Chương bảy
Bốn ngày đêm
ngược Trung Hoa. Lụt Hồ Nam, Vũ Hán, phải đi ngả Hàng Châu, Giang Tô, Giang
Tây. Những dòng sông trong xanh mà nhìn vào bờ vẫn ngỡ thấy các hòn đá Tây Thi
giặt lụa. Đỗ ở Hàng Châu, tôi cứ muốn biết thời xưa chỗ đầu tàu phì phò lấy nước
này có là một tửu lâu không và Tô Đông Pha có la cà tới đó? Phà chở một lúc mấy
toa xe lửa vượt Dương Tử mênh mông sóng lớn cho tôi thấy cái hơi thở sâu trầm của
công nghiệp. Khói nhà máy Thượng Hải từ xa đã biến thành phố này ra thành một dẫy
cô đảo chập chờn.
Đến Bắc Kinh
đại học hình như đúng đêm 19 tháng 8. Chân chợt rón rén khi vào khu Lục Viện,
túc xá trước kia của Yên Kinh đại học, Yenching - Harvard, một nhánh của
Harvard. Vàng son, chạm trổ, mùi vị vuơng phủ...
Tất cả lưu học
sinh học tiếng Trung Quốc một năm ở Bắc Kinh đại học rồi sẽ chia đi các trường
chuyên nghiệp hay đại học khác. Đám báo chí lẽ ra sang Tiệp học theo giúp đỡ của
OIJ (Hội nhà báo quốc tế, do Liên Xô đỡ đầu), nhưng Phạm Văn Đồng ở Genève về
qua Bắc Kinh đã chỉ thị các ngành văn hoá báo chí, sử, nghệ thuật đều học tại
Trung Quốc vì Trung Quốc gần với Việt Nam hơn. Nhờ thủ tướng trọng chữ Ðồng mà
tôi và Linh thành tương thân chứ nếu thủ tướng tên Dị thì có lẽ đã sang một nẻo
khác.
Vài ngày sau
lưu học sinh Việt Nam đuợc hiệu trưởng Mã Dần Sơ chiêu đãi. Ông là nhà kinh tế
học lỗi lạc, đào tạo ở Mỹ. Thấp béo, hiền hậu. Lưu học sinh Việt Nam biểu diễn
ca nhạc “Chàng buông vạt áo em ra là em ra...” Linh hát quá hay nhưng tôi không
buông. Tôi kéo Linh ra đứng dưới cây lê thấp ngoài sân trước cửa nhà ăn. Tuổi
trẻ lãng mạn thích trăng sao, nhìn mặt Linh lúc ấy tôi ngỡ như mình đang vút lên
ngang những vì sao trên Vạn lý Trường thành rồi tôi chạm tới mặt trăng thật:
hôn cái đầu tiên. Vào má. Thấy Mã hiệu trưởng cười ở bên trong. Đinh ninh ông
thấy chúng tôi “trốn” và ông phê chuẩn.
Nhưng nội bộ
quyết dẹp. Ngay lập tức vi phạm kỷ luật luyến ái thế này chúng tôi đã láo xược
thách thức toàn thể. Cả năm học ấy, chúng tôi là đối tượng giáo dục, phê phán,
ngăn chặn và ép cắt đứt. Đến nay tôi cũng không hiểu tại sao tôi, nhất là Linh
non nớt như thế, lại có gan ghẹo ngay vào giới luật thiêng liêng hàng đầu của đảng.
Xong hè
1955, Linh sang Bắc Kinh vũ đạo học hiệu. Tận đằng Đào Nhiên Đình, cách nhau
non mừơi lăm hai chục cây số. Linh cắt bỏ bộ tóc dài mựơt mười sáu tuổi đời mà
các nữ sinh Triều Tiên hễ gặp lại vuốt ve khen đẹp. Tối thứ Bảy, nghe nữ sinh
Trung Quốc ríu rít gọi nhau “jin cheng” - vào thành phố, rồi tiếng xe búyt rồ
máy rời trạm, như một kỷ niệm bong đi, tôi buồn ghê gớm.
Trong cuộc họp
lưu học sinh Việt Nam ở toàn Trung Quốc, đại sứ Hoàng Văn Hoan lớn tiếng chửi vụ
hai chúng tôi.” Mới sang đã tung hê ngay kỷ luật của Ðảng, chân ướt chân ráo
luyến ái ba lăng nhăng ngay. Người chứ đâu phải trâu với ngựa mà cứ gặp nhau là
nhảy.” Trớ trêu! Tôi làm thư ký ghi biên bản, ngồi ngay cạnh đại sứ. Tôi đã phải
ngăn mình đứng lên nói: - Thưa, chính là tôi.
Cái ngăn tôi
liều chính là Linh. Nữ sinh ngồi ở hàng đầu. Ngay trước mặt tôi, Linh ngồi đó
chịu trận, đầu cúi xuống, hai tay chắp lại. Một a hoàn đang bị các lệnh bà quở
nạt. Thương Linh xấu hổ tôi đã im. Viết trẹo vào biên bản thành “đâu phải trâu
với ngọ mà cứ hễ gặp nhau là ngủ?” Thấy chữ “nhảy” đểu quá.
Lúc này Hoan
đề cao kỷ luật đảng, ai ngờ rồi ông lại phạm kỷ luật trốn sang Bắc Kinh tối tối
lên đài đọc hồi ký “Giọt nước trong biển cả” chửi Lê Duẩn thậm tệ.
Sắp khai giảng
niên học mới, trường mời tôi để một buổi tối nói kinh nghiệm học tiếng Trung Quốc
cho mấy trăm anh chị em lưu học sinh Việt Nam mới đến Bắc Kinh đại học.
Vào đầu tôi
nói hăy coi ngôn ngữ lạ mà ta học như mỹ nhân. Để có thể đến với nó với tất cả
cảm xúc và trí tuệ. Để có thể “Đôi ta như đá với dao, năng liếc năng sắc năng
chào năng quen.” Then chốt ở chỗ năng. (Đến đây tôi buột thở dài, thầm nghĩ,
nay còn năng làm sao? Hai chi bộ theo lệnh sứ quán đều vây ráp...) Sau đó mách
anh chị em các mánh để nhớ. (Lại thở dài. Sao ta không biết mánh quên?) Để nhớ
có một cách như mâu thuẫn: thêm họ hàng râu ria vào cho cái ta cần nhớ.
Thuở bé học
đến sông Loire (Pháp) có bốn nhánh là Vienne, Creuse, Indre, Cher thì tôi lại
nói thành Viện Cớ Anh Xe. Một nhát nhớ ngay. Không phải lẩm bẩm ôn hoài ở trong
đầu…
Ba mươi hai
năm sau, ở Sài Gòn, đến nhà Thiết Vu ở Hàm Nghi, dắt xe mọi lần trong cái ngõ
ông mất điện tối mù, tôi khẽ kêu “Đi thế nào đây?” thì trong cùng ngõ cất lên
tiếng người lạ:
- Chào anh Trần Đĩnh!
Ngỡ công an,
tôi thầm nghĩ:
- Theo cả đến đây, Hai Khuynh dặn cẩn thận đúng quá?
Tiếng nói lại
tiếp luôn:
- Lên tầng trên tôi chờ anh, xem anh có nhớ ra tôi không?
Không phải
công an. Anh bạn này nghe kinh nghiệm học tập tối hôm đó, cùng với những Ngô Y
Linh, Huy Du, Nguyễn Đình Nghi... Chúng tôi chưa hề chuyện trò bao giờ nhưng
anh đã nạp tôi vào bộ nhớ âm thanh kỳ diệu của anh. Anh bạn đích thị tri âm này
tên Bùi Phú Dụng, nay đã bảy mấy và ở ga Bình Triệu. Thỉnh thoảng vẫn gọi tôi
qua điện thoại. Anh đáng vào Guinness.
Lên đại học,
tôi viết bút ký toàn bằng tiếng Trung Quốc. Có lẽ cũng duy nhất? Như đã duy nhất
luyến ái bất chấp kỷ luật tu hành.
* * *
Thình lình
Thép Mới đứng bên bàn ăn của tôi ở Bắc Kinh đại học. Anh theo Cụ Hồ đi cảm ơn
mười hai nước xã hội chủ nghĩa giúp ta thắng Pháp. Ngay tại nhà ăn, anh bảo
tôi: Về Việt Nam tao sẽ phải tranh thủ ăn chứ chủ nghĩa xã hội ăn như thế này
thì kém bữa bánh cuốn thịt quay cà cuống của tao mỗi sáng.
Chúng tôi đã đi chơi với nhau mấy bữa. Tôi hỏi
anh một vấn đề mọi người đang bận tâm: tại sao ta và Diệm đang tranh nhau Hoàng
Sa cả ở trên báo mà đùng một cái ta lại công nhận và hoan nghênh Trung Quốc thu
hồi Hoàng Sa?
- Mày ấu trĩ bỏ mẹ! Theo hiệp định Genève thì
chỗ ấy dưới vĩ tuyến 17 phải là của Diệm. Để cho ông anh Trung Quốc chứ không để
Mỹ nó vào nó xây căn cứ hải quân sát nách à?
Thế là tôi
nghĩ ngay - y như Ðảng lúc bấy giờ - mai kia ta cần, bạn lại trả cho ta, đi
đâu mà mất, miễn là về phe ta.
Hôm ấy tôi
nhận xét với Thép Mới một điều mà tôi cho là một nhược điểm lớn của Việt Nam:
chúng ta thiếu một cuộc cách mạng tư sản dân chủ. Trung Quốc nó có từ 1911. Con
gái Trung Hoa đã mặc váy ngắn đi đường đồng ca đòi nam nữ bình quyền từ đấy. Ít
ra chủ nghĩa tư bản cũng đã lãnh đạo đất nước này được vài chục năm, Lỗ Tấn chửi
chế độ nó ác thế mà nó để nguyên vẹn mạng ông cùng cái bút...
Có lẽ muốn
tôi đỡ buồn vì bị cấm yêu, Thép Mới một sáng ngồi ở công viên Trung Sơn đã lộ
ra với tôi:
- Này, mày nghe bình tĩnh nhá..., hình như bố Hồng Linh..., ta thịt,
nghe đâu hình như (ông ta) là đặc vụ. Một luồng băng lạnh buốt chạy ngầm suốt dọc
người tôi.
Thép Mới lắm
tin lắm, hắn đã nói ra thì nhiều phần là sự thật. Nhưng không biết một cái gì
đó trong tôi lập tức khiến tôi ngờ vực. Tôi hỏi:
- Cậu nghe ai?
- Thì cũng là
xì xào thế... Khoa Tếu nó có biết ông ấy.
Rất nhanh, đảng viên Trần Đĩnh tự hỏi:
có tiếp tục không?
Nhưng một Trần
Đĩnh khác, một Trần Đĩnh chỉ thấy yểu điệu thục nữ cũng lại lập tức tự quyết định:
thôi, cứ chờ bao giờ có tin chính thức đã. Tiếp theo là một loạt biện hộ hùng hồn:
chả lẽ tầm thường đến thế ư? Chưa chi đã dao động.
Không, tôi
càng phải ở bên Linh để cùng ngụp lặn trong cảnh ghê sợ này, nếu nó có là thật
đi nữa.
Sau lần gặp
Thép Mới ít lâu, tôi đã hỏi Lê Phú Hào, phóng viên Thông tấn xã tại Trung Quốc,
về tin chính phủ ta công nhận vùng hải phận của Trung Quốc, tức là công nhận
Hoàng Sa. Lê Phú Hào nói vì Liên Hợp Quốc nó ra cái luật biển với cái công ước
gì tôi không nhớ, chỉ biết liên quan đến chủ quyền biển, các nước sẽ ký vào để
khẳng định chủ quyền biển đảo của mình nhưng Trung Quốc và ta không ở trong
Liên Hợp Quốc nên Trung Quốc tuyên bố một mình và ta ủng hộ.
Do đó Nguyễn
Khang đại sứ có trình công hàm cho Bộ ngoại giao Trung Quốc và ông Đồng cũng có
công hàm gửi Chu Ân Lai công nhận tuyên bố của Trung Quốc về hải phận của Trung
Quốc. Tớ nghĩ, Hào nói, nếu chỗ ấy mà của Sài Gòn thì Mỹ thừa sức mở căn cứ hải
quân thật đấy. Nghe Hào tôi càng yên tâm. Vốn quen kiểu nghĩ của Trung ương và
Bác Hồ đã làm thì phải đúng.
Lúc ấy tôi
chưa chống đảng lật đổ và Lê Phú Hào, tình báo đội lốt nhà báo, chưa “phản bội”
nhảy sang địch. Niên học 1955 - 56 trôi đi bức bối (với tôi vì bị cấm yêu).
Cho tới giữa
năm 1956 thì diễn ra một chuyện động trời khiến cho tất cả gần như bị đảo lộn:
Đại hội 20 Đảng cộng sản Liên Xô, báo cáo mật của Khroutchev về Stalin. Tôi đã
ngày ngày đến thư viện của Đại học Bắc Kinh mở báo Pháp Le Monde. Không có. Chắc
nhà trường đã cấm bày các số báo đó.
Nhưng tôi vớ
được một tờ đăng tin tổng bí thư Đảng cộng sản Anh Harry Pollitt sau khi đọc
báo cáo này đã bị mù suốt nửa tháng. Hình như bị là do cái sự thật kinh khủng
này.
Một trận bão
lớn ập đến. Đại hội 20 đã cho một cái nhìn phê phán không thể dung thứ cộng sản
kiểu Stalin. Trong xung đột Xô - Trung, Ðảng vẫn diễn giải là Liên Xô phản
phúc, công kích trước nên Trung Quốc phải công kích lại. Nên biết một khía cạnh
khác...
Mao Trạch
Đông từ lâu không cam làm anh hai trong phe. Thơ từ của Mao đã nói rõ khẩu khí.
Vung tay lên chia thiên hạ ra làm mấy cơ mà…
Stalin chết,
đây là cơ hội cho Mao đặt lại tư cách đầu tàu. Mao lợi dụng hậu quả phá phách
ghê gớm của Đại hội 20 để công khai đả kích Liên Xô. Mao biết phần lớn lãnh đạo
các nước xã hội chủ nghĩa rất ngại chống sùng bái cá nhân. Cầm quyền không cần
tự do bầu cử mà không sùng bái cá nhân thì có bằng trò đùa!
Đại hội 20 họp,
đoàn Đảng cộng sản Trung Quốc đến, Chu Đức cầm đầu nhưng Đặng Tiểu Bình quản tất.
Đài phát thanh Liên Xô phỏng vấn Chu Đức. Trong bài trả lời, Chu Đức dùng công
thức chính thức vốn có về việc giúp đỡ của Liên Xô gồm bốn vế “to lớn, toàn diện,
có hệ thống và vô tư” thì duyệt nó lần cuối, Đặng Tiểu Bình xén chữ “to lớn” đi
mà thay bằng “hai nước giúp đỡ lẫn nhau”. Lần đầu xuất hiện cái thế ngang thưng
này.
Ngọn cờ lý
tưởng thiêng liêng nhưng tay con người phất nó lại bẩn. Dưới gầm bàn hội nghị,
anh cả anh hai dọt vỡ ống đồng nhau và ngầm nhắm đàn em lôi kéo.
Khroutchev
đưa ra ba luận điểm mới toanh trong Đại hội 20: chung sống hòa bình, khả năng
quá độ hòa bình lên chủ nghĩa xã hội và khả năng ngăn ngừa chiến tranh. Cái gai
nhọn chính là ở chỗ sùng bái cá nhân nhưng bàn cải chỗ này thì chả hóa ra tiểu
nhân tham vọng quá hay sao? Liền phất cờ bảo vệ Stalin! Mày chống, tao bênh: Là
tao chống mày. Thế là Nhân Dân nhật báo cắt nghiến đi luôn luận điểm “khả năng
quá độ hoà bình lên chủ nghĩa xã hội.” Khác nào thiếp mời dự cưới chỉ để tên
chú rể không có tên cô dâu. Cắt nó đi vì nó chính là “chủ nghĩa xét lại” phản đối
bạo lực cách mạng, đầu hàng đế quốc. Tư nay phải hâm sôi nồng độ máu hiến dâng cho
cách mạng thành chuẩn mực phân biệt cách mạng với cải lương. Quả nhiên cách hâm
sôi máu đã kéo được khối người sính sùng bái cá nhân đi theo.
Mao chống
Khroutchev nhưng Đại hội 8 Đảng cộng sản Trung Quốc (1956) lại xóa “tư tưởng
Mao Trạch Đông” nêu trong Ðiều lệ. Rất ức, khai mạc, Mao nói vài câu rồi tếch.
Phe bắt đầu rạn, nội bộ mỗi đảng bắt đầu nứt.
* * *
Một đoàn cán
bộ báo Nhân Dân gồm Kỳ Vân, Xuân Trường, và Hồng Hà (mới ở Cứu Quốc sang Nhân
Dân) qua Bắc Kinh để đi Liên Xô học. (Trên rừng, Thép Mới nói anh đã đưa người
em của anh lên Hà Nội làm báo như thế nào: Con ông cụ - tức Hồng Hà - buôn trầu
cau hung quá, cứ ôm cả giỏ tổ bố thế này ngồi nóc toa đều đặn từ Thanh Hoá ra,
tao thấy thảm cho con ông cụ, mới đưa con ông cụ ra làm báo Việt Cách của tao ở
phố Charon. Mày biết đấy, từ đó con ông cụ quay ra quản tư tưởng tao, sư nó, ốp
ghê lắm…)
Lần đi học
này có cả Hoàng Minh Chính, Minh Việt, phó bí thư thành ủy Hà Nội. Tôi ra khách
sạn Hòa Bình ở phòng Kỳ Vân chơi với anh em suốt chiều cho tới tận tám chín giờ
sáng hôm sau tiễn ra sân ga. Các thứ chuyện nhưng nổi nhất là sửa sai cải cách
ruộng đất và Vanh chem (vingtième, tiếng Pháp: hạng, thứ 20 - BT) - Đại hội 20.
Kỳ Vân nói
Trung Quốc nhất định phải chống Vanh chem. Gì chứ hoàng đế là không chịu cho ai
chống sùng bái hoàng đế. Tôi nói có khả năng chịu, bằng chứng là Đại hội 8 đã
xúp “tư tưởng Mao” đi. Kỳ Vân nói Mao chống thì ta cũng chống.
Trung Quốc
làm gì thì Việt Nam làm thế. Mao chịu sao được dân chủ hóa. Cả tôi và Kỳ Vân đều
sai đều đúng. Kỳ Vân đánh giá quá cao yếu tố tiêu cực của Mao, tôi quá cao yếu
tố tích cực của Đảng cộng sản Trung quốc.
Bộ phận tích
cực này mười năm sau thua Mao thảm hại. Thành toàn những “xét lại, đi đường tư
bản, phái hữu, phản bội” vào tù, bị đấu tố và chết. Mao chết, họ lại nổi lên và
thay đổi Trung Quốc.
Còn ta theo
Mao, thì Kỳ Vân đúng! Tôi chỉ thấy Hồ Chí Minh, không thấy Lê Duẩn lúc ấy đã
coi Mao là “Lê-nin của thời đại ba làn sóng cách mạng.” Tôi lúc ấy chưa thể
hình dung ra chuyện Cụ Hồ rồi cũng bị ngồi chơi xơi nước. Tôi tin tay lái con
thuyền Việt Nam không bao giờ tuột khỏi tay Cụ.
Về cải cách
ruộng đất, Kỳ Vân kể một chuyện làm tôi bàng hoàng. Đúng hơn, kinh hoàng. Chu
Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ - Tĩnh, bắc ghế ngồi trên thềm
cao chỉ tay vào mặt mẹ đẻ chắp tay đứng ở dưới sân dằn giọng: - Tao với mi
không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt
mi mà mi thì nhất định sẽ chống lại... Bà mẹ cắn lưỡi không chết. Ít lâu sau,
nhảy giếng tự tử thành… Chu Văn Biên ký lệnh xử tử bất kỳ ở đâu. Chính hắn sai
trói gô bố đẻ của Phan Đăng Lưu là Phan Đăng Tài, lùa ông cụ vào đòn ống khiêng
lên trại tù rồi sau cụ chết mất xác.
Khi bị
khiêng đi, cụ cứ chửi chúng mày khốn nạn, thằng Lưu kia, mày theo cộng sản để
cho đàn em cộng sản của mày đối xử với tao thế này à? Du kích khiêng ông cụ lại
đánh đá ông cụ... À, trong Nghệ có câu ca “Phá đảng lừng danh quân Đặng Thí, giết
người khét tiếng gã Chu Biên.” ..
- Biên nay làm gì? Đề bạt thứ trưởng nông nghiệp.
Dù sao cũng giàu nhiệt tình cách mạng.
- Thế Bác sao?
- Bác thì vãi nước mắt. Nước mắt Bác làm mát
đi các nỗi đau lòng. - Kỳ Vân nói.
Sáng sau tôi
tiễn anh em ra ga. Hoàng Minh Chính là người cuối cùng nắm lấy tay cửa lên xuống
nhoài mãi ra lớn tiếng bảo tôi:
- Cấm yêu là thế quái nào? Đấu tranh đi, đòi
dân chủ...
Chính là người
dẫn đội cải cách về đồn điền cụ Đào Đình Quang, địa chủ kháng chiến, yêu nước,
thân sĩ, bố vợ Nguyễn Khánh Toàn và Đinh Đức Thiện. Đại đoàn 312 của Trần Độ,
Lê Trọng Tấn thường xuyên đóng trên đất của cụ, ăn cơm miễn phí của cụ. Vị thân
sĩ treo cổ chết.
Đào Đình Đức,
giáo sư bác sĩ, con trai cụ ngậm ngùi bảo tôi:
- Ông cụ sợ bạo lực mà...
- Không phải, - tôi nói, Ông cụ trốn chạy cái
đáng ghê sợ hơn nữa. Đó là sự tráo trở lật mặt... Cái tráo trở còn khiến người
ta không bao giờ thấy tội lỗi.
Hoàng Minh
Chính không tráo trở nên sau đó đã bỏ cả đời đòi dân chủ. Có giẫm chân vào bùn
mới biết từ đấy tránh bùn.
Đào Đình Đức
cho tôi xem tấm ảnh lớn chụp cụ Đào Đình Quang đứng với Trần Độ, Lê Trọng Tấn
và mấy sĩ quan của ban chỉ huy sư đoàn 312.
- Ông cụ đãi cơm gà cho sư đoàn này nhiều lắm
đây, - tôi nói.
- Thế mới nên tội mua chuộc cách mạng, trốn đấu
tranh giai cấp.
- Vậy thì cương lĩnh đoàn kết địa chủ, tư sản
của Việt Minh năm 1941 là mua chuộc tư sản, địa chủ, - tôi nói... Mua chuộc
cách mạng thì chết, mua chuộc phản động thì sống và có thành tích rồi lên cao…
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét