cúi đầu, không dám nhìn
họ! Họ còn nhớ quá đi chứ! Mới hôm nào, bố họ, ông họ, vị thân sĩ mà nay là địa
chủ ác ôn nằm chết gục kia từng cơm rượu thịnh soạn tiếp hai vị họa sĩ. "Thú thật
lúc ấy mình mang rõ tâm trạng một kẻ lừa gạt… Thỉnh thoảng lại chợt giơ tay lên
sờ sờ mặt, ngầm xem liệu đã có nảy ra một bộ mặt khác với cái bộ mặt năm ngoái
từng tay bắt mặt mừng với chính vị thân sĩ kia không.” ..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét