Chương hai sáu
Con gái tôi
ra đời lúc 3 giờ 15 phút chiều. Đúng 3 rưỡi, Tuyết Minh, vợ Lê Vinh Quốc, bí
thư đảng ủy Bệnh viện C điện thoại báo tin cho tôi ngay. Chị bị đưa về bệnh viện
C làm bí thư đảng ủy vì tội “bỏ Tổ quốc” của chồng.
Sáng sau tôi
vào thăm. Con gái nằm ở một phòng tập trung nhiều cháu sơ sinh khác. Hồng Linh
bảo tôi nom con xấu lắm. Mắt sưng như hai quả nhót còn môi thì như có hai con đỉa
bám vào… Tôi không thấy sao hết. Vừa mừng vừa thẫn thờ. Thương con rồi sẽ chịu
đựng bom đạn ra sao…
Đến trưa,
tôi rủ Trần Châu tới Bách hóa Tràng Tiền mua cái chậu tắm tráng men trắng tinh
cho con gái. Hai anh em sắp bước xuống đường sang bên hè nhà Lafont Lacaze xưa,
tôi chán nản nói: - Je maudis la guerre, elle abrutit l’homme. (Mình nguyền
rủa chiến tranh, nó vũ phu hóa con người).
Nói tiếng Pháp như sợ có người nghe
thấy. Chiến tranh đang là nguyện ước nung nấu sôi sục, rủa nó là nguy hiểm. Phẩm
chất cao quý nhất bây giờ là dám đánh nhau, hy sinh tất cả mà. Lúc ấy giữa ngã tư rộng vắng trưa hè, tôi thấy
bơ vơ lạ lùng. Tôi không thích Mao, mặc dù ông người Hồ Nam, cũng là con cháu của
Thần Nông, cụ năm đời của Lạc Long Quân đẻ ra vua Hùng, mặc dù trong con gái
tôi có một nửa máu Hán, tôi ngờ ông ta ầm ầm phèng la cổ động cho việc mở cái
sòng bài máu này là có dụng ý thâm hiểm không thể nói ra, cái dụng ý mà lúc ấy
tôi ngu không nhìn ra nổi. Cứ ngỡ ông bảo vệ nhắng chủ nghĩa. Ông thiết cái miếng
cho dân tộc ông chứ đâu phải là giữ cái tiếng trong sáng cho Mác, Lê-nin. Anh
nào ngây ngô thì mắc bả ông.
Sáng hôm sau
Mỹ ném bom kho xăng Đức Giang. Con gái
tôi ra đời trúng vào vận hội “nghìn năm có một” quật ngã đế quốc đầu sỏ nên rứa
tôi trong khói lửa! Nghe Nguyễn Thành Lê, phó tổng biên tập nói đến chữ “cơ hội
ngàn năm” trong cuộc họp nghiêm trọng và lặng như tờ của tòa soạn đêm hôm thông
báo Việt Nam chiến tranh với Mỹ, tôi hết sức phản cảm. Ôi, chiến tranh mà là cơ
hội nghìn năm có một! Và tôi liền nghĩ ngay: ý này chắc chắn của Mao Trạch
Đông!
Ngay hôm sau, Mỹ ném bom kho xăng Đức Giang,
trận bom đầu tiên vào sát Hà Nội. Tôi tự rủa thầm: Đúng là ghét của nào trời
trao của ấy! Anh ghét bom đạn thì đó, cho anh nếm mùi ngay sau hôm con anh ra đời!
Cháy rần rật
mấy ngày. Khói đen đầy trời. Tàu sân bay Mỹ Constellation ở cách Đức Giang 150
dặm (240 km) mà trông thấy khói đám cháy. Tối tôi đến Kỳ Vân. Thì báo động. Hai đứa xuống đứng ở ngõ hông nhà. Tôi
hỏi làm thế nào cho đất nước khá ra chứ cứ vác rá đi xin về đánh nhau mãi hay
sao?
- Kinh tế tự do thì khá!
Tôi nhìn anh. Kỳ Vân cười: - Nông dân vừa được
giải phóng đã tước luôn ruộng đất và cùm ngay chân tay họ ở trong hợp tác xã.
Nghe Mao nói tiến lên hợp tác hóa không được chậm như bà già bó chân mà. Tàu nó
bảo sao là bào hao làm vậy. Đánh Mỹ là gây đại loạn như Mao hô để cho Trung Quốc
được nhờ mà. Cách mạng là đại lọan, không phải là ăn tiệc, nhảy đầm nhưng Mao vẫn
ăn tiệc, nhảy đầm.
Nhìn khói đầy
trời, tôi rất chán, tự nhiên đâm ra tầm thường muốn bên xứ sở của Mao cũng khói
bom dầy đặc thế này. Sáng sau vào bệnh
viện thăm vợ con. Gặp báo động - ngày mười mấy lần báo động. Tôi đứng ở bậc lên
xuống tòa nhà chính bệnh viện sát đường Trường Thi. Dưới bậc tam cấp là một dẫy
hầm gạch nửa ngầm nửa lộ có nắp bê tông. Các cô y tá theo nhau khiêng từng cáng
lội xuống hầm ngập nước đến đầu gối, hơn một chục cháu sơ sinh nằm ngang thân
cáng, những mảnh gạc nhuộm mầu cỏ úa phủ kín đi tất cả. Ngỡ như đang cố tình từ
bỏ con, tôi rớm nước mắt nhìn đám rước nhếch nhác những thiên thần giấu mặt
thiêm thiếp hưởng cơ hội nghìn năm có một trong tiếng vo ve của đám mây muỗi bé
xíu, những con muỗi cũng lần đầu ra trận.
Để lên dây
cót cho dân Hà Nội sau trận bom Đức Giang, ta làm một cuộc thị uy sức mạnh bằng
hạ uy thế kẻ thù: tổ chức tòa án nhân dân xét xử phi công tù binh Mỹ tại sân vận
động Hàng Đẫy. Trước đó cho áp giải tù binh đi diễu qua nhiều đại lộ. Đồn rằng
đây là sáng kiến của Tố Hữu. Khi Mỹ ném bom Thanh Hóa và đe ném Hà Nội, Tố Hữu
nói một câu xanh rờn chủ nghĩa lạc quan cách mạng: Ra đây, giỏi thì cứ ra đây,
xin mời, sẵn sàng đón đây, nào! Tôi rất khó chịu nghe báo Nhân Dân truyền đạt
hào khí này.
Chiều hôm ấy,
hai ba ngày sau bom Đức Giang, Nguyễn Tuân và tôi ra Cổ Tân uống bia. Chợt người
ào ào từ sau Nhà hát lớn chạy tới. Giải tù binh! Chúng tôi bèn về quán bia ngã
tư Tràng Thi - Quang Trung, chỗ sau này là nơi bán vé của hãng Air France. Tình
cờ Tô Hoài cũng vừa đến. Cùng lúc, đoàn tù binh hiện ra ở đầu ngã tư công an
Hàng Trống.
Khoảng hai
trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba mầu
xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt
nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm
lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng
la ó. Thoáng rất nhanh tôi ngỡ xem một tập quần tượng đài di động được một đạo
diễn tài ba điều khiển. Nhà đạo diễn đó là ý thức về giá trị tự thân. Và rất
nhanh lại nghĩ ai đó đã dựng nên tập thể điêu khắc này để đối lại tượng đài Nạn
nhân các trại tập trung Quốc xã.
Dân hai bên
đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá,
tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng... Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức
mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn cuối, chợt
Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù
binh đi ở ngoài cùng.
Anh trở lại,
tôi hỏi khẽ:
- Đánh người ta làm gì?
- Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa
mình đứng yên? - Tô Hoài che miệng tủm tỉm cười.
Tôi biết anh
muốn tránh đòn dư luận cho cả ba. Anh rất hiểu đời. Anh biết cần yên để viết,
chớ trêu ngươi, trêu là toi sự viết đấy. Trên cái bàn con con rất thấp của anh ở
ngay bên trái cửa vào nhà, cạnh bức chân dung anh do Nguyễn Sáng vẽ - mà bàn
tay rất được chú ý đặc tả - anh để tấm huân chương kháng chiến chống Pháp trong
khung kính. Cười bảo tôi: - Công an đến thấy thì đỡ lôi thôi.
“Toà án nhân
dân” kiểu cải cách ruộng đất kịp thời giải tán ngay sau cuộc bêu tù binh. Sài
Gòn đe trả miếng y như thế. Cũng bêu tù Việt Cộng. Thế giới tố cáo Hà Nội vi phạm
luật quốc tế về tù binh. Còn tù binh Mỹ về trại nhất tề tuyệt thực. Sau ta đưa
họ đến giam ở gần những trọng điểm hoặc sơn cầu Long Biên để Mỹ không dám đánh
phá. Mấy cô diễn viên trong Khu văn công đến biểu diễn cho các mâm pháo gần nhà
máy điện Yên Phụ về nói: Đang hóa trang cho tiết mục sắp diễn cứ thấy, hế lô hế
lồ gọi. Nhìn sang bên nhà máy điện thì thấy mấy chú Mẽo bị giam trong đó. Các
chú bám mép tường nhoi lên gọi, vẫy, hôn gió. Đồ quỷ, vào tù còn hám gái thế chứ
lại.
- Mà phải là gái đẹp và gái chiến thắng cơ, -
tôi nói. Phải nhận là Mỹ kỳ quặc! Sau
khi bình thường hóa bang giao năm 1995, bổ nhiệm đại sứ đầu tiên sang mà kén một
tù binh cũ từng bị giam sáu năm rưỡi ở Hà Nội. Không ngại mất thể diện ư? Mà
ông đại sứ vừa sang là te te lao xuống ngay Hải Dương tìm cảm ơn người du kích
năm nào bắt được mình. Và ông ta thì mới
giải lời thề để từ căm thù Việt Nam chuyển sang hữu ái, thân thiện với ngay những
người từng đã hành hạ ông cực kỳ độc ác.
* * *
Suốt 1966, tôi bận với Bất Khuất. Ngoài làm việc
với Thuận, còn gặp khoảng bốn chục anh chị em tù như Phan Trọng Bình, Trần Quốc
Hương, chị Khánh Phương... Nghe anh Bửu, quê Hoài Nhơn, Bình Định kể đời anh,
tôi vừa ghi vừa khóc ròng. Xen giữa là những chuyến thăm vợ con sơ tán trên tận
Ca Sơn, Chợ Đồn, Phú Bình, Thái Nguyên. Cụ Bồ râu năm chòm như sóng dào dạt cho
muợn một góc vườn hoang để Linh tự tay dựng lấy một gian lều. Cái lều này một
tuần liền trống hoác, Linh chưa pha tre kịp để đan cửa. Con cụ Bồ đi lính vào
Bê. Cụ thì thào: - Đài ta chỉ thấy nói nó chết... nhưng mà đánh nhau thì cũng
như xay lúa ấy chứ anh nhỉ, cả hai má cối đều cùng mòn chứ phải không anh? Lâu
quá chẳng thấy thư thằng con tôi...
- Cụ ơi, má cối cũng có số. Trời thương thì rồi
về.
Có chuyện trời
thương thật. Máy bay Mỹ một hôm ầm ầm bay qua, rất thấp. Có lẽ nhòm xem các
băng rôn lính Trung Quốc căng trắng sườn đồi: Kháng Mỹ viện Việt, Đả đảo đế quốc
Mỹ. Linh vội bế con gái nhảy xuống hố cá nhân ở đầu giường. Chợt Linh giơ con
gái lên trên miệng hố và theo bản năng tôi vội đỡ lấy. Linh đu người lên mặt đất.
“Rắn! Bò vào chân Linh, còn ướt đây này.” Tôi nhìn xuống. Một con rắn lục dài
khoảng 25 phân đang ngóc đầu. Trời lạnh có lẽ nó rơi xuống hố ngủ đông…
Và con cụ Bồ
về thật. Gần vĩ tuyến, đi cùng hai anh lính thì bị pháo 105 li bắn. Một quả
pháo nổ bên cạnh. Hai anh đi đầu và đuôi chết, mình con cụ Bồ sống. Chủ nhật 22 tháng 4, tôi đến thăm mẹ vợ chữa
lao ở bệnh viện Thái Nguyên sơ tán về giữa rừng Phúc Trừu vùng chè Tân Cương. Vừa
đến chân dốc thấy bệnh nhân ngồi chồm hỗm trên đỉnh đồi đồng loạt nhìn tôi cười
thì ngờ ngay là có tin xấu. Quả vậy. Mẹ Linh chết thứ Sáu, ngày 20, bệnh viện
đoán con rể Chủ nhật lên thăm nên hoãn chôn.
Cùng bệnh viện
làm biên bản trao nhận các thứ sơ sài còn lại của người chết. Lật chiếu đầu gường
thấy tờ giấy bạc năm đồng gấp tư như một chúc thư tối giản gửi lại, tôi bật
khóc. Kiên cường sống, kiên cường chịu đựng, chống đỡ rồi nghèo đói, hoạn nạn
tay trắng vô cố nhân ra đi.
Tôi mang về
cho Linh một hộp sắt chữ nhật cũ đựng ít đồ khâu trong có một hộp sắt nhỏ tròn
mầu đỏ trước đựng thuốc ho pastille và một chiếc kéo mạ kền xinh xinh. Nhìn hai
cánh kéo, tôi nghĩ đến một thế đứng ba lê. Cho rằng mẹ cất riêng vào đấy để thỉnh
thoảng mở ra nhìn cho đỡ nhớ con gái. Lần trước tôi lên, mẹ hỏi: “Linh rồi đẻ
con gái hay con trai?” cái cười quá hiền lành. Như lép vế nữa, không biết tại
sao... hay người ốm nặng đều thấy kém phận như thế?
Rời bệnh viện
sau khi chôn cất, tôi về tới lều nhà thì trời xẩm tối. Má nói gì? Linh hỏi. À,
má lại hỏi rồi đây Linh đẻ con trai hay con gái. Má có vẻ yếu đi, tôi nói.
Tuần sau,
đúng ngày Quốc tế Lao động, tôi đạp xe lên. Thấy dân chạy đông bên đường kháo:
- Đánh nhau ầm ầm. Mấy cái máy bay rơi, ta lại tưởng nó nên cứ vỗ tay hoan hô.
Ai ngờ ta. Mấy anh lái cháy ra than cả. Tôi là lạ vì nghe trong lời nói như có
vẻ cười cười. Giống các bệnh nhân cười khi tôi đến bệnh viện thì lại gặp mẹ đã
chết.
Chập choạng
tối tới nhà. Linh đang ngồi làm cá trước lều. Những con cá lành canh bé tí teo.
Linh khẽ lấy hai ngón tay nặn ruột cá. Những mảnh vẩy li ti lấp lánh - mà tôi
nghĩ là chất liệu của các vì sao sớm trên kia - lẫn vào những bọng ruột nhỏ như
chiếc đầu kim mọng đỏ. Tôi ngồi xuống bên.
Như linh
tính báo trước, Linh hỏi khẽ:
- Má làm sao phải không?
- Má mất rồi. Ngày 20 tháng 4 tây.
Một tiếng “ớ!”
Bàng hoàng một tiếng. Như túm níu hẫng phải một cái gì. Rồi hai ngón tay dừng nặn.
Những vẩy cá chợt càng lấp lánh, các đầu kim mọng đỏ càng bụ hơn, bóng đẹp,
tròn xoe hơn, nữ trang hơn. Rồi rơi lên tất cả những lấp lánh chất liệu của
sao, của những nụ hoa đỏ bầm là hai giọt nước mắt. Hai giọt nữa. Hai giọt nữa...
Trong vắt. Nhỏ nhoi. Không một tiếng kêu. Không một tiếng nức nở. Im lặng hòan
toàn.
Thanh lọc…
Hai tháng
sau cháu ngoại của bà ra đời là gái. Linh thích chữ Mây. Cố giữ cho tên thuần
Việt, tôi bèn đệm Ang. Cháu sống ở vùng Chợ Đồn, Ca Sơn, Phú Bình, Thái
Nguyên hơn một năm trời. Cho tới lúc nghe mẹ nói ông trăng kìa thì ngửa mặt lên
cười. Biết ngửa mặt nhìn trời nữa khi nghe nói máy bay. Lúc ấy không cười mà
hơi rúm người lại quờ quờ hai tay giơ về phía mẹ. Tôi rất buồn bảo Linh: - Từ
bé đã thế này thì dân ta giỏi sợ nhất thế giới rồi đây.
Cách Trường
múa sơ tán nửa cây số, quân đội Trung Quốc kháng Mỹ viện Việt đóng khá đông.
Người con rể thứ hai của má Linh, anh em cọc chèo với tôi lúc đó ở đơn vị này.
Cái gì run rủi khiến Lương Cơ Văn ở Phúc Kiến lại về quanh quẩn ở cả đây khi mẹ
vợ chết? Sau này Cơ Văn bảo tôi: Chúng em sang thấy người Việt Nam khổ quá...,
em vẫn dấm dúi cho họ. Có người nhận còn chắp tay vái.
Lương Cơ Văn
không biết dân Việt sau này nhất tề nói quân Trung Quốc mượn cớ chống Mỹ sang
vét về nước kho vàng châu báu ông cha ngày xưa chôn giấu lại. Đào công sự trong
lòng núi là để moi vàng. Không, còn chôn giấu súng ống ở dọc hai bên đường họ mới
mở để phòng sau này cần đến thì móc lên dùng với ta.
Dân, tai mắt
của đảng nhưng khác đảng. Không biết “bốn phương vô sản đều là anh em”. Mà có
biết thì cũng không dại tin như đảng.
(CÒN TIẾP)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét