Chương hai bảy
Đi từ nửa
đêm ở Chợ Đồn Con, Phú Bình, Thái Nguyên, chỗ vợ con sơ tán, mờ sáng ngày 28
tháng 7 năm 1967, qua phà Đông Xuyên sông Hồng, tôi đến ngay báo Nhân Dân. Rất
sốt ruột. Muốn gặp Châu. Muốn xem anh đã bình thường lại chưa. Mấy hôm trước
tôi rủ anh xem “Chiến tranh và Hoà bình”, phim Liên Xô chiếu nội bộ ở Viện bảo
tàng cách mạng. Ghét Liên Xô, ghét “hoà
bình”, người xem chửi cả cụ Lev Tolstoi, “Sao cái bọn này chúng nó sợ chiến
tranh đến thế chứ nhỉ, lại đem chiến tranh ra dọa ta nữa”. Nhưng Châu rất đăm
chiêu, không để ý tới những cái đó. Lát sau thấy vẻ anh vẫn nghĩ ngợi, bồn chồn,
tôi hỏi có chuyện gì thì anh nói có chuyện hơi lôi thôi, anh vừa bị mất mấy đoạn
trích biên bản hội đàm mới đây của Đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam. Mất
kèm cả cái quần lụa của vợ.
Tôi nói
ngay:
- Kẻ trộm rồi. Nếu là công an thỉ họ cứ việc đưa lệnh khám nhà rồi bắt
luôn đi thôi chứ việc gì phải bày chuyện ăn trộm?
- Hoàng Minh Chính bảo công an lấy, - Châu
nói. - Ừ, Đĩnh thử đến Chính nói là kẻ trộm xem.
Sớm hôm sau
tôi đến Chính. Cửa ra vào hành lang đóng, không muốn gọi ầm, tôi leo lên nóc bể
nước rộng bằng hai gian phòng, toan mượn nó đi qua dẫy cửa sổ hành lang, ở trước
buồng nhà sư Thiện Chiếu bên cạnh nhà Chính. Ai ngờ mái tôn ọp ẹp, tôi bỗng hóa
thành tên trộm trong một phim gián điệp kẻ gian hài. Loảng xoảng thanh la chũm
choẹ kinh kịch diễn ngoài trời có đến ba phút. Ngay cạnh dãy nhà trung đội lính
bảo vệ trụ sở Quốc hội bên kia đường kiêm theo dõi Chính và sư Thiện Chiếu.
Chính bảo
tôi dứt khoát là công an lấy rồi. Tôi đã bàn với Châu, bảo Châu nếu họ hỏi thì
cứ nói là đến tôi chơi, khi tôi đi rửa ấm chén pha nước, Châu thấy trên bàn có
tài liệu hay thì lấy về xem xong trả sau, sợ muợn tôi không đưa vì là tài liệu
tuyệt mật.
Biên bản này
là một trong vài phần tử quan trọng cấu thành vụ án chống đảng, lật đổ, tay sai
nước ngoài... Nhưng bản thân nó thì rất hay: cho thấy Bắc Kinh và Hà Nội bắt đầu
mâu thuẫn nhau về hai vấn đề. Một là Đảng cộng sản Trung Quốc cho rằng Mỹ thế
nào cũng đánh Trung Quốc và khi ấy Liên Xô sẽ nhất định theo Mỹ đánh hôi; do đó
hai, Việt Nam cần đánh đến cùng chớ nghĩ đến đàm phán. Stalin từng khuyên đừng
vượt Trường Giang Nam hạ nhưng Trung Quốc không nghe. Không nói ra nhưng ngụ ý
Việt Nam dừng đánh là nó sẽ rảnh tay đánh Trung Quốc dữ, vậy hãy ra sức phên giậu
khỏe vào cho tôi.
Còn nay hốt
vì cách mạng văn hóa ngày thêm rối bét, triển vọng nguy hiểm, Lê Duẩn không dại
hết lòng nghe đại hậu phương nữa mà muốn quay lại với “hai vai hai gánh ân
tình” nên đáp lại rằng thứ nhất, nếu Mỹ đánh Trung Quốc thì Liên Xô nhất định
giúp Trung Quốc chống Mỹ. Thế là hết theo Mao coi Liên Xô là phản thùng, đầu
hàng Mỹ bỏ rơi Việt Nam cho Mỹ xâm lược như Hội nghị trung ương 9. Và thứ hai,
Việt Nam đánh đến cùng nhưng vẫn cần vừa đánh vừa đàm.
Một cuộc họp
vậy là vô cùng quan trọng, theo chúng tôi. Một khe nứt ngoài sức tưởng tượng!
Ngày nào ai nói vừa đánh vừa đàm, ai nói Liên Xô cũng bênh Trung Quốc mà chống
Mỹ thì cầm chắc chết. Nay lại chính là Bộ chính trị. Thay đổi quả là nhanh gọn.
Trước kia ai li khai Liên Xô, tổ quốc của cách mạng vô sản thế giới thì chết,
ai dè đến Nghị quyết 9 chửi Liên Xô phản động lại là tuyệt vời cách mạng.
Dân từ đó đẻ
ra câu: sáng đúng chiều sai đến mai lại đúng. Và ông Trung Quốc bà Liên Xô, ông
nhảy dây, bà đá bóng. Lộn tùng phèo hết. Còn tại sao biên bản này đến tay Châu? Mỗi Trung ương ủy viên có một bản.
Ung Văn Khiêm cho Thiện Chiếu mượn. Thiện Chiếu đưa cho Chính. Chính chép lại
những đoạn cốt yếu rồi đưa Châu. Thì lộ từ chỗ Châu. Sau này khi đề nghị xóa án
cho vụ xét lại, Nguyễn Trung Thành bảo tôi đó là do đặc tình nó báo. Và, cũng
theo Thành, nhờ cú bố trí “đánh cắp” tài liệu và cái quần lụa “hoả mù” này, Lê
Kim Phùng đã được Trung ương cấp cho cái nhà rất sang, số 3 Lý Thường Kiệt, bên
cạnh nhà Vũ Đình Huỳnh. (Năm 1995, theo Nguyễn Trung Thành gợi ý, “Phùng thích
anh đấy, anh có khi vận động được Phùng ủng hộ tôi”, tôi đã đến đưa thư động
viên Phùng nên cùng Thành xin Trung ương xem lại vụ án. Nhà quá đẹp, Trung
Thành thêm một đời hàm bộ trưởng nữa cũng chưa chắc có nổi. Nhưng Phùng đã theo
Nguyễn Đình Hương khẳng định lại vụ án xét lại.)
Thiện Chiếu ở
cạnh buồng Hoàng Minh Chính xem vẻ ý hợp tâm đầu với nhau. Em trai nhà sư, Mười,
học lý luận hội họa ở Liên Xô, chuyện với tôi cũng ghè Mao ra phết. Thế nhưng
Thiện Chiếu lên tên phố còn Chính thì rẽ xà lim.
Thật tình
lúc nghe Châu nói cũng như sau khi đến Chính, tôi không hề lo. Dù công an có lấy
nữa thì cũng chỉ là để đe cho sợ. Chuyện bắt bớ, thủ tiêu đảng viên là của Stalin,
của Mao, không thể xảy ra ở Đảng cộng sản Việt Nam vốn giỏi xuê xoa để được tiếng
thuận hào. Tôi chỉ giảm tin yêu cụ Hồ vì
cho rằng cụ xoàng, chịu thua rồi thỏa hiệp với Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ở Hội nghị
trung ương 9 bởi có lẽ cụ nghĩ thà đảng xộc xệch còn hơn để mất đảng. Tôi vẫn
tin Lê duẩn, Lê Đức Thọ sau Nghị quyết 9 quyết định cho cụ nghỉ họp Bộ chính trị
“vì lý do sức khoẻ” để rồi sau sang Trung Quốc chữa bệnh là thật tình!
Nghị quyết 9
đã cơ bản thỏa mãn yêu cầu của Mao: bỏ Liên Xô, ngả hẳn theo Mao, phát động chiến
tranh bởi “thiên hạ đại loạn, Trung Quốc
được nhờ” (hay nôm na là chúng mày chết
cho ông sống) nhưng Việt Cộng triệt hạ phái hữu quá chậm! Đến tháng 6-1967, tất
cả những Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, gần hết Bộ chính trị và 11 nguyên soái
đã bị Mao bỏ tù thì ở Việt Nam, tuy nằm ở Bắc Kinh, Cụ Hồ vẫn nguyên thanh thế
chủ tịch nước có thơ gửi đồng bào, bộ đội và đặc biệt Giáp vẫn đầy đặn danh hiệu,
chức vụ, quyền lực tức là súng vẫn ở trong tay Giáp mà với Mao thì nòng súng đẻ
ra tất cả! Tóm lại Duẩn chưa thâu tóm được toàn bộ quyền lực và như vậy khả
năng phản đòn của xét lại Việt Nam còn lớn, khả năng Việt Nam ngừng đánh Mỹ vẫn
có, bài bản của Mao qua chiến tranh Việt Nam (chứ không phải chiến tranh lục địa
- Đài Loan) để thương lượng ngang thưng với Mỹ không thành.
Đến đây xin
kể một vụ động trời mà sau này Nguyễn Hưng Định, thư ký của phó thủ tướng Lê
Thanh Nghị, một người trong cuộc thuật lại với tôi. Theo lời Định thì lúc ấy Hà
Nội hết nhẵn tên lửa. Do tên lửa Liên Xô gửi cho Việt Nam qua đất Trung Quốc đã
bị Trung Quốc giữ lại đòi khám và “áp tống” sang Việt Nam. Biết Trung Quốc muốn
đánh cắp bí mật làm tên lửa, Liên Xô phản đối. Cuối cùng, 28 Tết âm lịch Đinh
Mùi, Cụ Hồ đành cử Lê Thanh Nghị sang cầu khẩn Mao cho gặp. Nghị nói thưa Chủ tịch,
lẽ ra Hồ Chủ tịch chúng tôi sang gặp Chủ tịch nhưng Hồ Chủ tịch chúng tôi sức yếu
không thể đi. Mao bèn hỏi: “Sao mà yếu?” - “Dạ, Hồ Chủ tịch chúng tôi quá lo lắng
vì máy bay Mỹ đánh phá ác liệt mà chúng tôi thì hết tên lửa do Trung Quốc và
Liên Xô chưa thỏa thuận được việc chuyển tên lửa”. Mao nói ngay: “Ồ, tưởng gì
chứ thế thì dễ.” Quay sang Chu Ân Lai: - “Tổng lý giải quyết việc này để cho Hồ
Chủ tịch chóng khoẻ lại.” Chu nói: - “Chủ tịch đã chỉ thị thì chẳng khó khăn
gì.” Nói đoạn quay sang Nghị hỏi tắp lự: - “Cách mạng văn hóa chúng tôi ngày
ngày rầm rộ như thế sao báo chí Việt Nam lại im?” (Khổ, báo chí Việt Nam mà đưa
tin thì bằng đem xấu xa của đại hậu phương ra bêu với dân ư?) Nghị giải thích
thế nào Định không nói mà tôi cũng không hỏi, sợ anh giật mình ngừng chuyện.)
Tiếp sau đó,
Chu nói: “Sáng mai ở Thiên An Môn hàng triệu Hồng vệ binh chúng tôi biểu dương
lực lượng ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ đó, xin mời phó thủ tướng và các đồng chí đến
dự.”
Đã phóng cây
lao đánh Mỹ của ông anh đi rồi thì phải theo lao thôi! Cái phận nhờ vả mà!
Không dự thì không tên lửa bắn máy bay!
Sáng sau đến nơi, không thể không kinh ngạc trước cảnh tượng Hồng vệ
binh bao la, sôi sục. Đầy đất là người hò la, rợp trời là cờ xí vùng vẫy, biểu
ngữ… Sau phút kinh ngạc thì đến phút kinh hoàng. Có rất nhiều biểu ngữ các tiểu
tướng Hồng vệ binh chăng lên ở trước mặt các quan khách Việt Nam đến dự đề rằng:
Đả đảo Võ Nguyên Giáp, phần tử xét lại thối tha, tay sai của Liên Xô phản động!
Tôi hỏi Định: - “Đoàn ta bỏ về chứ?” - “Bỏ thì lập tức người ta bỏ hết các thứ
chi viện.”
Tôi nói: -
“Thế nào trong thư khố của Đảng cộng sản Trung Quốc chả có phim ảnh ghi lại cảnh
thày trò các ông đứng trên lễ đài vẫy tay hoan nghênh các biểu ngữ đòi đánh đổ
Võ Nguyên Giáp. Hễ cần dí điện ta họ lại xì các ảnh ấy ra.”
Sáng hôm
sau, theo lời Định kể, Lê Chung Thủy, tham tán quân sự ở đại sứ quán ta đến nói
Giáp ở trong nước điện ra yêu cầu đại sứ ta phản đối Trung Quốc có bài báo viết
Võ Nguyên Giáp âm mưu lật đổ Cụ Hồ! Nghị bàn với Lý Tiên Niệm. Lý bảo nên để Lý
nói lại với Bộ tư lệnh Hồng Vệ binh rút bài báo đi. Thật ra bạn chỉ cốt cho một
đòn xây xẩm để hãi mà dốc lòng theo thôi. Cả nghìn năm kinh nghiệm thiên triều
úm dọa hầu quốc, Bắc Kinh thừa bùa phép. Và theo tôi, bắt đầu sợ Trung Quốc
tanh bành vì Cách mạng Văn hóa, Hà Nội có cơ bị bỏ bơ vơ giữa “chợ”… chiến trường,
Lê Duẩn đã nảy ý mau chóng giải phóng miền Nam bằng một cú đánh có tính quyết định
hy vọng qua đó thoát sớm được cuộc đại hỗn loạn của đại hậu phương và thế là Duẩn
xóa ngay kế hoạch của Võ Nguyên Giáp chỉ đánh Tây Nguyên lấy thanh thế rồi rút,
biến ý đồ duy ý chí Tổng tiến công - Tổng nổi dậy Tết Mậu Thân thành mục tiêu
chiến lược.
Nhưng đánh mạnh
thì có khả năng Mỹ nhảy ra ngoài Bắc, vậy phải tính đến khả năng vời đến quân
chí nguyện Trung Quốc vốn luôn đóng chực ở biên giới - sẵn sàng can thiệp theo
thỏa thuận từ đầu của cả hai bên. Muốn thế phải có thế chấp lớn nộp gấp Bắc
Kinh. Vụ án xét lại ra đời! Tháng 2-1968 đánh, tháng 7-1967 bắt mẻ đầu tiên.
Lê Duẩn bản
thân đã từng mấy phen bị Mao dí điện. Một lần mời Duẩn xem một phim thời sự giới
thiệu thế giới đả đảo xét lại thì giữa trận bão ầm ầm trên màn hình bỗng hiện
ra mắt bão êm ả: đó là cảnh Hồ Chí Minh ôm hôn Kossyghine đầu năm 1965 ở Hà Nội,
khi ông này sang hứa cho Việt Nam tên lửa. Sau đó lại ầm ầm như sôi đả đảo xét
lại. Xem, Bác Hồ của các đồng chí oọc - giơ việt vị như thế đấy!
Và 1967, Duẩn
phải ngồi chơi xơi nước khoảng một tháng “làm Câu Tiễn” ở Bắc Kinh - lời Duẩn
nói với anh em trong đoàn - rồi Mao mới cho gặp. Lý do: chuẩn bị đánh Tết Mậu
thân, Duẩn đi Liên Xô lo lót trước rồi mới đáo Bắc Kinh. Không ngờ đại hậu
phương bắt ne bắt nét luôn - a, chơi hai mang hả?
Sáng gặp, tối
chiêu đãi. Chiêu đãi đại yến xong đến chiêu đãi tinh thần. Mời Duẩn xem một
phim hoạt hình dài: Chú bé kiêu ngạo. Đến đây, Duẩn khẽ chỉ thị anh em ở lại
làm Câu Tiễn còn mình thì cáo mệt về nghỉ.
Ở lần Duẩn gặp
phải hai phen “câu Tiễn” này, Mao đã nói với Duẩn rằng cách mạng Việt Nam muốn
tiến lên thì phải làm như cách mạng Trung Quốc. Nghĩa là hạ phái hữu xuống, đưa
phái tả lên. Phái hữu ở Việt Nam đại khái như Võ Nguyên Giáp, phái tả ở Việt
Nam đại khái như Nguyễn Chí Thanh. Cụ trưởng tình báo Lê Trọng Nghĩa nói với
tôi, Duẩn có báo cáo lại ở Bộ chính trị (Nghĩa thường xuyên được ngồi đó để cần
thì cung cấp thông tin cho Bộ chính trị) nhưng Duẩn nói (ngoài miệng) đấy là ý
bạn, còn ta thì cứ đoàn kết chống Mỹ.
Những chuyện
trên đây Lê Trọng Nghĩa mắt thấy tai nghe tại chỗ. Anh kể với tôi.
Tháng 6 -
1967, Mao hạ Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tỉểu Bình, gần hết Bộ chính trị cùng 11 vị
nguyên soái roi thơ Hà Nội, tối 6 tháng 7, thình lình sau bữa cơm Giáp mời
Thanh ăn trước hôm Thanh đáp máy bay qua Campuchia về Rờ, Thanh đột tử. Cán cân
tả hữu ở Việt Nam đột ngột lệch hẳn về “phái hữu” (khiến cho trong điện chia buồn,
Bắc Kinh đã viết: “Xin các đồng chí chớ đau buồn nhiều” mà sau đó Nguyễn Tuân hỏi
tôi: “Ông thấy câu phân ưu này có lạ không?” Mao Trạch đông còn đích thân đến đại
sứ quán ta ở Bắc Kinh phúng, điều Mao không làm khi cụ Hồ chết. Mao có thể nghi
ngờ cái chết của Thanh. Bữa ăn bí mật đến mức phải đưa người ở Cục tình báo đến
chụp ảnh mà Bắc Kinh chẳng lạ gì cục trưởng tình báo Lê Trọng Nghĩa vừa mới
theo lệnh Lê Duẩn có động tác tiếp xúc với C.I.A Mỹ để chuẩn bị đàm phán với Mỹ.
Nguyễn Chí
Thanh, “đại diện phái tả” chết trước Tết Mậu Thân nửa năm là giọt nước làm tràn
li. Thanh chết mồng 6 thì 28 tháng 7-1967 bắt bốn xét lại đầu tiên trong có
Hoàng Minh Chính, Hoàng Thế Dũng, Phạm Viết, Trần Châu.
Lê Trọng
Nghĩa cho rằng trước khi có Tổng tiến công, Tổng nổi dậy, Lê Duẩn đã cho Tổng
tiến công, Tổng nổi dậy ở Quân ủy trung ương và Bộ tổng tư lệnh. Như sau: Tháng 9 Giáp thình lình đi Bratislava “dưỡng
bệnh” - cuộc xa xứ này để bù vào sự vắng mặt mãi mãi của Nguyễn Chí Thanh - Lê
Đức Thọ vào Quân ủy trung ương, thế lực Thọ hùng mạnh lên nhiều. Tháng 12, Nguyễn
Văn Vịnh ra khỏi Quân ủy trung ương, thôi chức trưởng ban thống nhất và bị quản
thúc. Tháng 1-1969, chánh văn phòng Bộ Tổng tư lệnh Hiếu Kính (vì đeo kính),
chánh văn phòng Quân ủy trung ương, Lê Minh Nghĩa bị treo giò và chịu sự điều
tra thẩm vấn của Cục bảo vệ quân đội. Rồi tháng 2, vừa nổ súng Tết Mậu thân, đến
lượt Lê Trọng Nghĩa, Đỗ Đức Kiên. Trong vòng sáu tháng người ta dọn sạch các trợ
lý đắc lực của Giáp. Nhưng rồi Tết Mậu Thân thua thiệt, cần đến Giáp, người ta
lại đành để cho Giáp về nước.
Diễn tiến ở
Hà Nội có khác Bắc Kinh. Bộ trưởng quốc phòng Bành Đức Hoài bị sờ đầu tiên, mãi
đến tháng 6-1967 Bắc Kinh mới quật ngã Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và 11
nguyên soái. Ở Việt Nam, đầu tiên Cụ Hồ ngồi chơi xơi nước và chữa bệnh, Trường
Chinh sớm khuất phục nhưng Duẩn mò đến Giáp sau cùng.
Còn một điểm
khác Việt Nam đặc biệt nữa: ấy là Đặng Tỉểu Bình rồi đã lật lại ván cờ đế tiến
hành một cuộc “xét lại” long trời lở đất có tên là khai phóng, cải cách minh
oan phục hồi danh dự cho các nạn nhân chính trị nhưng đám xét lại ở Việt Nam
thì vẫn hoàn toàn đêm tối. Việt Cộng tính cho vụ án xét lại “chết chìm” vì nó gồm
có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp cùng nhiều đại lão khai quốc công thần.
Dưới thời tổng
bí thư Lê Duẩn, người từng cùng trong trung ương với những Hà Huy Tập, Lê Hồng
Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và chắc từng nghe không ít những lời các vị này phê
phán Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, ba anh hùng làm Cách mạng tháng
Tám và thành lập Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lu mờ đi. Phải nói rõ là lúc nhiều
điều trên đây đang diễn ra, tôi vẫn mơ hồ.
Chương hai tám
Mơ hồ vì như
đã nói: tôi không hình dung nổi trong đảng lại có đàn áp đảng viên khác quan điểm.
Thêm vào, tôi vẫn đi làm, tôi vẫn ra vào nhà Lê Thanh Nghị, Nguyễn Đức Thuận, vẫn
nói với anh chị em cơ quan kinh nghiệm viết, vẫn đưa Tô Hoài đến nói cách ghi nhật
ký với anh chị em phóng viên. v. v.
Đầu 1967, Lê
Thanh Nghị nhờ tôi viết hồi ký. Tôi đã từ chối vì sau khi xin phép “sát hạch”
trí nhớ của anh, thấy anh không nhớ gì chi tiết cả. Và nữa, tôi không thể làm
việc theo cách Nguyễn Hưng Định, thư ký của anh, nói rồi anh ngồi bên gật đầu
chứng thực. Năm 1960, tôi đã rút được khỏi việc viết cho anh nhưng lần này
Hoàng Tùng bảo cố viết cho ông ấy, công ông ấy đi khuân các thứ về chứ không
thì cả nước đói bò ra. Nhưng tôi không thể chiều lòng anh được và tôi thật tình
áy náy.
Tôi dạo ấy cũng từ chối viết hồi ký cho Nguyễn
Duy Trinh. Nguyễn Tuân bảo nên viết cho ông này rồi bảo ông ấy đưa đi thăm mộ cụ
Nguyễn Du ở Tiên Điền. Tôi nói Xuân Diệu đi về đã than thở với tôi rằng chúng
nó phá sạch hết mộ “tên quan phong kiến” mất rồi, chẳng còn gì của Nguyễn Du
ngoài “xè xè nấm đất bên đường”. Nhưng tôi đã nhận viết báo cáo cho Lê Thanh
Nghị đọc ở Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc. Nghị đã mời tôi dự cả
các cuộc họp của Ban thi đua mà anh chủ trì, coi tôi như một thành viên thường
trực nhưng không chính thức. Do đó tôi làm việc có đến hàng tháng ở nhà Lê
Thanh Nghị. Và phạm tội hút lại thuốc lá tôi đã cai năm năm. Bởi Nghị khoe thuốc
Xiongmao Gấu Trúc này là Cụ Mao hút và tôi không muốn thua kém Mao.
Viết giúp Lê
Thanh Nghị, tức là viết ca ngợi anh hùng, thỉnh thoảng tôi lại lởn vởn nghĩ tới
câu “Thảm thay cho những đất nước có quá lắm anh hùng!” của một nhân vật trong
kịch Bertold Brecht. Tôi rất thích một nhân vật nữa của Brecht. Anh ta đánh cược
với chủ nhân một con mèo xem ai cho mèo tự nguyện ăn được mù tạc. Chủ mèo ôm
mèo vuốt ve rồi quệt mù tạc vào miệng nó. Nó cào trả rách tay. Đến lượt kẻ ra
cược. Hắn nhét một cục mù tạc tướng vào đít mèo và mèo liền phóng ra nằm ở một
góc “tự nguyện” liếm ngon lành. Anh hùng và tự nguyện, hai điều cơ bản này ở Việt
Nam rất sẵn.
Phan Đăng
Tài phụ trách thư viện của báo khi lo đem thư viện đi sơ tán đã cho tôi toàn tập
kịch Berthold Brecht. Và một từ điển Pháp - Trung. Có mấy chuyện khá ấn tượng thời gian này.
Trong mấy ngày cùng Nghị, Trần Danh Tuyên, Nguyễn Văn Tạo duyệt thông qua các
anh hùng chiến sĩ, bỗng một sáng Tuyên ầm ầm (bao giờ cũng đúng đùng đi ầm ầm đến
và nhoen nhoẻn cười) bước nhảo vào cao giọng nói: - Thằng này anh hùng được rồi.
Bên an ninh nói thời kỳ ở Nhật nó không làm cái gì cả.
“Thằng này”
là Lương Định Của.
Tuyên vừa dứt
lời thì máy bay Mỹ ập đến ném bom kèm theo tiếng phòng không bắn rung nhà và cửa
kính lên. Không kịp báo động. Tuyên leo lên đi văng Nghị và tôi đang ngồi ở
trên, co cẳng toan nhảy qua cửa sổ. Định nhoài vội ra giữ Tuyên lại: - Đây là tầng
hai, anh nhảy thì chết.
Đúng là
trong gang tấc!
Sáng ấy, một
“thằng” lên đài vinh quang, một anh suýt hạ thổ.
Nhà Lê Thanh
Nghị có một hầm bê tông cốt thép kiên cố, cửa hầm bằng thép. Nguyễn Lương Bằng ở
truớc cửa nhà Nghị không có hầm kiên cố bằng nên lúc báo động dữ vẫn sang tránh
nhờ hầm nhà Nghị. Một lần cả bà Trinh, vợ ông cũng sang. Tôi nói anh chị khiêm
tốn, giản dị quá thì chị cười: Tiêu chuẩn mà. Nhà tôi đi xe ca (sau gọi xe buýt)
thăm các cháu sơ tán đã bị anh Tố Hữu phê bình là vi phạm nguyên tắc, không giữ
gìn vấn đề bảo mật. Tôi không hiểu chị nói ra để chế giễu nhà thơ hay để tự phê
bình. Tôi nghe nhà văn N. K. (không phải Nguyễn Khải) tả cảnh sinh hoạt như
công chúa, hoàng tử của ba đứa con nhà thơ sơ tán về chỗ bí thư Hải Hưng Lê Quý
Quỳnh.
Hôm họp cuối
cùng, Ban chuẩn bị Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua đến Phủ thủ tướng duyệt diễn
văn tôi viết cho Lê Thanh Nghị. Đến câu “tuy chiến tranh ngày một ác liệt, đời
sống nhân dân vẫn được giữ vững”, trong sáu bảy vị khách mời đến dự góp ý có ba
vị cứ khăng khăng đòi sửa lại thành “đời sống vẫn không ngừng được cải thiện”
vì nói “đời sống được giữ vững” là “phản ánh không đúng hiện thực vĩ đại mà đảng
đã tạo nên ở trên đất nước ta.”
Ba vị đó là
H.C., tướng tuyên huấn quân đội, L.X.Đ., vụ trưởng tuyên truyền Ban tuyên huấn
và L.B.T., Việt Nam thông tấn xã. Các vị thi nhau phản đối “nhận xét thiếu chính xác này” Hăng ngỡ như
các vị có thể bác bỏ cả ý của nhau tuy giống nhau. Tôi xê ghế đứng lên. Định ngồi
cạnh hỏi đi đâu, tôi nói to: - Đái!
May sao phó
thủ tướng đánh giá đúng cái tài ra nước ngoài xin lương thực, vải vóc, xà
phòng, tetracyclin, bông băng cứu thương, thượng vàng hạ cám. v. v. của mình.
Chỉ nói dối ở mức ít nhất là nhận đời sống vẫn không ngừng được cải thiện.
Tối khai mạc,
Tố Hữu được cả Đại hội hò ầm ầm đòi ngâm thơ, Tố Hữu tủm tỉm ra trước micro. Cụ
Hồ đỏ au như ông Tiên, giơ tay đe trước: - Cấm ngâm thơ về Bác!
Cả hội trường
liền vang lên như sấm: - Ngâm “Sáng tháng năm.”
Nghe Bác
nghìn điều nhưng việc ngâm ngợi Bác thì kiên quyết không nghe Bác! May là ở
trong vấn đề dân chủ còn sót lại được cái điểm cơ bản này chứ nghe Bác hết thì
có lẽ gay. Thế là Tố Hữu theo đa số tuyệt đối thắng thiểu số tuyệt đối bèn ngọt
ngào “chút lòng con nhỏ lên thăm Bác Hồ.”
Lúc này, Bác
Hồ trong lòng Tố Hữu đã nhạt, so với Lê Duẩn. Nhưng muốn được các anh hùng chiến
sĩ thi đua yêu mến, ông vẫn cứ “Người là cha là Bác là anh”. Tôi không thể
không nhìn Cụ Hồ. Mặt đỏ au, Cụ nom có vẻ còn tiên cốt hơn nhiều. Sức mạnh thơ
ca thêm rượu thuốc làm nền cất cánh quả là lớn.
Sau đó Cụ Hồ
ra nói. Khen dân tộc, đất nước, mọi ngành mọi giới của ta đều anh hùng. Cuối
cùng khen chính phủ ta “anh hùng dứt” (nhất). Bao nhiêu chính phủ trên thế giới
theo nhau đổ nhưng chính phủ ta xưa thế nào thì nay vẫn y như thế.
Hội trường vỗ
tay như sấm. Sướng quá. Đứng trên đầu chúng nó!
Ngồi trên
gác ở chỗ nhà văn nhà báo, tôi nói to cho xung quanh nghe thấy: “Xét theo tiêu
chuẩn lâu bền thì ta mới anh hùng hạng ba! Còn thua chính phủ Tưởng Giới Thạch
bền từ 1927 và Franco từ 1936.” cố không nói AQ. Hình như sau này khai cung có
nói.
Tôi thật
tình phản cảm với việc nống nhau lên bằng cách tự vỗ ngực ta đây hơn hết. Câu
tôi nói - cùng với động cơ nói nó - đã vào biên bản khai cung ở Vụ bảo vệ Ban tổ
chức. Ý thức rõ là mình đã góp xây dựng cho họ một quan niệm đúng về khiêm tốn
cộng sản.
* * *
Trở lại chuyện
mơ hồ. Mơ hồ đến độ công an bám đuôi mà mãi mới biết, ngay sau tối đầu tiên đến
chơi nhà Phạm Viết, tháng 11 năm 1964.
Sáng đó, dắt
xe ra hè đi làm, vướng chõng nước chè vợ Lê Thọ, chánh văn phòng báo Nhân Dân,
tôi phải vòng ra đầu chiếc ghế băng dọc lề đường. Sợ đụng ai, tôi nhìn xuống để
tránh thì thấy một người chạc tuổi tôi mặc áo đông xuân cổ lọ mầu tím than, ngoài
là một vỏ áo bông cùng mầu ngồi đó. Anh ta ngước nhìn tôi. Cái nhìn truợt hơi
dài trên mặt tôi. Xe đến quá nửa Hàng Thiếc, đường đông chật, tôi chợt cảm thấy
nằng nặng ở sau gáy. Khẽ liếc ngoái lại: anh bạn cổ lọ đông xuân! Tôi dừng lại,
dắt xe lên một quầy hàng bày đúng ba ngọn đèn dầu hỏa làm bằng nguyên liệu quý
hiếm lúc đó: hộp sữa bò. Nhìn vào cửa kính thấy anh ta rẽ về Hàng Nón bên trái.
Tôi đổi hè, dắt xe đi ra đầu phố, ở đầu Hàng Mành, anh bạn đang đứng trước một
bà bán khoai sắn luộc, cạnh mấy em bé gái đi học. Tôi lẳng lặng đến đằng sau
anh ta, khẽ đập vai hỏi: - Sao xe không biển số?
- À, à..., - anh ta giật mình, xe mới mua.
- Mới mà đã róc hết sơn à?
Tôi vừa dứt
lời, anh ta liền quăng mình lên xe phóng. Tôi đuổi theo. Với cái vốn tiểu thuyết
trinh thám Anh, Mỹ, Pháp đọc có tới hàng trăm quyển làm lực đẩy bổ sung. Ra tới
Nhà thờ Đức Bà, anh ta rẽ sang báo Nhân Dân rồi đổ dốc Bảo Khánh ra bờ hồ quặt
sang Hàng Hành, băng qua Hàng Gai lao lên Lương Ngọc Can đạp thẳng lên Hàng Cá
và quẹo gấp vào bên phải, băng qua Hàng Đường sang bên Ngõ Gạch. Tôi cáu kỉnh dừng
lại. Một đoàn tàu điện đi tới. Về cơ quan, tôi báo Nguyễn Thành Lê là công an vừa
theo tôi và thế là phạm pháp, tôi sẽ kiện, đề nghị Thành Lê ký tên đóng dấu vào
đơn chứng nhận tôi là người của báo. Thành Lê nói là kẻ xấu thôi. Tôi cứ đơn. Gửi
Sở công an. Vẽ hai lộ trình bị theo và đuổi lại. Lập trường rõ ràng, lộ trinh
theo bám tôi mầu xanh còn lộ trình tôi đuổi mầu đỏ.
Một lần
khác, vào khoảng đầu 1967, đến Phạm Viết, tôi thấy mấy anh Kỳ Vân, Lưu Động,
Hoàng Thế Dũng, Trần Châu đang cười cười hơi lạ nhìn qua cánh chớp cửa sổ trông
ra đường. Bảo công an chờ suốt hai tiếng đồng hồ ngoài kia, nay chả lẽ cả lũ
kéo nhau ra sao? Tôi mở cửa đi ra. Thấy một chị đứng dắt xe dưới gốc cây trước
cửa nhà Phạm Viết, túi quàng ghi đông như kiểu cán bộ. Tôi đến nói: - Chị ạ, họ
sắp giải tán rồi, chờ làm gì nữa.
Làm ra vẻ
khinh khỉnh trước lời lẻ của đứa vô văn hóa ghẹo phụ nữ (xấu), chị ta lên xe
đi.
Một lần thì
tôi hơi chợn. Đó là sau khi Trần Châu đã bị bắt vài ba tháng. Tối đó, tôi đến
thăm vợ con anh. Khi nghe tiếng tôi nói chuyện với Gia Lộc ở tầng trệt, con
trai út Châu reo: Mẹ ơi, bố! Thấy tôi, cháu xấu hổ vì đã mừng hụt. Tôi cảm thấy
như mình có lỗi với cháu.
Không hiểu
sao lúc về, độ chín giờ tối, tôi lại đi lối Trần Xuân Soạn - Trần Nhân Tông. Vắng,
tối và mưa lâm thâm rét.
Bóng cây cao
trùm đen xầm lên mặt đường lấp loáng ướt. Quá ngã tư Trần Xuân Soạn - Ngô Thời
Nhiệm, tôi bỗng thấy lùi lũi một bóng người đạp ở sau chừng năm chục mét. Đến
ngã tư đầu Chợ Hôm - Phố Huế, đụng một đống rác to tướng, tôi vờ dừng lại lấy
thuốc lá ra hút, Người theo sau cũng dừng, cũng lấy thuốc hút. Vào nhà Mai Ngữ ở
Lê Văn Hưu, tôi thoáng nghĩ nhưng lại vào Nguyễn Du ra đầu Trần Bình Trọng quẹo
sang cổng sau Nhà hát Nhân Dân, nơi Nguyễn Đức Thuận đang ở nhờ tại Nhà triển
lãm tổng công đoàn. Tôi dắt xe đến bên cổng giơ tay như để bấm chuông. Mắt ngó
sang đối diện. Người theo tôi đang đứng trước chùa Ngọc Liên, gần nhà Hoàng
Xuân Tùy. Tính sao lại lọt vào trúng trung khu thần kinh công an. Thế là nhún
vai lên xe về thẳng.
Song lần rợn
nhất - bắt đầu thấy mình bi quây kín ở trong một mạng lưới bí hiểm - lại là lần
từ Hà Nội lên Ca Sơn, Chợ Đồn, Phú Bình, Thái Nguyên. Nửa đêm hôm qua, Địch
Dũng và tôi đạp xe về Chợ Dầu. Vào nhà Dũng vừa đôi hồi, đã thấy vợ anh là thư
ký ủy ban xã ra đón khách: đội trưởng dân quân và trưởng công an xã đến xem giấy
tờ tôi. Tôi cho là thủ tục an ninh thời chiến. Năm giờ sáng sau, tôi lên đường.
Và suốt mấy chục cây số trong mưa sầm sập, duy nhất tôi và chiếc xe giữa đồng đất
bốn bề ngằn ngặt nước vắng tanh thế nhưng đến nhà, vừa thay xong quần áo chui
vào chăn thì bộ tam đã đến xem giấy. Tôi vẫn cho là luật thời chiến.
Tôi về Hà Nội.
Nguyễn Địch Dũng gọi tôi ra một góc cơ quan khe khẽ bảo tôi: “Tao thương mày lắm,
tao báo mày biết, không nói với ai, chết tao. Công an nó theo mày về tận nhà
tao rồi vào bảo vợ tao dắt công an với xã đội vào khám giấy mày. Nói mày là phản
động, có âm mưu trốn vào đại sứ quán nước ngoài.” Nghe Dũng mới run. Thế ra sớm
sau lại theo đến Chợ Đồn Ca Sơn, Phú Bình! Mà sao không thấy?
Đúng là chỉ
có tôi và trời với nước. Hay là điện thoại bảo nhau.
Thẩm vấn, Lê
Công Tuấn hỏi tại sao tôi hay đuổi an ninh. Tôi nói: Tôi coi là bị xúc phạm. Một thời gian an ninh bố trí cả năm liền trên
ban công trụ sở của một bộ phận Bộ giao thông chiếu thẳng sang theo dõi xét lại
tại báo Nhân Dân. Bảo, kỹ sư giao thông học Bắc Kinh cùng tôi, làm việc ở đó
sau này bảo tôi.
Những năm
90, Thắng, một công an khu vực nhờ Quảng, cán bộ Bộ văn hóa cũng ở trong khu
văn công, cách nhà tôi chừng trăm mét nhắc tôi cẩn thận: ở trong nhà Hồ Sĩ Đản
ngay trước nhà tôi là trạm theo dõi tôi.
* * *
Quay lại
chuyện sáng đó đến cơ quan tìm Trần Châu. Tám giờ sáng cũng không thấy Châu tuy
anh mẫu mực về giờ giấc. Đi ra chỗ để xe thấy cái Junior lở ghẻ của anh bẹp lốp
nằm đó. Một lát sau tôi đến Phạm Viết. Chương, em Viết mở cửa ra khẽ nói: “Anh
Viết bị bắt rồi! Sớm hôm nay.”
Thế là cả
Châu rồi. Lúc tôi qua đò Đông Hội trời ửng sáng nhận ra Trà Giang rồi cùng trò
chuỵện mà bụng dạ thì cứ bồn chồn là lúc Châu bị bắt.
Chiều đến
Phan Kế An báo tin. An nói Alexiev, phóng viên thường trú báo Pravda Liên Xô
báo An là bốn nhà báo đã bị bắt. Hôm sau biết bốn người là Hoàng Minh Chính (bị
lầm là nhà báo), Hoàng Thế Dũng, Phạm Viết, Trần Châu.
Công an khám
nhà. Ngồi thấy cái phích nước nóng, vật đắt giá duy nhất - do tôi mua cho, cùng
tủ, quạt - có thể bị rơi, Châu nhổm dậy đỡ. Thì bị quát: “Ngồi im!” Mới hiểu là
đã mất tư cách chủ.
Châu bị bắt
hai ngày, tôi đến thăm vợ con anh. Gặp Gia Lộc, cùng nhà, tầng trệt. Lộc kể Lộc
leo lên gác ba xem thì họ đứng đầy cả cầu thang đuổi xuống. Lúc Châu bị giải
đi, Lộc chạy ra tận bên xe tiễn bạn. Tớ nhớ cả số cái xe chở nó. Nó mặc một chiếc
sơ mi ca rô xanh lá cây, khoác ba lô bẹp. Hai đứa chào nhau. Tôi nghe xong mệt
rũ, nằm xuống tấm cá ngựa một mảnh ván hẹp, đầu gối lên quyển Bách khoa toàn
thư Liên Xô ngủ thiếp. Tỉnh dậy gai gai lạnh và buồn. Gia Lộc đến bên chỉ vào
chồng đĩa nhạc cạnh đầu tôi nói: - Mày ngủ gối đầu bên cái gì biết không? Đĩa
“Số phận” của Beethoven.
Ba tháng
sau, số phận gõ cửa. Bắt Gia Lộc.
(CÒN TIẾP)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét