Chương ba bảy
16 năm sau Đại
hội 3, đảng họp Đại hội 4 (1976). Kết thúc thời kỳ vũ trang với cả nước quy phục
đảng và Liên Xô đàng hoàng vào Đông Nam Á, Trung Quốc vớ bẩm: với địch thì thấy
Đài Loan ở thường trực Bảo an Liên hợp quốc, với đồng chí thì thay thế chủ quyền
Việt Nam ở một phần lãnh thổ.
Máu Việt Nam
mới có sức dịch chuyển địa chính trị mạnh mẽ và quý giá làm sao!
Sau Thế chiến
2, tồn tại hai phe đã đẻ ra cục diện chiến tranh lạnh với ba lò lửa chiến tranh
là ba nước bị chia cắt (chưa kể lục địa Trung Quốc với Đài Loan mà một dạo Mao
vờ như khiền đến nơi). Cộng sản ở ba nơi này đều phụng thờ bạo lực vũ trang
nhưng chỉ hai nơi quyết chủ động tung quân đánh trước.
Cục diện đã
đi tới:
- Cộng sản Hà Nội thắng - sau hàng chục năm vũ
trang mang tên “chiến tranh cách mạng” hay “giải phóng” (hoa lá cành che đi
phương châm “chính quyền ra từ nòng súng”) với hàng trăm nghìn chiến binh vừa
cài lại vừa xâm nhập hoạt động ở trên đất địch và bom đạn hai bên bắn nhau là của
đế quốc và cộng sản cung cấp ê hề.
- Cộng sản Bình Nhưỡng cũng từng dùng nòng
súng nhưng thất bại để rồi bằng lòng hòa bình theo ý của “kẻ thù” tức Nam Hàn
dù hàng chục nghìn quân Mỹ đồn trú ở đó hàng chục năm và chỉ huy luôn cả quân
Nam Hàn. (Chú ý: Mỹ không chỉ huy quân đội Sài Gòn)
- Và cộng sản Đông Đức, với tư cách hàng binh,
tự nguyện ùa sang chiếm luôn “đất địch” Tây Đức đầy ắp Đê mác. Bằng nhân phẩm
cao, mức sống cao, Tây Đức tư bản sáp nhập trong nháy mắt Ðức Cộng và nước Đức
thống nhất bèn thành tảng nam châm hút bong mất Đông Âu.
Đâu phải chíến
tranh cách mạng với mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở ngay trước mắt như đảng vẫn sà
sã rao giảng là xu thế phát triển trội.
Và nên chú
ý: các nước Đức, Nhật, Nam Hàn... hiện đều có đầy quân Mỹ nhưng không ai gọi họ
“chó săn tay sai Mỹ” như gọi Sài Gòn hồi nào để tiêu diệt. (Cũng cần chú ý nữa:
nói cách mạng Tân Trào cũng từng có binh lính Mỹ - và chỗ giao du hơi có chất
“chuông nguyện hồn ai” này chắc Hồ Chí Minh đã phải giải thích chật vật với
Mao, Xịt-ta-lin)
1972, Mỹ “cút”
nhưng ngụy “chưa nhào” nên 1975, Hà Nội phải nổ súng tiêu diệt chúng để cuối
cùng thắng Mỹ vẹn toàn bằng màn thắng… Mỹ vắng mặt. Màn này rất quan trọng. Này
nhá, quyết tâm diệt Mỹ của Ðảng cao chưa? Và như thế là Ðảng không hề nội chiến,
vâng, “người Việt Nam không ai thắng ai” mà, Ðảng đã nói. Cho bọn “chó săn tay
sai” đi cải tạo cũng là mượn hình hài chúng để cải tạo linh hồn Mỹ vắng mặt
thôi!
Thắng lợi cuối
cùng đã để lộ ra hai bản ngã của dân tộc Việt! Một được Ðảng dạy cho nên biết
yêu nước đúng bài đúng vở Quốc tế vô sản rồi thành anh hùng đánh đâu thắng đó,
một do thiển cận quốc gia nên phải làm “chó săn bán nước tay sai” rồi thua hèn
thua hạ. Chung quy tại Mẹ Việt Nam có
hai buồng trứng - dị dạng hơn Mẹ Âu Cơ chỉ có một - cho ra đời cả chiến sĩ Việt
Cộng lẫn “ngụy quân bán nước phản động”.
Có lẽ đã đến
lúc thống kê xem có bao nhiêu mẹ Việt Nam mang song thai quốc gia và cộng sản tương
tàn tương diệt và bao nhiêu mẹ đơn thai đẻ ra thuần “anh hùng” hay thuần “ngụy”
giết hại nhau. Đến hơn 50% không? Nếu thống kê xin chớ bỏ sót mẹ tôi! Cả bà mẹ
đẻ ra tổng đốc Phan Đình Hòe và chánh tổng “bạt nhĩ bẹp tai” Quế - Nguyễn Tuân
rỉ tai tôi, khoái trá vì cũng từng đều dân pum - là bố của Lê Đức Thọ.
Xưa ông bác
tổng đốc đã chạy chọt phần nào cho anh em Sáu Thọ ra tù đế quốc Pháp thì sau
này Thọ giúp lại cho con cháu ông ung dung bỏ Sài Gòn đã vào tay cộng sản để ra
ngoài định cư sớm sủa, tiếp nối huyết thống song thai. Và bà mẹ của Võ Nguyên
Giáp. Em gái ruột Giáp lấy trung tướng “ngụy” Nguyễn Ngọc Lễ, ngày 30-4-1975 bỏ Sài Gòn chạy sang Mỹ đã nghĩ gì về ông anh cộng sản đang thần tốc tung
quân truy sát lính quốc gia… Ôi, ai làm cho những đứa con của các mẹ Việt Nam
chĩa súng giết nhau?
Non sông gấm
vóc Ðảng thu về một mối cho mình - hay mở rộng trận địa xã hội chủ nghĩa cho cả
phe, rồi Ðảng trịnh trọng tuyên bố “người Việt Nam không ai thắng ai”.
Song nói ù xọe
thế để “yên dân” đấy! Vì theo đúng nguyên lý trí tuệ đầu sổ của Ðảng thì cứ phải
duy trì bằng được ranh giới địch-ta! Cho nên xóa được giới tuyến phân chia địa
lý Bến Hải, bèn vội vã thay cho nó bằng một giới tuyến phân chia sinh học dễ
xúc động lòng người - ấy là suy tôn Bà mẹ anh hùng, vạc ra ở trên mặt Mẹ Việt
Nam một mảng vẻ vang - và dĩ nhiên một mảng nhục nhã hay những đứa mẹ đẻ ra các
ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ lùng giết con các Bà mẹ anh hùng! Rồi nói đại:
“Không có ai thắng ai, chỉ có nhân dân Việt Nam thắng Mỹ.” Thế sao không gọi
ráo tất cả Mẹ anh hùng?
Năm 1998 tôi
đã nói với nhà báo Mỹ Kevin Whitelaw ở tờ US News and World report rằng để dân
thường xuyên nhớ đến sự nghiệp đánh Mỹ do Ðảng khởi xướng, Ðảng đã vạc nên một
vết thương ác độc trên mặt Mẹ Việt Nam. Đúng ra là mánh chia để trị quen thuộc của cộng sản.
Trong dân
thì công nhân tiên tiến nhất, nông dân trung gian, trí thức lạc hậu (nên không
bằng cục cứt). Trong nông dân thì bần cố nông tích cực, trung nông dao động và
phú nông thiên về phản động. Ngay đảng viên cũng còn chia đảng viên ưu tú,
trung gian và lạc hậu!
Có lẽ nơi
duy nhất không chia tiên tiến với trung gian, lạc hậu là Trung ương đảng. Tuy bụng
cũng ngầm phân loại xếp hạng cho nhau cả.
Theo Tổng tập
luận văn của Võ Nguyên Giáp, sau Điện Biên Phủ, về An toàn khu, Giáp đến chào Hồ
Chủ tịch. Chủ tịch ôm Giáp nói: “Chúc chú thắng trận trở về, nhưng chúng ta còn
phải đánh Mỹ.” (tôi nhấn).
Tôi đọc và
hơi buồn. Tôi đã ngỡ Bác nói: Chúng ta sẽ phải đối đầu với Mỹ nhưng hãy gắng thống
nhất hòa bình, dân ta chín năm chiến tranh đau khổ quá đi rồi!
Thế là vừa từ
nô lệ bước ra dân ta đã bị Ðảng nhét thanh gươm Giải phóng vào tay. Giải phóng
dân tộc đồng thời giải phóng giai cấp và loài người, làm một cuộc tiến quân thường
trực và trường kỳ. Đi đời sức dân ơi hỡi sức dân!
Muốn gì tôi
vẫn muốn nêu câu hỏi mở đầu: liệu Việt Nam có thể tự trị năm năm ở trong Liên
hiệp Pháp rồi tiến tới độc lập không? Nên biết Pháp giải chế độ thuộc địa chính
là trong thời tổng thống de Gaulle chứ đâu phải như CB tức Hồ Chí Minh viết
trên báo: đế quốc đánh chết vẫn không chừa cái nết chiếm hữu thuộc địa. Thôi,
nói xa chả bằng nói gần: sao không học Bắc Kinh nán chờ để thu hồi hòa bình Hồng
Kông, Macao và cả Đài Loan? Hay sao không như Nam Hàn nhìn các đồng bào suy
nghĩ khác mình, yêu nước khác mình là anh em cốt nhục để cùng bàn bạc và cưu
mang cứu đói chứ không là kẻ thù phải diệt? Hay, ừ nhỉ, sao không nghĩ được như
Đặng Tiểu Bình: một quốc gia hai chế độ? (Kinh tế thị trường với định hướng xã
hội chủ nghĩa chính là con đẻ không che giấu nổi của tư tưởng Tito đời mới này.
Thập niên 40, 50 thế kỷ trước chửi nó dữ lắm!)
Kỷ niệm trăm
năm ngày sinh Lê Duẩn, 10-7-2006, (nhưng sau báo chí lại công bố là ngày 7-4-2007. Mới một tí đã hai dị bản). Lê Đức Anh có bài ca ngợi Lê Duẩn giỏi chọn
thời cơ hạ thủ miền Nam cộng hòa. Theo Anh, Duẩn cho rằng để Sài Gòn thực hiện
Việt Nam hóa thì “nó sẽ mạnh lên và ta khó đánh đổ”.
A, đâu phải
vì Sài Gòn phá hoại hiệp định Paris! Mà là vì đừng hòng ông cho chế độ chúng
mày ưu việt.
Một trí thức bảo tôi: Đầy một kho các lưỡi Ê-dốp,
các ông rất giỏi dựng kẻ thù để căm thù và tiêu diệt. Nghe nói cứ thấy cứt Sài
Gòn là chó Hà Nội nổi đóa liền! Còn khi được một tủ lạnh đã mất động cơ để làm chạn thì người Bắc vui. Rồi tự hào “giỏi kết hợp thô sơ với hiện đại!”
* * *
Trong Báo
cáo chính trị Đại hội 4, Lê Duẩn đánh giá thắng lợi như sau: đã đập tan cuộc phản
công lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng, (tức
chủ yếu Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô) đã đẩy lùi trận địa đế quốc, mở rộng
trận địa xã hội chủ nghĩa (xin chú ý: then chốt ở đây. Một cách nói nữa là đẩy
lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận chủ nghĩa đế quốc), phá vỡ một phòng tuyến
quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á (phòng tuyến SEATO này sau đổi ra là
ASEAN), làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đẩy Mỹ vào
tình thế khó khăn chưa từng thấy.
Về miền Bắc,
ông nói: “Thành tựu to lớn nhất là đã thủ tiêu chế độ người bóc lột người (...)
Các giai cấp bóc lột đã bị xoá bỏ..., người với người sống có tình có nghĩa,
đoàn kết, thương yêu nhau cùng với “vô sản chuyên chính được củng cố” (...) “hệ
tư tưởng và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa được đặt trên những nền móng vững chắc...”
(Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ 4, NXB Sự Thật, 1977)
Lê Duẩn cũng
thông báo thời kỳ hậu Việt Nam là thời kỳ chủ nghĩa xã hội xuất hiện thành mục
tiêu đấu tranh trực tiếp (tôi nhấn) của tất cả các nước trên thế giới. Ngụ ý:
công ông mở giai đoạn cho cách mạng to chưa?
Nhưng hiện
thực Việt Nam luôn bố láo như cố hĩ! Nó ngược lại Duẩn hoàn toàn! Phe xã hội chủ
nghĩa tan, không còn ai cho súng, cho tiền, cho khoa học quân sự và cho tin
tình báo ở phạm vi thế giới để làm “tiền đồn” đùng đoàng nữa, sức mạnh binh khí
của Việt Nam suy yếu hẳn. Việt Nam cô lập kín mít, không mở ra nổi chuyện gì,
trừ sáu tỉnh biên giới bị quân anh em chí cốt tràn vào dạy bài “thủy chung”.
Đặc biệt
đáng chú ý: Đại hội 4 là Đại hội thắng Mỹ nhưng Trung Cộng không gửi đại biểu đến
dự. Thế đấy, ông anh cú! Đã hứa với Mỹ không cho domino ở vùng này thì chú em cứ
domino! Ngày nào nó theo mình đánh Liên Xô ra trò thì nay nó trở cờ, cam làm
“Cuba ở phương Đông” mở cửa cho Liên Xô vào Đông Nam Á bao vây mình.
Và nhân đang
thời trăng mật với Mỹ, Bắc Kinh đánh luôn Việt Cộng để thanh minh mình không
xúi Việt Cộng xé hiệp định Paris chiếm Sài Gòn.
Mãi tôi mới thấy trong canh bạc với Mỹ, người ta toàn xì tố bằng máu Việt.
(Nhắc lại: máu Việt Nam có sức dịch chuyển quý giá). Báo Time đăng ảnh các hộp
đèn quảng cáo Coca Cola, Big Mac… lần đầu tiên hiện ra rực đỏ ở dọc Bund Thượng
Hải, Thành Đô, Khai Phong… cuối những năm 70 với dòng chú thích “Đông phương lại
hồng”. Tôi xem thấy ở mỗi hộp đèn đỏ hình như còn có thon thót ánh máu Việt.
* * *
Sau đại hội
4, tôi đến Nguyễn Thành Long. Anh nói Chế Lan Viên dự đại hội về hơi buồn.
Không vào Trung ương mặc dù Tố Hữu hết sức đùn vào. Đồn là vì có đại biểu Bình
Định đến đại hội nhận ra Chế Lan Viên xưa đi ủng Nhật, thắt khăn mặt trắng to
quanh cổ hô ủng hộ Đại Việt thân Nhật. (Xin nói thêm cho công bằng: nếu có thế
thì Chế cũng đâu bằng Phạm Ngọc Thạch được Nhật cấp hàng nghìn cây súng cho
Thanh niên Tiền Phong?)…
Long nói Chế
Lan Viên bảo đại hội có chất vấn Trung ương vụ xét lại, yêu cầu tổng kết vụ
án... Rồi lắc lư mái tóc rậm đẹp, khẽ thêm: - Có vẻ Chế muốn qua tôi đánh động
với ông hình như sắp có cái gì với ông. Tôi không để ý mấy.
Thì đùng một
cái, chi bộ họp bất thường. Biểu quyết khai trừ tôi. Màn kịch để nói kỷ luật là
theo đúng nguyên tắc chi bộ.
Nửa tháng
sau, Trọng, vụ trưởng Ban kiểm tra trung ương và Trần Trung Tá, vụ phó bảo vệ đến
triệu tập tôi họp. Bí thư đảng ủy và Hữu Thọ, trưởng ban kiêm bí thư chi bộ ban
nông nghiệp cùng dự. Hữu Thọ ngồi đúng trước mặt tôi.
Trọng đọc
nghị quyết khai trừ. Số 271 hay 171, 73 gì đó, (chả thiết lục sổ tay ra xem lại).
Ngô Thuyền, phó trưởng ban kiểm tra ký (Thuyền có con gái tên là Bè cùng học ở
Trung Quốc với tôi, bé nhỏ, ngoan).
Nghị quyết
viết: Tội danh bao trùm: Trong tổ chức
xét lại, chống đảng, lật đổ, gián điệp, tay sai nước ngoài. Ở dưới nói rõ: Thuộc
nhóm Vũ Đình Huỳnh, Minh Việt. Và ba tội trạng cụ thể: 1. Phủ nhận mọi đường lối, chính sách của Ðảng,
nhất là đường lối kháng chiến chống Mỹ; 2. Lăng mạ lãnh tụ giai cấp, lãnh tụ
dân tộc Hồ Chủ tịch; 3. Chuẩn bị viết tiểu thuyết chống Ðảng.
Tổng kết hỏi
cung tôi, Ban tổ chức trung ương không hề kết luận tôi ở trong “tổ chức chống đảng,
lật đổ”, vậy là theo điều lệ Ðảng tôi có quyền khiếu kiện. Nhưng tôi cho qua. Chỉ thanh minh: - Nói tôi lăng mạ Hồ Chủ tịch
là không đúng... Tôi nói những điều không phải về Bác cũng như đứa con có khi bực
mình nói bố.
Tá cười rất
thú vị (như đã chuẩn bị sẵn bước này): “Đây, có bằng chứng, để tôi lấy”.
Miệng nói
tay mở cặp da. Tôi vội nói: “Thôi, thôi, tôi đồng ý”. Tôi chợn. Đã có bài học của Lưu Cộng Hòa ở
Ban nghiên cứu lịch sử Ðảng: anh bị phó ban vốn là bí thư tỉnh Kiến An phang
cho cả một cái gạt tàn pha lê nửa ký vào mặt. May có cặp kính lão che. Hữu Thọ
có thể tái diễn trò “A, thằng phản động dám lăng mạ Bác chúng tao” mà tặng cái
gạt tàn thuốc nửa ký pha lê Tiệp kia vào đầu tôi lắm. Tôi bèn đưa hai tay ôm
thóp, vẻ suy nghĩ. Tiệp Khắc hồi ấy tặng ta toàn đồ pha lê để “khôi phục kinh tế”
sau 1954. Cơ quan nào cũng đầy gạt tàn pha lê tuy đều chủ yếu hút điếu cầy.
Trọng hỏi:
-
Anh Trần Đĩnh có ý kiến gì không?
- Không, việc của Ðảng mà.
Tôi ngạc
nhiên nghe cái giọng tôi dửng dưng. Còn tiễn Trọng và Tá ra tận gốc đa cơ quan
như chủ nhân vậy. Bỗng nhẹ tênh. Hê luôn cả cái quyền pháp lý tối thiểu của đảng
viên ghi trong điều lệ: đảng viên bị kỷ luật khai trừ được dự các cuộc họp kiểm
điểm và đề xuất kỷ luật với đảng viên. Tự nhiên đọc thầm thơ Thế Lữ thích từ
ngày thiếu niên: “Đã quyết không mong xum họp nữa, Bận lòng chi lắm phút chia
phôi...”
Đã có lúc
tôi khá xấu hổ vì bị khai trừ. Nhưng rồi lành lặn khá nhanh. Nhờ cái gì? Nhờ -
xin hiểu cho là tôi không bịa đặt ở đây - nhờ tôi nhớ lại câu nói của ông tham
tán thương mại Ba Lan tháng 6 tháng 7 gì đó bị sốt xuất huyết nằm chung phòng ở
Khoa lây Việt Xô với tôi năm 1970 (danh thiếp ông đưa đã mất): “Giá nước chúng
mày ra ở tít giữa Thái Bình Dương rồi mọi người xúm lại cung cấp mọi thứ cho
chúng mày sống riêng với nhau thì thế giới đỡ mệt. Chúng mày phá quấy quá!”.
Cũng một kiểu khai trừ! Ra khỏi nhân loại.
So với xấu hổ
của Ðảng trước toàn thế giới thì xấu hổ của tôi ở cơ quan chỉ bằng con muỗi mắt?
* * *
Fin de
partie - tên một vở kịch của Samuel Beckett: Hết ván, rời sòng.
1947, ở thôn
Mè, Ninh Giang, nơi mẹ tôi và anh em tôi tản cư tới, tôi đã được bí thư Mậm nhắm
kết nạp. Đã một sáng lên huyện ủy làm cái việc mà nay có lẽ gọi là “phỏng vấn”.
Tuổi mười bảy, lại thêm tung tích ông bố mịt mùng, nên chỉ chuyện trò vụn vài
câu. Không vinh quy trở về, tôi lên cơn sốt rét, run cầm cập đi giữa thảm gấm
vàng: đê bối bời bời hàng cây số toàn tơ hồng chín tới. Tôi và Mậm rất thân
nhau. Tôi thường ở nhà anh, thường gặp cô cháu ruột của anh, T., con gái đầu
lòng ông chủ tịch xã Hồng Lạc, rất mỏng mày hay hạt, thuộc loại dễ thành Ỷ Lan.
Tình cảm lúc đó với Ðảng gắn cùng mối thiện cảm với cô gái hay liếc trộm tôi rồi
đỏ mặt. Lúc ấy tôi đã kén được một đối tượng điển hình để tập dượt đấu tranh ý
hệ: sư cụ Chùa Mè. Bốn chục tuổi, trắng hồng, môi đỏ, giỏi võ - huấn luyện cho
dân quân du kích xã. Phải cái tội mù.
Cụ dạy tôi
đánh đàn nguyệt - nhà tôi trú ở chùa - và trả ơn thì tôi lên lớp phê phán tôn
giáo, nhất là đạo Phật, thuốc phiện đầu độc người lao động. Chủ nghĩa cộng sản
hay nhất! Giải phóng dân tộc, giải phóng thế giới, giải phóng con người. Sư cụ
chỉ cười, răng rất bóng (cụ có một thanh tre hình bơi chèo, đầu to đập rập suốt
ngày lia cọ răng) nhưng một bà vãi cãi lại, làm tôi rất khó chịu. Chồng đi lính
sang Pháp đóng tới bếp, bà quá mê sư cụ. Nhoáng cái bà đã vào buồng sư cụ.
Mười ba năm
sau, ở Bắc Kinh về, tôi trở lại Mè. Cảnh xưa mà người khác quá. Cải cách ruộng
đất, Mậm bị quy là Quốc Dân Ðảng, bị tù. Sửa sai về nhà ít lâu chết. Vợ anh bảo:
“Phẫn quá mà vỡ tim, vỡ toang như quả bóng ấy, chú ạ. Hai anh em chủ tịch với
bí thư cùng bị gông cổ điệu đi”. Cô cháu gái lấy người chồng thứ hai nghe đâu bị
nó đổ tim la cho rồi chết. Sư cụ Chùa Mè bỏ đi đâu không biết. Dắt cụ đi là người
đàn bà cười cứ ròn khanh khách mỗi khi vào buồng cụ ngày nào. Tôi thầm nghĩ nếu
lúc ấy đứng tuổi có thể tôi cũng bị đổ vì đôi mắt lênh láng ướt sau hai hàng mi
dài mựợt làm xây xẩm cả người đàn ông trước mặt. Nhưng sư cụ không biết đôi mắt
ấy và bà cũng chẳng cần người tình mù biết mình ra sao. Tình yêu này vô tư nhất.
Nhìn địa
hình rêu mặt sàn gạch và mốc ở thân cây cau mẹ tôi vẫn thường vịn vẫn như xưa,
tôi muốn khóc. Ôi, con người, sinh vật mong manh nhất! Sư cụ có lúc nào nghĩ đến
tôi, kẻ nhiếc đạo? Ở bắc Kinh đọc Nietzsche, tôi mới biết ý hệ là ma túy, và
chúa gây lạc là ý hệ cộng sản..
* * *
Nửa năm sau
người ta khuyên Phan Kế An xin ra đảng, chớ để bị đuổi như Trần Đĩnh! An cho biết
khi chi bộ khai trừ An, Nguyễn Đình Thi nói: - Bọn xét lại là con dao đâm vào
lưng Ðảng khi đang chống Mỹ. Thi biết chúng tôi phản đối chiến tranh, thứ hội lễ
lớn Ðảng mở ra cho dân tộc.
Vài tháng
trước một sáng Thi tặng tôi quyển Mặt trận trên cao - ghi: “Tặng Trần Đĩnh, những
ngày hè nóng bỏng” rồi lầm rầm: - Khổ Hoàng Minh Chính, giờ thì thăm thẳm. Ít lâu sau Tô Hoài cũng bảo tôi: “Bọn Chính
thăm thẳm nhỉ!” Họp khai trừ An, Tô Hoài ngồi im.
… Hai nét về
chuyện khai trừ Ung Văn Khiêm, Lê Liêm. Đọc nghị quyết khai trừ Khiêm xong, Lê
Văn Lương dặn: anh cải tạo tốt thì lại trở lại với Ðảng.
- Cha này, - Khiêm nói, lúc mới ở Hà Nội vào,
mình bí thư Xứ ủy phân công cha ra Ba Son vô sản hóa. Đã thổ cải theo Mao tan
nát rồi lại bảo mình gắng Mao hóa tư tưởng lập trường!
Còn Lê Liêm?
Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Trần Quốc Hoàn dự cuộc khai trừ anh. Lúc anh về,
Hoàn đi theo nói: - Từ nay làm việc cho tớ nhá. Chúng nó có gì thì báo tớ...
“Mình nhìn hắn rất lâu, - anh nói, rồi lắc đầu: Không! Tởm quá. Mà họ đâu có
cho mình dự cuộc họp họ ra kỷ luật khai trừ mình, vi phạm luôn Ðiều lệ”.
Đảng tạo ra
hẳn một xã hội mới toanh cho loài người bất cần loài người có bằng lòng hay
không thì há còn phải theo pháp luật, điều lệ nào nữa chứ?
* * *
Một đoạn nhỏ của Nghị quyết trung ương 21 khóa
3 về vụ án xét lại tôi còn nhớ: Bè lũ xét lại hiện đại tìm cách tuyên truyền
xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin. Một số phần tử trong nước ta đã sao chép các
luận điểm của chúng, sử dụng các khái niệm xét lại để tuyên truyền chống lại
các chính sách của Ðảng ta... Cần ghi nhận rằng bè lũ này đã tập hợp các cá
nhân bất mãn, ghen tị và đồi trụy bên trong Ðảng lập ra một “tổ chức chính trị
phản động làm tay sai cho nước ngoài”. Đúng là một kho tổ bố toàn lưỡi Ê-dốp!
Tổ chức tay
sai cho nước ngòai. Nước ngoài nào? Mỹ? Pháp? Anh? Nhật?... Thế nào cũng phải đổ
cho là tay sai nước ngòai nhưng rêu rao tên cụ thể nào lên lại sợ. Kroutchev ngại
chiến tranh với Mỹ nhưng rồi bị lật. Ngửi thấy mùi khói lửa Trung Quốc sắp cho
tràn ngập Việt Nam hết sức thơm ngon, thế là từ 1965 Brejnev đã mau lẹ nhảy
ngay vào và cuối cùng còn viện trợ nhiều hơn cả Trung Quốc. Nhưng chúng tôi?
Chúng tôi không bao giờ thấy máu lửa ngập đất nước là thơm là ngon! Lại xem nữa:
ký hiệp ước tương trợ hữu nghị với Việt Cộng, Liên Xô có móc đứa nào trong “đám
tay sai” của nó ra không?
Có lẽ trong
những người phản đối cộng sản, có một số rất ghét xét lại chúng tôi vì là “tay
sai Liên Xô”. Họ nghe Ðảng nên không hiểu là do kiên trì phản đối nội chiến,
chúng tôi đã bị khép tội chống Ðảng, phản động trong bóng tối bí mật bao la của
Ðảng. Câu nói khá công khai của Trần Châu, anh tôi: “Chiến tranh đau khổ thì
dân nổi dậy lật đổ” đã là một trong mấy bằng chứng quan trọng để Việt Cộng lập
vụ án chống Ðảng lật đổ lẫy lừng trong đảng sử. Lúc đó với chúng tôi, đào đâu
ra Human Right Watch, ra Internet, ra Hạ viện Mỹ thông qua nghị quyết đòi Việt
Nam tôn trọng nhân quyền, đào đâu ra các thứ blogs ngày ngày đòi thả chúng tôi
v.v.?
Xin biết cho
rằng chúng tôi đã bị bịt mồm hoàn toàn. Giá giống như Nhân Văn-Giai phẩm,
chúng tôi được kiểm thảo công khai ở Thái Hà Ấp? Được thưa chuyện với dân rằng
chúng ta không nên chém giết lẫn nhau. Rằng thống nhất đất nước có thể trì hoãn
được. Và có thể thống nhất hòa bình v.v… Giá như chúng tôi được ra tòa như Cha
Nguyễn Văn Lý.
Thì anh Nam,
phóng viên thông tấn nước ngoài sẽ chớp được cảnh bịt mồm ít nhất ba người. Kiểu
này Hồng vệ binh gọi là văn đấu kết hợp vũ đấu. Lúc ấy đào đâu ra tòa án dù là
giả dối? Lúc ấy chúng tôi là đồ chó ghẻ lạc lõng trong biển “nhân dân hăng say
đánh Mỹ”, người người xua đuổi!
Trần Dần có
lần bảo tôi - trên mảnh sân bằng cái chiếu trên tầng ba ở nhà Lê Đạt, Dần đến cố
vấn cho việc nuôi hai đõ ong Dần mới san cho Đạt: - Bọn Nhân văn chúng tao đòi
tự do sáng tác, ừ, đòi tự do tư tưởng, tự do ngôn luận…, bọn “Xét lại” chúng
mày lại đòi giữ mạng sống cho bất cứ người Việt nào, dù nó có là phản động chống
Cộng ở Sài Gòn đi chăng nữa.
Không phải
ngẫu nhiên mà đêm đầu tiên hết bom B52, tại quảng trường 1-5 vắng lặng, Trần
Dần bảo tôi: - Trần Đĩnh à, ra cái con lừa này nó cũng không ưa nặng mày nhỉ? Và Văn Cao: - Hòa bình, tao làm Mùa xuân đầu
tiên là tao vùi chôn đi cái thứ quân hành tanh tưởi máu Ðảng bắt dân ta theo…
Bài ấy chính là tao nức nở nghẹn ngào, đúng, đến độ thành ra êm đềm như ánh
sáng ban mai vừa mới ló, cuộc sống run rẩy mới lên mầm. Mày ơi, mấy chục năm
máu xương liên miên liệu “người đã biết yêu người” như tao hy vọng chưa hả?
Nhưng ít người
hiểu được “bè lũ xét lại” như đám nạn nhân chính trị này. Mà thường lại tin vào luận điệu của Ðảng, sẵn
sàng coi bọn tôi “tay sai của Liên Xô” tức là cũng một mớ “uýnh chác khát máu”
thế cả thôi. Kia, Kiến Giang nom như cha cố mà là đầu mối gián điệp cắm ở Hải
Phòng để đón tàu ngầm Liên Xô vào đưa bọn xét lại đi đấy. Hay Minh Việt vào đại
sứ quán Liên Xô ở Hà Nội ăn tiệc với thủ tướng xét lại Kossiguin mách cách phá
Ðảng. Lúc ấy, trừ Lê Trọng Nghĩa, chúng tôi nào biết có Cục tình báo Hoa Nam đỡ
đần nên chưa ngờ có lẽ nó đã mớm cho tình báo Hà Nội biết bao tin “đặc biệt”.
Nhưng rồi
chúng tôi đều phản cung, cơ sở pháp lý cho Nguyễn Trung Thành lật án. Riêng
Phan Thế Vấn, bác sĩ nha khoa thì lại bị buộc phải phản cung! Chuyện này đủ nói
lên tính hề hài cùa tội danh “tay sai nước ngoài”.
Năm 1968,
đòi gửi thư cho Lê Duẩn khiếu nại việc anh vô cớ bị bắt, Vấn đã được đưa về Hỏa
Lò gặp Hồ Chúc, cục trưởng Cục chấp pháp. Chúc bảo anh ngồi viết đơn. Theo như
thường lệ, viết tên tuổi xong, Vấn đề tiếp: “Gián điệp của Liên Xô” thì Chúc gắt:
“Sao lại gián điệp? Xóa đi.” Vấn nói: “Ô kìa, mấy năm qua toàn bắt chúng tôi phải
nhận cái tội này không thì cột cho là ngoan cố mà lại!” Xóa tội “gián điệp tay
sai Liên Xô” xong, Vấn viết đơn cho Lê Duẩn.
Lần này Hồ
Chúc vặn: - Không là đảng viên sao anh viết thư cho tổng bí thư? Rồi anh là quần
chúng sao lại viết là hồi học tập Nghị quyết 9? Vụ trưởng chấp pháp tóm dân mà không hiểu tất cả ai ở trong cơ quan, tổ
chức đều phải học cái nghị quyết lừng danh đánh Liên Xô thờ Trung Quốc.
Đảng đổi hướng
như con thò lò. Cần Trung cộng, Ðảng cộp chúng tôi vào cái rổ “tay sai Liên Xô”
nộp làm thế chấp, nay cần Liên Xô thì Ðảng lẳng lặng vớt Vấn ra khỏi cái rổ tay
sai gián điệp Liên Xô nhưng vẫn giữ lũ chúng tôi làm “tay sai gián điệp” hoài.
Bù vào chỗ mất
tội danh “tay sai Liên Xô”, Vấn phải nhận thêm ba năm tù nữa. Lý do: quần chúng
không đảng viên mà chơi trèo, dám đòi pháp quyền và dân chủ với tổng bí thư.
Sau khi ra tù, Vấn được thứ trưởng Y tế Nguyễn Văn Thủ - bạn nghề và bạn ten-nit - cho đi làm. Người ta không chịu. Vặn: mười năm qua anh ở đâu, lý lịch cần
rõ chỗ này.
- Tôi bị tù.
- Giấy bắt và tha tù đâu?
- Không có, bắt suông tha suông thế thôi.
- Thế thì anh thôi vào biên chế.
Ai bảo Ðảng
ta quan liêu giấy tờ? Thế mà tôi có giấy chứng nhận! Nguyên do: đầu những năm
1980, Ủy ban nhân dân phường mấy lần giục tôi nộp bản thành tích chống Mỹ để lấy
trợ cấp chống Mỹ. Tôi không thích nhận. Phản đối chiến tranh mà nay lại lấy tiền
công đánh Mỹ?
Tôi bèn đến
nộp vụ tổ chức báo Nhân Dân một sơ yếu lý lịch xin đóng dấu chứng nhận. Dấu liền
đóng cái phắp. Tôi đưa lý lịch cho Ủy ban. Người ta bèn lờ tôi ngay. Phần kỷ luật
trong đó đề rõ: “Trong tổ chức chống đảng, lật đổ, thường gọi là vụ Hoàng Minh
Chính”. Sướng quá, thoát nạn lĩnh tiền.
Xem giấy
này, Kiến Giang cứ nói: - “Họ ỉm vụ án, nhưng tờ chứng nhận này của Đĩnh quá
hay! Văn bản công khai duy nhất đấy!”
* * *
Ở ngay buổi
mừng chiến thắng đặc biệt tại báo Nhân Dân mà người chủ lễ danh dự là Tổng bí
thư Lê Duẩn, tôi đã trải qua một phen điên rồ. Như sau: sáng hôm ấy, Lê Duẩn đến
báo đảng nói chuyện đại thắng Mỹ, mượn dịp để ông với báo đảng cùng vui mừng lại
vừa là cách tuyên dương công trạng báo đảng đã trung thành với từng lời của ông
trong suốt cuộc chống Mỹ.
Toàn cơ quan
có mặt, chả ai “moong” và tất cả đều ăn mặc đẹp, đều hớn hở, đều cười nói rộn
ràng và đều dồn hết cả lên mấy hàng ghế đầu. Vâng, để được nhìn cho tỏ vị anh
hùng vừa thắng Mỹ, thế cho nên cả một nửa trên hội trường chật kín vào nhau như
sung, còn nửa bên dưới, chừng năm sáu hàng ghế dài có lưng tựa thì vắng ngắt.
Có thể lấy cảnh này làm biểu trưng cho tình “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”
được lắm, tuy trông nó hơi học sinh trung học. Trong đám đông chen chúc sung sướng
tột cùng ấy, nổi lên chiếc cà vạt mầu đỏ ớt cay xè mắt mũi của Hữu Thọ.
Lê Duẩn nói
được vài phút, ma xui quỷ khiến làm sao, tôi bỗng từ từ đứng lên, từ từ lách ra
đầu hàng, từ từ đi xuống sau lưng hàng ghế cuối cùng rồi đứng đó, chọn cái chỗ
ngay ngắn tại chính giữa hội trường, hai tay chống lên lưng ghế, mặt thản
nhiên…
Để làm gì?
Thật tình tôi cũng chả rõ tại sao! Bệnh tôi là bồng bột, bốc đồng thì còn mong
gì tìm ra động cơ trực tiếp, cụ thể nữa. Có lẽ chọn lìa khỏi số đông nồng nhiệt
- xuất chúng, outstanding - tôi muốn trình cho mọi người thấy kẻ hèn nhát phạm
tội “sợ chiến tranh” kia trước sau vẫn kiên trì chống lại bạo lực đến cùng dù hắn
đơn độc, dù bạo lực đang vỡ trời cuồng hoan.
Vừa đứng đặt
tay lên lưng ghế nhìn lên nửa hội trường trống không đến bảy tám mét thì thấy
luôn hai anh thanh niên quần kaki vàng, sơ mi trắng đến ốp ở hai bên, ở phía
sau tôi một ít. Rồi một anh thứ ba lớn tuổi hơn, đến khép lại ở sau lưng. Tôi
thấy hình thành ngay ở quanh tôi thế trận vành móng ngựa của tòa án mở ngược. Bụng
liền bảo dạ: “Hố to!” và bắt đầu bồn chồn không yên. Nhưng làm thế nào bây giờ?
Chẳng lẽ cười
lấy lòng họ mà nói: “Đông quá nên tôi hơi khó thở phải ra đứng đây?” Mà trở về
chỗ cũ thì càng xoàng! Bèn đành cứ chịu trận ở mẩu đất hoang vắng tự mình trích
biếm mình đến đó, để thấy gáy luôn nặng trình trịch như đeo một cái vạ đời. Lúc
đó mới nhận ra hết nghĩa chữ “vùng không người” và “vùng tự do bắn phá”. Nhìn
lên cứ thấy mắt Lê Duẩn nhìn thẳng vào mình. Tôi đoán thế nào ông cũng nghĩ sao
lại để người đã tóc hoa râm đi bảo vệ tôi? Cục trưởng bảo vệ an ninh Kháng tóc
bạc nhưng nom có giống tay này đâu?
Qua kiểu lập
nghiêm khác tập thể một trời một vực của tôi, ai cũng có thể kết luận rõ ràng
tôi đang “đi ngược dòng thời đại”. Và dĩ nhiên đã ngược dòng thì chẳng còn nghe
thấy gì nữa, mặc dù hội trường luôn rầm rầm vỗ tay và reo hò.
Lễ vừa tan,
tôi lẻn vội ra hồ Gươm, không cùng cả cơ quan chụp ảnh với Lê Duẩn. (Hôm sau,
xem bức ảnh Lê Duẩn chụp với báo đảng to gần hết cả trang nhất. Nhà báo tên tuổi
Th.T. ngả hẳn người vào vai Lê Duẩn, cười khoái lạc, tay ôm một quyển to tổ bố
- chắc là một cụ kinh điển mác-xít nào anh vừa vào thư viện mượn ra làm đạo cụ
diễn show - tôi cả quyết thế vì chả lẽ đến để toàn tâm toàn ý nghe tổng bí thư
mà lại vẫn kè kè đèo theo một khối sách nặng đến nửa ký?)
Gió mát, mặt
hồ in bóng mây, tôi chợt nhận ra: bị trừng trị vì tội phản đối chiến tranh, tôi
vẫn khăng khăng theo đuổi tới cùng nguồn cơn “tội lỗi” của tôi chứ không ùa
theo đám đông mà quay mặt lại cả với chính mình. Không, hơn thế, tôi đã cho
mình nhân danh phái đối lập đơn độc trình diện ở ngay trước mặt tổng bí thư!
Nhưng phải
nói nếu biết bỏ ra đứng một mình là thế nào an ninh cũng ốp sát thì tôi chả ra
mắt như vậy. Bây giờ viết lại chuyện này, tôi mới thấy ra là từ lâu trong vô thức,
tôi đã cất công xây nên vững chắc khoảng xa lìa rành rọt với phe chiến tranh,
và nó, khoảng trống cách biệt như âm với dương này đã ôm bọc tôi mà bảo vệ suốt.
Và cũng có lẽ hồn ma các nạn nhân chiến tranh mà tôi âm thầm thương cảm hồi đó
đã cử tôi ra làm một luật sư câm lặng chất vấn tác giả của “thắng lợi”: “Thắng
gì? Thắng ai?”
Mà cũng có lẽ
tất cả chỉ là dục lực mông lung này thôi: “Tôi không sợ ông, dù ông là trùm bạo
lực, tôi đương đầu lại đây...”. Thôi, dù chả làm nổi trò gì thì ít ra tôi cũng
nhất quán tuyên xưng mình là kẻ chống chiến tranh.
À, còn chuyện
này. Ba chục năm sau, tháng 3 - 2006, ở hội nghị báo Nhân Dân - gồm cả các tổng
biên tập đã về hưu như Hoàng Tùng, Hồng Hà… - kỷ niệm cuộc kháng chiến chống Mỹ,
khi người ta giới thiệu tôi là “phóng viên chiến tranh”, tôi đứng lên nói rành
từng tiếng: - Tôi không chiến tranh, tôi chỉ bất khuất.
Tôi nhìn mặt
các quan chức đồ sộ. Không một phản ứng. Sự thật của tôi được chấp nhận. Đây
không phải Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận mà là bất khuất viết thường của Trần
Đĩnh. Trong khi không ít anh em đang làm việc vỗ tay hoan hô… Tôi có thể kể tên
ra.
Còn một số
chị, như chị Lý y tế, thì tan họp ra cứ thì thào:
- Ui, nghe
anh nói mà sợ góa đi à! Mọi người lấy làm vinh dự thì anh lại lắc.
(CÒN TIẾP)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét