Chương mười hai
Du học năm
năm được những gì? đại, một văn hóa vĩ đại. Được nói một ngôn ngữ nhiều người
nói nhất hành tinh. Được một người vợ tôi hết sức yêu rồi tôi làm khổ. Một lần
thấy bố mẹ bất hòa, con gái sáu tuổi òa khóc. Tôi bế cháu ra bụi tre sau túp lều
tranh lụp sụp làm nhà mà nói: - “Nhà ta có gì không tốt, không hay xảy ra là do
lỗi bố. Khi con chưa biết nói, bố đã nhận lỗi với mẹ, tự mình chủ động nhận lỗi
với mẹ. Nay con biết khóc chuyện nhà thì bố chủ động nhận lỗi với con...” con
gái vừa thút thít nấc vừa gật. Tôi mừng vì như thế là nó có cái lượng khoan
dung của mẹ... Người từ phút đầu tiên hát “chàng buông vạt áo em ra...” thì cuối
cùng cam đèo bòng với tôi mọi tội mọi nợ, mặc dù bản thân cũng đầy oan trái,
thương đau, vạt áo đầy nước mắt.
Và được là đồng
chí đương thời lặng thinh mà đầy thiện cảm, đầy xôn xao cuồng nộ của “phái hữu”
Trung Quốc, những người lận đận tù đày hàng chục năm ròng mới mở ra đuợc cánh cửa
của Trung Quốc, mới thôi kết thù mà làm bạn tươi tỉnh với thế giới. Nhờ họ,
khát vọng tự do, dân chủ thêm được gần gũi và biết và mến phục một dân tộc vĩ đại
bền vững trong tôi. Đạo quân mênh mang những nạn nhân vĩ đại ấy dạy tôi trước
tiên không được bội bạc nỗi trầm luân của con người. Bức trường lũy đồng loại
trần ai nêu lên cho tôi tấm gương dám nhận về mình khổ ải.
Được đi từ Bắc
chí Nam cái đất nước ở đó con gái như ngọc như hoa trong những Đại Quan Viên,
những Mái Tây Sương rất sớm biết xăm xăm đi lên đòi dân chủ. Đất nước biết nhờ
hạt gạo làm long thuyền chở cả một bài phú đi ngao du bát ngát. Đất nước cần tự
diễn đạt đã mượn mu rùa làm bia phát nghĩa. Cần ra khỏi ranh giới bản thân đã
chế la bàn.
Cần giữ bền
ranh giới đã tạo máy báo địa chấn. Cần tính tần số vui buồn của nhân sinh đã mượn
cát đo thời gian. Đất nước có Hồng Lâu Mộng, Kim Bình Mai, Nhục Bồ Đoàn..., tiểu
thuyết đầu bảng tính dục của loài người. Nhà sách Jean Pauvert, Paris dịch in
đúng 500 cuốn. Đánh số từ 1 đến 500.
Các chữ “âm
hộ” không dịch. Để nguyên Hán tự in đen. Đen ánh. Các chữ “dương vật” để nguyên
Hán tự in đỏ. Đỏ son. Rải rác trong từng trang chữ la tinh đơn tuyến, chúng lập
thể nổi lên như núi như gò, đẹp vượt hết mọi hoa văn, họa tiết.
Những huyệt
tử sinh, những mắt triện anh ánh âm dương ngũ hành, những con mắt nhấp nháy xui
đồng lõa... Nhưng cuối cùng phải nói sau năm năm du học tôi bắt đầu thấy đuợc một
điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với thần tượng và bỏ thần tượng! Do đó hãy
tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là chính mình, chớ nghe sai
phái. Do đó dám phê phán, dám lên tiếng và dám chịu đựng... Cái đó nhờ phong
trào phái hữu - mà tôi say sưa, sung suớng chứng kiến - phủ nhận chủ nghĩa xã hội,
độc quyền lãnh đạo, những mỹ tự có tính bùa phép khiến một lớp người ít ỏi bỗng
trở thành thần thánh. Phong trào chống sùng bái cá nhân ở Liên Xô tôi tiếp nhận
tại Bắc Kinh. Rồi kế theo là phong trào đòi dân chủ của phái hữu Trung Quốc.
Trong ngoài giáp công, có thể nói.
Cảm ơn… Cảm
ơn... Nhưng kìa
Cổ lai thánh
hiền giai tịch mịch
Bạch vân
thiên tải không du du...
Một hay hai
bài đấy nhỉ? Hỏi làm gì? Đều tịch mịch và bạch vân mây trắng vi vu trong trống
không cả mà thôi...
Chương mười ba
Thép Mới đón
ở ga. Xích lô chở cái thùng gỗ thông đựng sách Tàu ngất ngưởng và tôi. Thép Mới
đạp xe bên cạnh. Lên gác gặp ngay tổng biên tập. Câu đầu tiên Hoàng Tùng hỏi
là: - Mao xếnh xáng thu về được hết âm binh chưa? Có trắng tay chuyến này
không? Ở trong nước Mao Trạch Đông đang
là “chàng cả lố.” chế diễu ông ta là bằng chứng của người Mác-xít, Lê-ni-nít.
Tôi thì không chế, nhưng sau vụ chống phái hữu, tôi chẳng còn mặn mà với ông.
Ngày hôm sau
Nguyễn Thành Lê, phó tổng biên tập báo tin Trường Chinh mời tôi. Tôi rất xúc động. Năm năm rồi. Lần cuối gặp
anh bên cây vả rừng dáng rất Tahiti của Gaughin, một ống bương dẫn nước róc
rách, mùi lá cơm nếp và Tâm, cô gái địa phương đẹp cả một vùng biết tiếng đứng
nghển chân trên đẳng cười với tôi, bất chấp tổng bí thư đang phủ dụ đi học.
Tôi nói mấy
lần anh qua Bắc Kinh tôi không đến chào vì ngại phiền anh. Anh bảo từ nay cứ đến
gặp, anh cũng muốn chuyện trò với tôi. Cứ đến và báo tên ở cửa là được, trừ phi
anh đi vắng.
Nhưng anh liền
hạ ngay giọng, chằm chằm nhìn tôi, hỏi khẽ:
- Anh có biết vì sao đồng chí Bành
Đức Hoài bị kỷ luật?
Không ngờ đến câu hỏi
này, tôi hơi lúng túng:
- Thưa anh cũng là nghe bạn bè Trung Quốc thôi, nhưng
trong họ cũng có người là đảng viên hay gia đình là cán bộ cao cấp… Theo họ thì
vì Bành Đức Hoài viết thư phê phán Cụ Mao quen nghênh ngang thói thái thượng
hoàng chỉ biết phán người nay cuồng tiến tiểu tư sản làm tan hoang tất cả lên rồi
thì phải ngồi nghe người ta phán lại. Vụ Bành Đức Hoài cho thấy mâu thuẫn to
trong lãnh đạo cao nhất. Nổ ra từ Hội nghị Lư Sơn. Nhật thực từ nay thường trực...
- Khoan..., cái gì nhật thực... À, tôi hiểu.
Mao Trạch Đông thôi chủ tịch nước. Dân chúng nghĩ sao?
- Nói chung bàng hoàng. Ngồi nghe loa thông
báo đầy ở bên đường trong sân trường, sinh viên nom âm thầm lắm. Sau vụ chống
phái hữu mọi người rất kín đáo, không ai dại bày tỏ thật mình ra...
Trường Chinh
cũng biết Hội nghị Lư Sơn. Nhưng lúc ấy anh không thể biết chỉ hai ba năm sau,
tại cũng một hội nghị Lư Sơn, Mao sẽ nói tới “cuộc đập tan những đòn tiến công
của chủ nghĩa xét lại”. Lúc ấy nào ai rõ Mao ám chỉ đến những cải cách (đòn tiến
công) của Lưu Thiếu Kỳ (hay là Khroutchev Trung Quốc 1), Đặng Tiểu Bình (hay là
Khroutchev Trung Quốc 2). Hướng diệt kẻ thù mới này - chủ nghĩa xét lại - rồi
làm chỏng vó cả Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình. Rồi Trường Chinh. Rồi một thế hệ
nạn nhân trong đó có tôi. Mao cựa mình để đổi thế ngồi thoải mái đều bắt chết
theo cả đống.
Sáng ấy tôi
hỏi thăm Ðặng Việt Nga, cô con gái cưng của anh. "À, học ở Liên Xô. Có bạn trai
rồi... nhưng tôi không thích cậu này, người khu 5...”
- Người khu
5? Tôi khẽ hỏi lại.
- Không, cậu này gạo cụ mà tôi thì không thích
gạo cụ.
Một phát hiện
bất ngờ mà lý thú nên tôi mới kể ở đây.
Sau này có khi nghĩ lại chuyện này, tôi lại thầm hỏi: Thế mà sao Trường
Chinh lại gạo cụ với Lê-nin, Stalin như thế?
Cơ quan báo
nay đã thay đổi cơ bản. Về nhân sự và về cả nhân cách. Từ trên rừng đi thẳng
ngay ra nước ngoài học năm năm, tôi đã bỏ qua một giai đoạn quan trọng hình
thành và phát triển tâm tính thơ lại: tất cả sao cho thủ trưởng vui lòng để được
đề bạt, tăng lương. Ở Atêka, không có chế độ lương, đi học thì hưởng trợ cấp học
trò. Những ngoắt ngoéo mới nảy sinh ở đằng sau các dịp đề bạt, tăng lương tôi
thật sự ngu ngơ. Trở lại cơ quan vô tư như thuở ở rừng, tôi không ngờ tới lòng
đố kị và các ngón đòn hiểm đang chờ. Người ta cho rằng Hoàng Tùng, Thép Mới ưu
ái tôi chẳng qua vì tình cảm “cánh hẩu” căn cứ địa với nhau mà thôi. Họ xét nét
tôi mà tôi không hay. Cũng đâu có hay một thường vụ tỉnh ủy nay là trưởng ban ở
báo mỗi lần sắp gặp Hoàng Tùng lại ghé mắt nhòm lỗ khóa xem trước vẻ mặt tổng
biên tập. Vui vẻ thì gõ cửa, lầm lì thì đi giật lùi xuống cầu thang, chờ lát nữa
lại hồi hộp lên trở lại. Cho nên họp ké ban biên tập góp ý cải tiến báo, hết ghế,
tôi ngồi lên tay ghế bành của tổng biên tập thì liền thành cái gai cắm vào mắt
nhiều người. Tôi khó tránh khỏi dèm pha, điều mà sắp tam thập nhi lập tôi vẫn
chưa được nếm mùi vị.
Đi một người
tôi nhớ: Kỳ Vân. Sang tạp chí Học Tập. Tháng 10, Hồng Linh về nước. Tháng 1 năm 1960, sáng ngày 29 lấy làm 30 Tết
Canh Tý, chúng tôi cưới nhau. Thép Mới, Phạm Lợi, vụ trưởng tổ chức làm chứng
chờ ở quán ông lão bán bánh mì hằng sáng cho quan viên nhà báo và các cô làm đầu
hai hiệu Tân Trang, Miwaco. Tám giờ, bốn người sang Ủy ban Hành chính Khu Hoàn
Kiếm xế tờ báo ký tên. Ba phút xong đám cưới.
Được tin tôi
sắp lấy vợ, Hoàng Tùng bảo tôi cần xe hơi (chiếc Pobieda duy nhất ở báo của tổng
biên tập) hay hội trường thì cơ quan cho mượn. Tôi nói chỉ ra ủy ban.
- Vậy thì cơ quan in biếu thiếp mời hay báo hỉ,
cái này cần đấy - Hoàng Tùng nói.
- Cảm ơn anh, tôi không báo ai cả, - tôi nói.
Một thoáng rất
nhanh tôi thấy trong mắt Hoàng Tùng xổ tuột ra hết chiều dài một cỗ thước dây.
Xem vẻ chưa đủ cho anh đo độ quái đản.
Mẹ Linh và
Trần Châu, anh cả “quyền huynh thế phụ” đều không biết Linh và tôi cưới nhau
lúc nào. Chẳng cái gì thuận chèo mát mái mãi.
Một sáng tôi
ở chỗ Tố Hữu về tới vườn hoa Hàng Đậu thì thấy Phạm Văn Khoa đạp xe đi đến
bên. "Thép Mới nó bảo mày lấy vợ bí mật...” , - Khoa nói. Này, từ nay mày phải
gọi tao là bố! Vợ mày là con gái thằng Cúc bạn chúng tao ở Hải Phòng ngày xưa đấy.
Tao với nó cùng dạy học, tao tiếng Pháp, nó tiếng Tàu. Lê Giản, tao và nó dạy học
ở Hải Phòng mà. Mày có biết chuyện chúng nó mười ba thằng bị giết oan hồi cuối
1947, đầu 48 không? Mỗi đứa một cũi chó nhốt trong. Thằng Nguyễn Công Thành, bí
thư Tuyên Quang hồi ấy bảo tao là thấy chúng nó ở trong cũi nhìn ra mà nó muốn
khóc. Toan liều mở cũi đánh tháo cho chúng nó mà không dám. Cùng tù Sơn La với
nhau mà. Nhất là thằng Ưng Khầy Mùi. Lý Ban tố cáo chúng nó là đặc vụ của Tưởng
vì muốn gạt chúng nó để nổi lên thành tổng đại bài của Trung Quốc ở ta.
Tới nhà thờ
Tây Đen, Hàng Gà, anh nói tiếp: - Lý Ban như thế nào tao đâu lạ. Tao giúp cho
nó sống và bố vợ mày có công rất to trong việc ấy. Lý Ban lúc ấy trốn khủng bố ở
Quảng Đông, chạy sang ta. Tìm đến trụ sở báo Cờ Giải Phóng ở Hàng Bồ mà tao là
chủ nhiệm. Ông Trường Chinh bắt chủ nhiệm báo tiếp dân hằng ngày như kiểu báo
Pháp nhưng ông ấy ngồi tiếp thì lo Tàu Tưởng nó “cõng” đi, vì thế cho nên tao mới
phải làm hình nhân thế mạng. Một sáng một cha xưng tên Lý Ban gặp tao xin liên
hệ với Đảng cộng sản Đông Dương. Tao báo cáo. Ông Trường Chinh dặn cảnh giác. Đặc
vụ Tưởng có thể vờ để chui vào nội bộ ta. Cho nên tao lờ đi. Thì hắn lại đến. Mời
tao đến khách sạn Đồng Lợi lấy một tờ giấy trắng cất kỹ trong va - ly mây ra
nói “tây chấng chỉ của tôi, tòông chí tem nó về tưa cho tổ chấc thì tòông chí sẽ
pết.” Tao đem về đưa cho chính bố vợ mày lúc ấy phụ trách kỹ thuật của tổ đặc
nhiệm tại nha công an của Lê Giản. Bố vợ mày xem nói đây là tỉnh ủy viên Quảng
Đông, tên Lý Ban... Như thế tao hỏi mày, có phải là tao, bố vợ mày cứu thằng Lý
Ban không?
Nhưng rồi Lý
Ban nó báo cáo đám Ưng Khầy Mùi là đặc vụ Tưởng. Ta thịt nghiến luôn cả lũ. Lý
Ban có giấy của cộng sản Trung Quốc, bọn Mùi thì chỉ có giấy An Nam, thua nhau
chỗ ấy, cái chỗ sùng ngoại, mày hiểu không. Tao đề nghị mày cứ hỏi trung ương
thế này là ra hết sự thật, đúng, hỏi nếu bố vợ mày là đặc vụ Tưởng thật thì sao
xem giấy Lý Ban nó dại gì mà không đổ vấy cho Lý Ban là đặc vụ để ta thịt ngóm?
Nay vu đặc vụ cho bọn Mùi thì lẽ ra phải biểu dương “đặc vụ” đã có công giúp đảng
vớ được Lý Ban để đưa vào Trung ương đảng chứ? Bây giờ mày làm đơn kiện đi. Tao
cùng ký, với tư cách bạn bè chúng nó và nhân chứng.
Nghiện đọc
trinh thám Mỹ, Anh, Pháp, tôi ớ ra. Đúng, trong một vụ án chỉ cần một chi tiết
lô - gích như của Khoa là phá được bao bí ẩn. Nhưng làm gì có chuyện phá án với
đảng.
Khoa rất
chân tình và bất bình. Phần đông nạn nhân trong vụ này là bạn thân của anh. Tôi
rất cảm động. Nhưng tôi lờ mờ thấy việc kiện sẽ rất khó. Khoa là nhân chứng
nhưng thiếu trọng lượng: anh có tên Khoa Tếu do chính Cụ Hồ đặt. Anh đằng thằng
có thể lên rất cao nhưng như Kỳ Vân, anh thích tự do. Hai nữa, Lý Ban sắp vào
trung ương. Bắc Kinh cần thêm tiếng nói. Thứ ba nữa, tôi ngại, một thứ ngại rất
chung chung, mơ hồ. Như thuở bé chiều hôm nhìn đỉnh núi Yên Tử mù mịt mà thấy
huyền bí và sờ sợ.
Tối hôm
chúng tôi cưới nhau, Hoàng Tùng mời đến nhà anh ăn tất niên. Trong bữa ăn, Nguyễn
Thành Lê báo Trường Chinh mời vợ chồng tôi sáng mồng một Tết lên nhà anh ấy.
Từ đấy theo
lệ, sáng mồng một Tết tôi phải đưa Linh đến nhà Trường Chinh. Năm 1962, vui
chuyện, khi Trường Chinh hỏi thăm bố mẹ Linh, tôi nói luôn, cũng là để xem thái
độ Ðảng: - Con của Hồng Tông Cúc, anh ạ.
Tôi không ngờ
Trường Chinh biến sắc nhanh như thế. Anh tái mặt và lùi xa Linh ra. Vụ án mười
mấy cán bộ người Trung Quốc vẫn còn lưu lại ấn tượng sâu sắc. Qua thái độ Trường
Chinh, tôi thấy đúng là giết oan nhưng đồng thời lại thấy như vậy thì khó lòng
mà minh oan nổi.
Sau đó Tết
tôi không đến nữa. Tôi đã thành xét lại, sợ Mỹ, sợ chiến tranh. Trường Chinh
còn nhờ Quang Đạm nhắn tôi là “không ngờ Trần Đĩnh sa đọa chính trị đến như thế”.
Trong khi tôi lại không ngờ anh sa đọa nhanh như vậy, đầu hàng nhanh như vậy.
* * *
Như đã nói ở
trên kia, lúc mới về nước, tôi không hiểu rằng bước vào cơ quan là tôi bước vào
quan lộ chông gai. Cho nên thấy người ta gọi tôi” thày Tàu” tôi cho là chuyện
vui đùa, không phản ứng. Anh em không thích Mao thì mượn tôi để chế Mao và như
thế là tốt chứ sao. Tôi bắt đầu ngờ ngợ và khó chịu khi thấy họ nâng cấp tôi
lên thành manh piê, - tay chân của Hoàng Tùng. Tôi chưa biết với nhiều người ở
cơ quan tôi đang là đối tượng cần hạ gục.
May sao được
Mao Chủ tịch… cứu. Người phất cờ đánh
xét lại. Cái bàn cờ thế giới gồm hai phe trong đó Trung Quốc chỉ đóng vai phò
tá, Mao phải phá để lập nên một bàn cờ Tam Quốc mới với thêm chân kiềng Trung
Quốc. Mao kỵ Liên Xô từ lâu. Còn tôi thì kị Mao từ Chống Phái Hữu và Gang thép,
Công xã Nhân dân… Và vẫn ôm nguyên vẹn trong lòng mối thiện cảm to lớn đối với
những chiến sĩ - đúng hơn, những hiệp sĩ, hiệp khách - đòi dân chủ tự do mà người
ta gán cho cái tội Phái Hữu rồi trấn áp, đày đọa.
Nhờ Mao phất
cờ giáo chủ mới, tôi lập tức bị tước danh hiệu “thày Tàu” biến thành “thằng
láo chống Cụ Mao”. Đám hôm qua mỉa tôi “thày Tàu” hôm nay nhao nhao ùa theo
lãnh tụ oa - la - din (tiếng Pháp origine: chính gốc - BT), đạo chủ thiêng
liêng trong cuộc chống xét lại vô cùng hiển hách.
Tôi nói đến
hai chuyện gây ấn tượng mạnh với tôi lúc đó. Vì trực tiếp đụng tôi. Và qua đó
thấy người ta trở mặt nhanh thế nào.
Một hôm
Hoàng Tùng đưa tôi một quyển sách chữ Hán mỏng trên Cụ Hồ gửi xuống bảo tôi
theo đó viết bài. Đó là chuyện một Bạch Mao Nữ thật ở miền Nam Trung Quốc. Chuyện
xoàng nhưng có hơi Cụ Hồ nên người ta thêm ghét.
Sáng hôm báo
đăng bài này, tôi vừa đến cổng cơ quan thì đã thấy mấy người ăn bánh mì ở quán
ông già trước cửa báo đang cười chế tôi.
Tiếng Hữu Thọ
át tất cả: “Dạ, thế ra pên Tồ ngổ nó lại có ké (cái) sớm mùa xoan.” Mọi người
khoái trá cười theo. Ở trong bài tôi có viết sấm xuân.
Hữu Thọ lại
nói: - Thế này là thày nhập cảng pẹ (mẹ) nó ké ké (cái) sớm xoan pên Tồ vào ké
nước ngổ tây. Nông nghiệp ké nước ngổ thế này thì chết pỏ ké con pà nó mất, hí
hí hí...
Tôi đã toan
đứng lại hỏi: - Thế “Lúa chiêm nấp ở đầu bờ, Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
thì là sấm hè hay đông? Nhưng im, chợt hiểu ra quán ăn này là nơi sáng sáng người
ta mượn làm câu lạc bộ đến ngồi xúc miệng bồi dưỡng nghiệp vụ vắng mặt đồng chí
để hạ thủ đồng chí. Đời quá nhìều o ép thì kiếm chỗ chửi văng mạng cho xả cơn ẩn
ức.
Nói vậy
nhưng tôi rất lạ. Không hiểu tại sao người ta lại có thể quay ngoắt nhanh đến
thế, có thể bảo vệ bạo chúa Stalin như xưa đến thế, có thể cứ nhìn Mỹ, Anh,
Pháp, Nhật là những kẻ thù phải tiêu diệt bằng vũ trang đến thế. Lúc ấy chưa đọc
hồi ký Lý Chí Toại, bác sĩ riêng của Mao nên tôi chưa biết Mao đã bảo Lý rằng
phải nuôi kẻ thù trong cũng như ngoài, chẳng hạn ngày ngày hô giải phóng Đài
Loan thì mới yên được để cầm quyền. Dân ngột ngạt thì Mao cho xả van hờn căm
vào ngả khác, chẳng hạn xả vào xét lại Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tỉểu Bình. Mà Mao lúc
đó đang nuôi chí phục thù, quyết dẹp những Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình từng
làm nhục ông.
Lúc ấy,
1960, Hữu Thọ mới cán sự 5 ban nông nghiệp. Trần Minh Tân, người đưa Hữu Thọ
lên báo còn giấu chuyện Hữu Thọ lai Tàu. Theo Minh Tân, bố Hữu Thọ gốc Hoa
nhưng láu đời, biết đảng kỵ ngoại nên anh ta giấu dòng máu. Mãi sau này, Minh
Tân mới nói cho tôi hay.
Còn một người
hầm hè tôi nữa mà tôi hoàn toàn bất ngờ. Một trưa từ cơ quan về nhà tập thể ở
ngõ Lý Thường Kiệt, tôi đang đi ở hông bệnh viện Việt - Đức thì thấy Hà Đăng vượt
lên đi ngang. Anh đỏ gắt mặt phê bình tôi: - Anh kiêu ngạo lắm, anh không nói
chuyện với tôi.
Tôi ngẩn ra
thì anh đã đạp vút đi. Lần đầu cất lời nói với tôi là phê phán. Và không cho
cãi. Rồi hai ông này đều tổng biên tập,
đều trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương, và đều cất lời là phê phán, bắt ne bắt
nét phần hồn của toàn đảng toàn dân và có nhiệm vụ ngăn chặn mọi đối thoại chứ
chưa nói đến cãi. Chữ “đối thụi” của Lê Đạt là tả môi trường đối thoại tê liệt
của đất nước.
Khi các ông
vào tuổi xưa nay hiếm thì chuyển sang làm trợ lý cho các tổng bí thư. Đám nhà
báo nói các ông 75, 76 tuổi vẫn theo tổng bí thư vào Sài Gòn và dù các ông có mặt
cũng không ai giới thiệu, ra ý miệt thị rõ ràng. Nhưng vẫn quyết trụ ở bên bám
hơi các cụ tổng đến cùng. Từ giữa những
năm 1990, báo Nhân Dân xuất hiện một tác giả ký Nhân Đăng. Thật tình không biết
là ai, nhưng kỵ với người coi mình là thừa sáng để đi soi lối cho thiên hạ, tôi
đã gửi một thư cho Nhân Đăng đề nghị báo chuyển giúp. Viết rằng cái tên Nhân
Đăng không hay, nó gợi đến các nô tỳ thị nữ ngày xưa đội đèn cho bọn quyền quý
tiệc tùng hưởng lạc.
Đèn, từ đèn
trời, đèn biển đến đèn dầu, đến que tăm xiên hạt bưởi khô thay cho đèn đều hay
nhưng đèn người thì xấu, tác giả nên thay đi.
Hỏi thăm anh
em ở báo, mới biết đó là Hà Đăng. Lúc ấy tôi lại chợt thấy “đăng” còn là “lên
cao, đăng cai”. Và ghế... (Sau không thấy tên “đèn người” này nữa.)
Hữu Thọ Vina
Mưu nay lấy tên Nhân Nghĩa, mỗi số Nhân Dân cuối tuần đều được dành một chỗ
cùng nhuận bút chắc là cao ráo. Một lần thấy một quyển sách của anh mới xuất bản
- cái gì tự nhận trí tuệ cao mắt sáng tim đo đỏ gì đó - ở hiệu sách, tôi vội
quay đi. Không thấy chữ. Chỉ thấy con mắt láo liên và đôi môi mỏng dính.
Và xin vượt
thời gian bốn chục năm. Cuối 2009, báo điện tử Vnn phỏng vấn nhà báo lão thành
cách mạng. Nhà báo lão thành nói “Phải chống im lặng đáng sợ”.
Ôi. Mở mặt
nhờ bưng bít sự thật, xuyên tạc sự thật thì nay hô phá vỡ nó. Một bạn lão thành
bảo tôi viết bóc cái mặt nạ hắn ra đi, tôi cuời: - Bao la hề, ông dẹp sao cho hết?
Vả có để hề bao la thế thì dân mới có chỗ để ghét mà đứng dậy chứ ông?
(CÒN TIẾP)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét