Chương hai lăm
Đó là viết
Nguyễn Đức Thuận, tù Côn Đảo vừa ra Bắc. Hoàng Tùng tiếp anh. Hai người xưa
cùng tù Sơn La. Thuận bị đưa ra Côn Đảo, cùng công voa với Trần Độ nhưng đến
Hoà Bình, Độ được lệnh vượt ngục. Tùng nói theo chỉ thị Trung ương, báo Nhân
Dân lo cho anh một hồi ký về chiến đấu trong tù, báo phân công anh Trần Đĩnh viết
giúp anh...
Sau tôi biết
giữa lúc tôi cùng Hòang Tùng tiếp Nguyễn Đức Thuận, Mao - nhều ở cơ quan xì xào
dữ lắm. “Lại cho viết nhân vật anh hùng thì còn ra làm sao? Ông này nói ở trường
đảng Nguyễn Ái Quốc hay lắm! Phải kén người tử tế viết ông ấy chứ.”
Tôi tiễn Thuận
về, đến Cửa Nam, Thuận nói sau khi ra tù, anh dưỡng bệnh ở Campuchia, chủ
tịch Hội văn nghệ giải phóng L. V. S. đã viết cho anh một hồi ký cho nên không
cần phải viết thêm nữa. Khiêm tốn, Thuận không muốn làm om xòm quá về bản thân.
Nhưng chắc cũng do anh không tin tôi viết được. Tôi đâu có nếm cơm tù, đòn tù
như L. V. S..
Tôi nói tôi
không viết cũng không sao nhưng anh muốn kiếu thì nên đề nghị với Trung ương.
Thuận xin kiếu nhưng Tôi đón Nguyễn Đức
Thuận đến báo và cùng với sau đó đã phải nghe Lê Đức Thọ, chánh trùm tổ chức và
Tố Hữu chánh trùm tư tưởng, hai người cùng với Hoàng Tùng, chánh trùm báo chí
trực tiếp duyệt hồi ký này. Trong mắt các vị, tôi viết hồi ký thì ít người bì.
Lúc ấy đang trong thời kỳ đảng thẩm tra thời gian tù, thuận cũng khó lòng bướng.
Tên sách tựa là “Bất Khuất” là do tố Hữu đặt.
Sao lại dính
Lê Đức Thọ? Vì ông phải lo đến mất còn của đảng bộ miền Nam đang trong cơn tơi
tả, rồi lại phải lo bảo đảm tư cách chính trị của các nhân vật quan trọng xuất
hiện trong hồi ký. Ai ra tù cũng đều phải đình chỉ sinh hoạt đảng chờ thẩm tra.
Và ông muốn mượn Thuận kích tinh thần đảng viên trong Nam đang sa sút đáng sợ.
Ở đây tôi muốn
nói một chuyện. Cuối 2004, chị Phương Nhu, vợ Nguyễn Đức Thuận, đưa tôi xem một
bài của Trần Bạch Đằng in trong một quyển sách nói ông “không bằng lòng tinh thần
đề cao cá nhân” của Nguyễn Đức Thuận, ông đã nói với Nguyễn Văn Linh, bí thư xứ
ủy lúc đó và Linh “tán thành” ông. Chỗ này không sao. Đó là ý nghĩ của ông Bạch
Đằng. Vấn đề ở dưới đây. Nó đụng đến sự thật và lòng trung thực. Bạch Đằng viết
ông ta là trưởng tuyên huấn miền, ông đã “có bản thảo hồi ký này ở trước mặt”
và ông “rất lấy làm lạ tại sao (ông) phản đối mà nó cứ được in ra và còn in rất
nhiều nữa là khác.” (Tôi nhấn mạnh.)
Tôi hỏi chị
Nhu có cần tôi viết thư cho Trần Bạch Đằng không? Chị nói thôi, chỉ cần tôi xác
nhận giúp chị rằng hồi ký của Thuận là do Trung ương và cụ thể là Lê Đức Thọ, Tố
Hữu, Hoàng Tùng quyết định từ đầu đến cuối. Tôi đã viết. Nói rõ ngay từ đầu Thuận
đã xin kiếu. Do đó tôi không hiểu cái việc Trần Bạch Đằng viết ông “rất lấy làm
lạ” về chuyện ông đã phản đối mà Bất Khuất vẫn cứ được in văng te. Làm trưởng
ban tuyên huấn miền mà Trần Bạch Đằng không biết rằng anh ất ơ nào cũng ra lệnh
cho in bất Khuất được. Và in rất nhiều và bắt thanh niên cùng quân đội cả nước
học tập rộng rãi nữa. Và gã nào xui Song Hào mua cho quân đội 160.000 quyển
trong tổng số phát hành 210.000? Là cấp dưới nhưng ông Bạch Đằng lại coi ông
là người tối hậu quyết định những gì thuộc về tư tưởng, tuyên huấn vậy. Thật ra
ông Bạch Đằng chỉ cần minh bạch một chút tí teo rằng “bản thảo ở trước mặt
ông”, bản thảo ông cho khai tử kia là bản của L.V.S., nhà văn giải phóng thì
ông sẽ không phải trút bất bình phi thần thánh vào sách, lên án Nguyễn Đức Thuận,
làm khó bà Thuận góa và các con của ông bà.
Sáu Thọ, Tố
Hữu, Hoàng Tùng, những cấp trên của Bạch Đằng chắc chắn không có gửi bản thảo của
tôi vào để xin Bạch Đằng tối hậu quyết định rồi cũng chắc chắn không phải cho
xuất bản lén lút sau lưng Bạch Đằng.
Tôi kể ra ở đây
chuyện này vì lẽ thấy Trần Bạch Đằng luôn xuất hiện với diện mạo một nhà tư tưởng
dạy bảo mọi người sống và chiến đấu. Xin
thêm một chuyện minh họa chút nào quan hệ Sáu Thọ và Trần Bạch Đằng. Sau 1975
ít lâu, một lần Sáu Thọ mời vợ chồng Trần Bạch Đằng ăn cơm. Sáu Thọ bỗng nói:
“Nghe đâu cậu dạo này ăn nói lộn xộn lắm phải không?” Trần Bạch Đằng dĩ nhiên dạ
thưa đâu có ạ. Sáu Thọ bèn quay sang nói với vợ Trần Bạch Đằng: “Cậu này ở gần
bọn tôi thì khá chứ ở xa là dễ hư…” Lửng lơ con cá vàng. Nhưng hôm sau Trần Bạch
Đằng liền khăn gói ba lô lên vai ra Chu Văn An Hà Nội sống bốn năm ròng phòng
tránh… hư hỏng.
Khi chia tay
ra Bắc, Trần Bạch Đằng tâm sự với nhà văn A.Ð. Sau đó A.Ð. Kể lại cho Nguyễn
Khải và Khải cho tôi hay. Khải còn cho hay một lần Trần Bạch Đằng hỏi Khải cấp
gì, Khải nói đại tá thì Đằng nói: “Ơ, ở dưới tôi nhiều đến thế cơ nhỉ!”
2004 hay
2005, Mỹ tuyên bố giúp Việt Nam chống bệnh AIDS. Trần Bạch Đằng viết bài đăng
báo Phụ Nữ phản đối, nói ông nhục với chuyện này. Tôi viết cho ông – nhờ báo Phụ
Nữ đưa hộ - nói “ông thấy nhục hơi ít và quá muộn. Tôi từ lâu đã thấy nhục cả về
nghèo nàn lạc hậu. v.v. Trong việc từ thiện này nếu ông thấy nhục thật thì nên
xin chính phủ từ chối Mỹ giúp để nhường ông đứng ra kêu gọi những người giàu
trong nước, trong đó có ông, quyên tiền chữa lấy cho dân ta. Bệnh Nam hãy chữa
bằng tiền dân Nam”.
* * *
Viết “Bất Khuất” tôi không ký tên. Nhiều người
nói vì tôi là xét lại. Tôi không thể nói rõ lúc ấy tôi không ký vì không muốn
Hoàng Tùng, người muốn kéo tôi ra khỏi hang hùm những Mao - nhều Phan Quang, Hữu
Thọ bị nói này nói nọ. Và không chỉ không ký. Tôi đã từ chối tất cả các nơi mời
tôi đến nói chuyện về quyển hồi ký. Kể cả những lần Hoàng Tùng, Nguyễn Đức Thuận
ở bên cứ vun vào. Lý do là tôi không thích om xòm về chuyện viết quyển sách
này. Viện văn học mời Nguyễn Khải, Hữu Mai và tôi đến nói kinh nghiệm viết “người
thật việc thật”. Một hôm gặp nhau trên đường Hoàng Hoa Thám, Hữu Mai hỏi tôi
nói chưa, tôi bảo không. Vì sao? Vì không thích nói dối. Tớ không thích nói dối
mình ghi lại như cỗ máy từng chấm phẩy, chấm câu của người kể là anh hùng. Tâm
linh sâu xa có lẽ đã cảm thấy cái sự tầm phào rồi thì phải. Không chỉ thế, tôi đã ủng hộ gần hết nhuận
bút.
Một hôm,
sách sắp phát hành, Trần Thế Tuấn, biên tập viên nhà xuất bản đến bảo tôi: -
Anh Thuận muốn cúng hết nhuận bút của anh ấy cho Mặt trận Giải phóng miền Nam
nhưng nhuận bút của người kể thì ít lắm.
Tôi nói
ngay: - Thì đổi nhuận bút tôi sang làm của anh ấy, tôi đã lĩnh một ít lo cho vợ
con sơ tán, vậy xin hãy coi là tôi đã lĩnh hết phần. Thuận lái Volga đến báo rủ tôi cùng đến ký
tên váo Sổ vàng Mặt trận Giải phóng. Tôi xin kiếu.
- Nhưng có tiền của anh mà, mà tiền của anh là
chính chứ!
- Thôi anh ký cả cho là được rồi mà.
Vài anh em
lúc ấy bảo với nhuận bút thường tình lĩnh được, tôi mua bay hai căn nhà hai tầng
ở phố Huế. Thép Mới ở Bê (B, miền Nam) ra bảo tôi: - Tiền mày gửi khéo nứt mẹ
nó cả ngân hàng rồi đấy nhỉ? Tôi cười.
* * *
Lê Đức Thọ trực tiếp làm việc và làm việc nhiều
với tôi về hồi ký này. Hay gọi lên. Có lúc tôi ngỡ tôi là một nga đi là để ông
tạt vào kiếm chút gì đó khác với những cái ông luôn tắm mình ở trong. Ít ra ông
còn nghe được cái giọng điệu ông ít nghe thấy ở quần thần quen thuộc. Hay chuyện
phiếm. Có hôm cả quyết: thằng tù nào nói vào tù không khai là nói phét.
Tớ nói đấy
coi như tổng kết, có bằng chứng. Thằng nào cũng khai. Da thịt chứ sắt với đồng
chó gì mà nó quắng vải cứt vải đái ra lại không đau, mà đau lại không khai. Vấn
đề là ở khai làm hại nhiều hay ít thôi. Thế là vấn đề nảy ra từ đây: ai xác
nhận thằng tù khai hại nhiều hay ít? Cuối cùng lắc hay gật do một người: Lê
Đức Thọ!
Ân oán đều ở
một tay. Dĩ nhiên lúc đó tôi chưa lần ra điều này. Một lần Sáu Thọ nói đừng tưởng nhà văn các cậu
mới là kỹ sư tâm hồn nhá. Bọn tổ chức chúng tớ cũng kỹ sư tâm hồn. Tớ nói này,
sáng chủ nhật nào chúng nó cũng đến ngồi đầy ở phòng khách tớ, có đứa đem cả vợ
đến, mất thì giờ nhưng sau nghĩ ra mới biết chúng nó đến cốt là để mình nhớ
tên, nhớ mặt, ở đâu khuyết người thì mình nhớ nó mình đưa nó vào đấy. Thế nên
trông thằng nào là phải biết bụng nó thích gì, muốn gì, kỹ sư tâm hồn đấy chứ
là gì nữa? Hay như vợ con mình. Bà Chiếu lúc mới lấy nhau, mình mời bà ấy sô cô
la bà ấy chê, lại tưởng bà ấy cảnh vẻ nhưng rồi sau mới biết tạng bà ấy không
thích của ngọt.
Hoàng Tùng
hay hỏi tôi ông Sáu nói gì. Rất hồn nhiên tôi kể lại. Cả chuyện thằng nào tù
cũng khai. Bảo không là nói phét. Bảo có lúc phởn lên tôi đã định hỏi: “Thế Bác
nhà mình thì sao?” Một lần Hoàng Tùng tũm tĩm bảo tôi lên ông sáu tán gì thì
tán chứ đừng tán chuyện sợ vợ. Sợ vợ, tôi hỏi lại? Hoàng Tùng nói, tối nào đi ngủ
ngài cũng phải mắc màn. Vợ trẻ lại đẹp mà...
Một lần Thọ
khoác vai tôi đi vòng quanh sân. Nói: - Cậu viết giỏi lắm, tớ rất thích. Không ở
tù mà viết y như thằng đã ở tù, y như thằng đã bị xăng-tan nó tẩn. Nhiều nhà
văn tên tuổi viết không bằng cậu đâu. (Ông kể tên một lô ra nhưng tôi kể theo
thì tôi là thằng ngu!) Tớ sẽ nhờ cậu viết hồi ký cái đoạn tớ chuẩn bị tổng khởi
nghĩa rất hay. Tới đây tớ sẽ lấy cậu theo sang Paris đàm phán, làm báo cho đoàn
ta...
Nếu như
không có vụ chống đảng lật đổ, nếu như đầu những năm 1990, Lê Giản không nói
cho tôi biết Lê Đức Thọ đã ra lệnh thủ tiêu mười mấy cán bộ đảng viên Trung Quốc,
chắc có nhiều khả năng tôi sẽ viết hồi ký cho Lê Đức Thọ. Ca ngợi người đã giết
bố vợ tôi, ông ngoại con gái tôi, ca ngợi đao phủ đàn áp “xét lại.” v. v. Tôi sẽ
đeo nỗi nhục đó ra sao? Hú vía!
* * *
Nguyễn Đức Thuận được chọn viết hồi ký vì đảng
đang cần giáo dục tinh thần bất khuất, tiết tháo cộng sản trong lúc chính sách
của Ngô Đình Diệm tố Cộng, xé cờ búa liềm, xé ảnh Hồ Chí Minh gọi là ly khai tỏ
ra lợi hại. Có thể nói lúc ấy đảng bộ miền Nam đã tan vỡ lớn. Không thế mà đại
tá Lam Sơn theo Sáu Thọ vào Nam đã phản lại. Nấp trong Sở thú Sàigòn, chỉ bắt
Nguyễn Đức Thuận. Thêm nữa, đảng đang
chuẩn bị đánh Mỹ ở cả nước, cần ra Bất Khuất rồi phát động thanh niên, quân đội
học tập để đề cao tinh thần hy sinh, chịu đựng gian khổ, hăng hái lên đường vào
chiến trường. Ba thế hệ đẻ vào những thập niên 40, 50 và 60 đều học mệt.
Theo lời Hai
Khuynh, cựu bí thư Sóc Trăng rồi thư ký Nguyễn Văn Linh và cuối cùng tổng biên
tập báo Đại đoàn kết thì lúc đang rầm rộ li khai, xé cờ, tố Cộng (chính đảng
viên tố cáo cộng sản), Lê Đức Thọ ra một nghị quyết hình như là BCT/01 nói phàm
đảng viên li khai, chào cờ, tố Cộng là phải khai trừ. Nhưng bí thư Trung ương cục
miền Nam (Cục R) Nguyễn Văn Linh thảo một nghị quyết (hình như số 03) chủ
trương ai khai báo để tổn thất nghiêm trọng cho đảng và quần chúng thì mới bị
khai trừ.
Cho nên một
hôm Lê Đức Thọ bảo tôi rằng, Hai Khương, cũng nguyên phó bí thư Xứ ủy, sắp ra
Hà Nội, có lẽ cậu phải ký tên cậu để nếu Hai Khương chửi Thuận đã phê phán nó
li khai thì cậu đứng ra nhận hết thay cho thằng Thuận. Khương là người ở trong
tù tranh luận với Thuận về ly khai hay không đấy.
Hai điều bị
thắc mắc nhiều ở hồi ký là việc Thuận đứng đèn mấy nghìn oát và nhịn uống 18
ngày. Tôi đã phải nói cái này là do Sáu Thọ. Bắt phải giữ bí mật thủ đoạn của
anh chị em tù. Cậu viết là khi bắt đứng đèn, hai cảnh sát trong nhóm tra tấn
thường bỏ đi thì Thuận liền lăn ra chân tường, thằng cảnh sát còn lại không thể
vào ôm tù để giữ cho đứng đèn tiếp cho nên chỉ chửi bới với đấm đá thôi, cậu viết
thế chúng nó rút kinh nghiệm đem trói gô thằng tù vào ghế đặt vào dưới đèn thì
có chết chúng nó không? Còn khi tù tuyệt thực thì nhà tù cấm uống nước, lúc ấy
anh em tù thường muợn cớ đi làm cỏ vê ném vào cho những bao bố tẩm đẫm nước. Thọ
bảo cậu viết thế nó rào nghiến dây thép gai lại thì đám tuyệt thực chết hết!
Thanh minh
vì đó là sự thật. Và nay ở đây, tôi cũng muốn phơi trần ra một sự thật nữa tôi
dần dà thấy: Tôi bồi bút thực thụ. Bồi bút nên biết là sai vẫn nghe theo! Thà
nhận dốt khoa học còn hơn.
Một đồng đội
quan trọng của Thuận trong Chuồng Cọp là Phan Trọng Bình. Anh rất ngay thẳng, bảo
tôi trong tù bọn mình đâu có dám nhìn vào mặt chúng nó (chúng nó bảo thế là nhận
diện mai kia trả thù), bọn mình đều để râu tóc bờm xờm bù xù che kín cả mặt, thậm
chí có cả anh bôi cứt đái lên người cho chúng nó sợ bẩn không đến đánh. Nhưng
tôi, lời Phan Trọng Bình, xem kịch Nguyễn Văn Trỗi về đã bị mất ngủ cả đêm.
Chúng tôi làm cho mình xấu xí, bẩn thỉu, không dám cả nhìn mặt chúng cho khỏi bị
đòn là đúng hay hiên ngang quắc mắt chửi lại địch đôm đốp như Trỗi trên sân khấu
là đúng? Sau những giây phút hiên ngang anh hùng ban đầu rồi đầu hàng, thương
tâm lắm…
Về Sài Gòn
sau 1975, Phan Trọng Bình đã viết chạy dài hết hai trang giấy khổ giấy học trò
dòng chữ: Tôi, Phan Trọng Bình ra đảng!
Anh bảo tôi: - Không thể ở lại thêm dẫu chỉ một ngày. Bình đã leo đến bên chảo chì rực lửa của tôi ở
tận tầng 5 Nhà in báo Nhân Dân để “thông báo rằng tôi đã lấy vợ và cái sự anh
thương mà lo cho tôi thì nó ổn!”
Đã lâu trước
đó, một hôm chị Kỳ, vợ Văn Tiến Dũng nói cho vợ chồng Nguyễn Đức Thuận, Phan Trọng
Bình và tôi hay “các anh ở trên” đã mai mối mấy đám cho Bình. Nào là con gái chị
Th., 28 tuổi, nhưng có cái phốt vướng với một tay văn nghệ sĩ tập kết. Nào là
Nguyễn Thị Hằng, cô gái bắn máy bay nổi tiếng đẹp ở cầu Hàm Rồng. Cô này quá trẻ
và lại sợ người ta dị nghị tuy biết trách nhiệm mình là phải chăm sóc anh Bình.
Tôi sau đó có bảo Bình rằng có tuổi lại tù đày, sợ cái khoản kia không hợp với
vợ quá trẻ.
Tất nhiên
lúc khuyên Bình điều này, tôi không thể biết rồi Bình sẽ xin ra đảng còn Hằng
thì đường mây thăng thiên vào Trung ương đảng và nội các. Viết Bất Khuất, cố nhiên tôi không kể chuyện
Thuận nói trong khi đánh anh, nhiều cảnh sát gầm lên: - Thế này cũng chưa ác bằng
thằng Lý Bá Sơ của mày đâu. Những cái này là chúng tao học của thằng Sơ đây… Thì
ra tra tấn là môn khoa học và nghệ thuật có tính chan hòa giai cấp, cách mạng
với thực dân đế quốc, quốc gia với cộng sản đem truyền cho nhau…
Tôi cũng
không viết như Thuận nói, rằng trừ khi địch tra tấn ra còn nói chung cơm ăn nước
uống của tù rất khá. Mỹ cho mỗi tù mỗi ngày một đô-la ăn uống cơ mà. Thuận đã
so sánh cụ thể: - Ra đây tôi thấy cơm vụ trưởng không bằng cơm tù chúng tôi những
ngày không bị đánh đạp. Lại việc nhà báo Mỹ vào thăm tù xong viết bài lên án
chính phủ Diệm.
Một chuyện
tù Côn đảo nói lên sự phức tạp của con người. Mỹ Điền bảo tôi: - Mình có ông bạn
Tám Lái cũng tù Côn Đảo. Tám Lái nói trong tù anh em yêu thương nhau rất cảm động.
Chìa thân ra hứng đòn cho đồng chí, nhường nhau từng mẩu khoai mì… Nhưng khi
nhà tù cho ra ngoài sản xuất cải thiện đời sống, tức là mỗi người bắt đầu có
thu nhập riêng thì liền ghen tức nhau, tranh từng cục phân bón mà choảng nhau…
Tây nó nói
đúng: l’ homme n ‘est ni ange ni bête, con người chẳng phải thánh thần mà cũng
chẳng phải thú vật. Có một chuyện nghĩ đến
tôi lại ân hận. Một hôm sách đã đóng gáy, chỉ còn chờ dán bìa, Sáu Thọ cười cười
bảo tôi mang một quyển sang cho Trường Chinh. “chết, quên mất anh Năm, thôi, cậu
đưa bảo anh ấy duyệt nhé.”
Truờng Chinh
nhận sách, cầm xem, giở vài tờ rồi nhíu mày hỏi tôi: - Chỉ còn dán bìa là
xong?.
- Vâng. - Tôi cố nói càng ngắn càng tốt.
- Thế thì đưa tôi duyệt làm gì? Ngộ tôi không
bằng lòng ba trang mà bỏ đi thì các anh có thể để trắng tinh ba trang như bị kiểm
duyệt được không?
Bài học cuối
cùng về báo chí xuất bản anh cho tôi đây. Từ bài học đầu “ngày sinh nhật” đến
bài học này đã gần ba chục năm. Mà khoảng tôi xa cách anh có lẽ còn gấp ba thế!
Tôi vẫn nói
cụt lủn: - Vâng, anh Thọ bảo mang sang cho anh duyệt.
- Thôi được, anh để đấy tôi xem...
Mối thất
tình của tôi lớn quá. Gặp lại Trường Chinh tôi chẳng thấy gợn một xúc động nào.
Anh khen hay chê cũng thế cả thôi. Dắt
xe ra tới cổng, tôi bỗng nghe thấy Trường Chinh gọi ở sau lưng. Anh đã ngồi ở
ghế đá gần cầu thang tam cấp, dưới một bóng cây, ôm trong lòng một cháu bé một
hai tuổi.
- Anh Trần Đĩnh, cháu đích tôn này! - Trường
Chinh cười rạng rỡ.
Tôi lệt xệt
chân cố thong thả dắt xe quay lại. Đến trước mặt Trường Chinh, tôi cúi xuống
nhìn cháu bé nói lửng khửng:
- Hơi xanh, thôi ạ, chào anh tôi về.
Lại lừng khừng
dắt xe ra cửa thật chậm. Ý là tôi chán anh lắm. Bây giờ, ở trang giấy này, tôi thành thật xin lỗi người ông và người
cháu đích tôn. Tôi đã phản ứng sặc mùi cộng sản: oán hận dai bền. Hôm ấy Trường
Chinh có tình người hơn tôi. Nay tôi thật lòng xấu hổ. Nhất là khi đọc Cioran:
“Hận thù có thể khiến con người dũng cảm nhưng chỉ bao dung mới làm cho con người
có đạo đức.”
Tôi quay về
thuật lại chuyện gặp Trường Chinh với Sáu Thọ. Lê Đức Thọ cười như không có gì đáng ân hận hết: - Thì đã nói là quên mặt
anh ấy mà. Nhưng nay Trường Chinh biết sớm thì để làm gì?
Ba chục năm
trước, ở An toàn khu, chân Núi Hồng, Trường Chinh truyền cho chúng tôi kinh
nghiệm giữ vững khí tiết cách mạng. Cốt tử là không lùi. Lùi rồi là lùi đến hết.
Các anh đã đọc “Khi chiếc yếm rơi xuống” của Trương Tửu chưa? Đấy, người đàn bà
chống cự mãi nhưng khi đã để cho yếm tụt ra rồi thì thôi mất sạch. Tôi nhớ. Người kể chắc quên.
* * *
Viết Bất Khuất
tôi đã được hưởng không khí ca ngợi đặc biệt. (Tôi đi đường vẫn thấy người ở
trên hè thân thiện chỉ vào tôi cười nói gì với nhau. Kiểu như phụ nữ chân dài,
vòng một khủng bây giờ.) May sao tôi luôn cảm thấy ở sâu thẳm mình một tình ý
là: tôi muốn lánh cái không khí này. Và quả là tôi chưa hề vênh váo. Nhưng Trần Dần khen thì tôi thích. Đêm 29 Tết,
theo lệ, đến nhà Hoàng Yên ăn nhậu, trên đường đạp xe về, qua Chơ Mơ, đã rất
khuya, mưa lất phất, ngược gió bac đường ray xe điện có lúc như thủy tinh, Trần
Dần bảo tôi:
- Mày viết cái Bất Khuất ấy, tao thích cái
grammaire…
Tôi mừng. Dạo
đó, chúng tôi đang say sưa với cấu trúc luận, tín hiệu học thì grammaire, mẹo
viết là tất cả. Hãy để cho chữ phát nghĩa trong cấu trúc mới, trong gá ghép mới
giữa chữ với chữ. Trần Dần đã dịch un blanc cheval ra thành một con trắng ngựa.
Còn nhận xét
của Nguyên Hồng, Tô Hoài cũng thú vị. Chúng tôi uống bia Thủy Tạ, quầy cô Dinh
Gốc Liễu. Nguyên Hồng bậm môi vuốt râu nói: - Mày, Trần Đĩnh à, mày có tâm hồn,
mày có nghệ thuật nên mày viết cái ấy cho Thuận rất hay. Lúc có rượu Nguyên Hồng
thường bị cao giọng.
Tô Hoài tủm
tỉm: - Hay chính vì nó đã kéo tai các vị lên cho cao ngang với nó chứ nó đếch
cúi xuống để kính ghi, của này mà bẩm anh, em kính ghi anh đây thì hỏng.
Cuối 2002,
Trần Thế Tuấn, biên tập viên nhà xuất bản làm hồi ký Thuận mò đến nhà tôi. Mấy
chục năm xa rồi. Té ra rồi Tuấn cũng lao đao. Bị nghi là chịu ảnh hưởng xét lại
của tôi và kỳ thị, Tuấn bèn xung phong vào B5, vùng giới tuyến ác liệt.
Tôi nghe mà
thấy rợn. Nếu Tuấn vào B5 mà hi sinh thì chắc tôi ân hận lắm. Nay anh làm thơ.
Có in sách. Sống ở Sài Gòn. Thôi dù sao,
ở Bất Khuất, tôi đã bỏ qua được nhẹ nhàng hai cửa ải danh lợi. Tôi vẫn mong rồi
có một quyển sách của thật tôi, của chính tôi.
Viết Bất Khuất,
tôi không một lời chửi Mỹ, trong khi đặc trưng của văn học cách mạng là phải
tìm mọi dịp lên án nó, thằng đế quốc kẻ thù của loài người và nhân dân Việt
Nam.
Ngược lại,
tôi đã tước bỏ hết mọi màu sắc, mùi vị đề cao Trung Quốc ở trong cuốn sách. Với
cây bút của tôi, Nguyễn Đức Thuận không còn tôn thờ Lôi Phong, Lưu Hồ Lan nữa.
Trước khi làm việc với Nguyễn Đức Thuận, tôi đã bỏ ba buổi nghe hết băng ghi âm
bài nói của anh ở trường Nguyễn Ái Quốc. Rồi sau đó có một buổi làm việc khá
căng với anh. Tôi đưa ra ba ý kiến: một, viết hồi ký của anh, tất nhiên tôi tôn
trọng sự thật anh đã trải nhưng tôi được độc lập xử lý kinh lịch của anh theo
nhận thức và cảm xúc của tôi và anh hãy yên tâm, tôi đã làm như thế khi viết
cho Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm; hai, nghe anh nói ở Nguyễn Ái Quốc, tôi
thấy anh chỉ nhấn đến tinh thần quyết tử nhưng theo tôi, chúng ta cần ca ngợi cả
tinh thần quyết sống, bởi nếu chỉ quyết tử không thôi thì có lẽ chúng ta sẽ giống
như lính Lê Dương, tôi cần nói rõ như thế với anh vì tôi sẽ hỏi anh nhiều cái về
đời sống tình cảm yêu ghét của cá nhân anh (chính với tinh thần này mà tôi đã
viết Phan Trọng Bình có thói quen rằm nào cũng cố nhòm trăng sáng qua mái nhà
tù); ba, anh nói mỗi khi gần bên cái chết anh lại thấy Lưu Hồ Lan đứng ở trên đỉnh
vinh quang chói lòa giơ tay vẫy và anh thì cố gắng trườn lên, theo tôi như thế
mà vào sách thì không ổn một chút nào. Hiểu chuyện Thuận trong lúc thập tử nhất
sinh thấy Lưu Hồ Lan như tấm gương sáng cũng chỉ là sản phẩm của tinh thần noi
gương, học tập Trung Quốc mà xưa nay đảng ra sức giáo dục cho toàn đảng mà
thôi, tôi nói hơi mạnh: - Tôi nghĩ ở các bộ mặt Việt Nam, chúng ta không thiếu
hình tượng anh hùng để học hỏi đâu. Vả chăng tại sao chúng ta không đề cao một
anh hùng Việt Nam cho nước ngoài cũng học tập chứ? Kết quả Võ Thị Sáu đã ra mắt
thay cho Lưu Hồ Lan trong Bất Khuât. (Năm 2008 trong một quyển sách xuất bản về Nguyễn Đức Thuận, người ta đã
đăng một bài của Nguyễn Đức Thuận viết năm 1964: “Sống như Lôi Phong, chết như
Ruồi Trâu, Võ Thị Sáu.” Theo Bất Khuất, biên tập viên mới chỉ thay Lưu Hồ Lan bằng
Võ Thị Sáu chứ chưa tước bỏ Lôi Phong...)
Một điều cần
nói nữa: 1965, viết Bất Khuất tôi ngỡ lên án việc đày đọa con người. Thì hai
năm sau nổ vụ án xét lại và tôi là nạn nhân.
Và tôi bắt đầu lờ mờ nhận thấy ngoài bồi bút, tôi mang hai bộ mặt lệch
nhau: om xòm ở tư cách kẻ lên án và câm nín với vai tội phạm bị đàn áp man rợ của
chính bản thân.
(CÒN TIẾP)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét