Chương mười một
Tháng 5 năm
1959, đoàn báo Việt Nam sang thăm Trung Quốc, tôi gia nhập đoàn. Một sáng vào
Trung Nam Hải. Trung Quốc “giải phóng” Tây Tạng. Dalai Latma ngồi bò yak trốn
sang Ấn Độ, cổ tay đeo chiếc Rolex do Tổng thống Roosevelt tặng, thời cờ năm
sao chưa cắm trên đất Lhassa. Phong nhã, đẹp, Chu Ân Lai lên án và giải thích
chính nghĩa của Trung Quốc. Đều khách nước ngoài, phần lớn là các “nhà cách mạng”
thường trú Bắc Kinh.
Mãi sau tôi
mới hiểu lớp thực khách Xuân Thu Chiến Quốc đời mới này sẵn sàng hô vang khẩu
hiệu đại loạn của Bắc Kinh. Ở các hội nghị Á Phi chống xét lại, ở Hà Nội, các
chân gỗ không chằng không rễ chuyên đánh trống trận bằng mồm xúi thiên hạ loạn
li tơi bời này thuần chỉ có tác dụng thổi ống đu đủ và rồi đều bị quẳng vào sọt
rác hết.
Thình lình
Mao hiện ra. Cao lớn, trắng hồng, từ tốn. Đi như khẽ xê dịch, kiểu như biết
mình càng chậm thì người ta càng được ngắm nghía và người ta càng thích. Thong
thả ngả người ra ghế, một chỏm tóc sau gáy liền vổng ngay đuôi gà, nếp tóc nhờn
bết của những người ít tắm gội và nằm là chính.
Hai bàn tay
đặt trên thành ghế thật đẹp. Tôi nghĩ ngay tới các tối chủ nhật, Trung Nam Hải
thường đón các cháu nữ sinh Trường Múa đến khiêu vũ cùng chủ tịch. Hồng Linh
nói các bạn đi về bảo Chủ tịch thích ôm eo chứ không đỡ lưng.
Mao nói. Ngồi
nói. Nói ngọng vì giọng Hồ Nam. N thành L, R thành L. Thí dụ Hội phụ lữ Việt
lam lổi lận, - Hội phụ nữ Việt Nam nổi giận. Và s thành x.
Hôm ấy Mao mở
miệng chửi xà - lù (tiếng Pháp: salaud,salopard: đồ đểu - BT) thủ tướng Ấn Độ.
Dám cho Dalai Latma đến sống nhờ trên đất Ấn Độ mà không bắt giao nộp Bắc Kinh.
- Nie he lu, ta xi xen mo len? Ta xi ban len
ban gui dì, ban liu mang ban len xi tì... (Đúng ra phải là Nie he lu, ta shi
shen mo ren? Ta shi ban ren ban gui dì, ta shi ban liu mang ban ren shi di...
Nehru là người thế nào? Hắn là nửa người nửa quỷ, nửa nhân sĩ nửa lưu manh.)
Trước đó
không lâu Bắc Kinh ca ngợi vị nhân sĩ này là đồng tác giả với Indonesia của năm
nguyên tắc chung sống hòa bình. Khi xấp mặt thì bạn lớn đều hóa ra súc vật hay
côn đồ.
Định cắm cho
cái kim vào đít Khrouctchev và nay ôn tồn, thư thả rủa Nehru thế mà vẫn kêu gọi
toàn thế giới đoàn kết lại. Tôi bắt đầu ngán ông. Đơn giản từ khi tôi bập vào
bài tố cáo tội ác Stalin, từ lúc Mao công khai nói ra mẹo ác nhử rắn của ông…
Không đến gần ông để chụp ảnh. Chả biết Việt Nam bé tẹo thì ông coi ra cái gì,
tự nhiên vận vào đất nước mà thấy sờ sợ. Bỗng nhớ Cụ Hồ đã nói ai sai thì sai
chứ Mao Chủ tịch và Stalin thì không thể nào sai được.
Sau đó chúng
tôi xuống miền Nam. Thăm nhà Tôn Trung Sơn và Lỗ Tấn ở Thượng Hải, thăm mộ Tôn
Trung Sơn ở Nam Kinh. Ông lập nên Trung Hoa Dân Quốc với tấm hộ chiếu công dân
Hoa Kỳ ở trong túi - ngày nay người ta sẽ la làng lên là ông “diễn biến hòa
bình,” “tay sai đế quốc Mỹ.”
Rời Thiệu
Hưng quê Lỗ Tấn, chiếc Mercedes thẳng chiếu núi Cối Kê mờ xa phóng đi. Trên xe
Thép Mới bảo tôi: - Tao thích thơ mày, tao lăng - xê lên báo nhưng Ồng Kễnh gọi
bảo thơ Trần Đĩnh là kiểu Trần Dần, không được, tao đành thích thơ mày ở trong
bụng vậy. Khen vệ tinh nhân tạo đầu tiên mà mày viết ‘Con người ném gương lên
treo giữa các vì sao, ngửng đầu soi thấy mình đẹp quá’ thì Kễnh không xài được.
Con người chung chung là đếch được, chiến thắng vô sản lớn thế mà lại cho con
người trừu tượng vào... (Kễnh là Tố Hữu.)
Phản ứng tức
thì của tôi là tôi đếch cần Kễnh. Ơ kìa, ngày nào tai tôi nghe Kễnh bị Trường
Chinh nhận xét mặt như hai ngón tay chéo lại học đòi ngậm píp như Nguyễn Tuân…
Báo Nhân Dân
vừa đăng một bài thơ của tôi viết về những cao ốc mới mọc. “Xây những ban công
giữa trời và những vườn hoa trong óc...” Dưới chân cao ốc mới, một bà đẩy xe
nôi. “Anh cúi thơm má chú, rồi hôn vào gót chân, mai kia qua gót chú, anh hôn
các tinh cầu...” và Kễnh lắc.
Người chỉ dịu
đi khi thăm vùng chè Long Tỉnh. Những nương chè hai bên con suối Hổ Chạy - từng
hõm sâu dưới dòng nước, dấu vết chân con hổ chạy để lại. Trên đỉnh đồi um tùm
cây, một quán trà thô sơ kiểu cổ. Người phục vụ múc lên một bát sứ nước suối Hổ
Chạy chìa ra trước mặt chúng tôi.
Như có một sức
thần bí ở lòng bát, tự nhiên mặt nước phồng nổi lên thành một mặt kính sáng quắc
che đèn pha xe hơi. Người phục vụ đặt lên trên chỗ nước doi cao nhất một đồng
hào thiếc. Nó nổi và lênh đênh ngao du. Mặt nước có thêm cái nhũ hoa bỗng biến
thành một bầu vú lung linh…
Mấy hôm sau,
viếng mộ Phạm Hồng Thái ở Hoàng Hoa Cương, một phó tổng biên tập báo ta hỏi bạn
nhà báo Trung Quốc ở cạnh: “Chắc đồng chí liệt sĩ đây cũng quê ở Hồ Nam?”
Kiểu ở ta
thì Nguyễn Thái Học quê Nam Đàn.
* * *
Chia tay với
đoàn báo về nước ở Nam Ninh, tôi ngược Bắc Kinh cũng với chánh văn phòng Nhân
Dân nhật báo. Mấy hôm sau đến Văn Nghệ báo, cơ quan của Văn Liên (Hội liên hiệp
văn học nghệ thuật) cũng quanh quẩn Nhân Dân nhật báo ở Vương Phủ Tỉnh thực tập.
Tôi muốn đi
sâu tìm hiểu văn học Trung Quốc và nhất là qua nó nhìn rõ hơn động thái chính
trị của đảng. Tại sao đảng lại hay cho sóng gió nổi lên trước ở trong văn nghệ?
Tại đây tôi
đã được thấy mặt các đại bút đại danh Trung Quốc như Ba Kim, Lão Xá, Mao Thuẫn,
Tào Ngu, Hạ Diễn. Báo đều kỳ mời các vị đến chỉ giáo tình hình và kế hoạch bài
vở.
Mỗi khi Lão
Xá nói tôi lại ngỡ ông đang trình tấu mẫu chuẩn tiếng Bắc Kinh ông cất gửi tại
Viện đo lường quốc gia. Nhìn ông và Ba Kim, tôi cố mường tượng ra dấu vết nước
Anh, nước Pháp hồi các ông bên đó, dạy học bên đó. Không thấy.
Lão Xá nom
quá sơ sài. (Thì cũng không một dấu vết nào cho thấy những ngày tháng đen tối
khốn đốn mai hậu của các ông. Ai ngờ nổi sau này Lão Xá bị Hồng Vệ Binh đánh chết
quẳng xác ra ven một cái hồ ông hằng yêu mến. Ông nằm bên hồ, phủ một tấm chăn.
Người ta mời vợ ông ra. Bà toan vén chăn nhìn mặt chồng lần cuối thì người ta đẩy
bà ra: - “Xem có phải đúng là giầy chồng bà không? - Đúng! Thế hả, được rồi.”
Nhìn chồng lần cuối không được, chôn cất chồng không xong. Ai ngờ được trong mười
năm giam cầm, hành hạ, Ba Kim sẽ nhảy tưng tưng, giơ tay hét “Đả đảo Ba Kim" để
rồi sau này, hồi tưởng lại, ông phải kêu lên rằng ông có ăn cháo lú đâu mà có
thể há mồm hô đả đảo ngay chính mỉnh, có thể cam tâm để cho kẻ khác tước đoạt mất
quyền làm người của mình mà không hề có chút mảy may nào phản ứng… Diệp Quần, một
nữ biên tập viên coi mảng điện ảnh, hay tha tôi đến đại sứ quán Liên Xô xem
phim chiếu nội bộ và chả thứ gì lưu lại ấn tượng mạnh bằng bà biên tập viên văn
nghệ hết sức Tây phương. Tân kỳ, trẻ, xinh xắn và rất diễn viên, rất diện. Toàn
giầy da kiểu escarpin đế mỏng mầu sô cô la, đỏ, nâu, trắng... Sau này nghe vợ
Lâm Bưu là Diệp Quần, tôi giật mình: ngay ngày ấy tôi đã ngờ chị là vợ một cốp
to lắm. Cung cách sang trọng, điệu đà một cách hào sảng và tự tin như vậy ở Bắc
Kinh là phải có một bối cảnh chính trị lớn như thế nào.
Tôi có hai
anh bạn thân là biên tập viên của báo. Một hôm hai anh nói mai chi bộ các anh
nghe Chu Dương, Bộ trưởng tuyên truyền trung ương đảng truyền đạt một chỉ thị
quan trọng của Chủ tịch. Tôi đề nghị cho tôi nghe boóng. Các anh nói sẽ xin ý
kiến đảng ủy tờ báo. Chiều các anh bảo tôi trên Bộ tuyên truyền trung ương đảng
nói không nên vì tôi là đảng viên nước ngoài. Nhưng hứa sẽ cho tôi biết tinh thần
chỉ thị.
Hai hôm sau,
giờ cơm trưa, hai anh và tôi ra phố. Hai anh lộ ra cho hay cái chỉ thị có thể gọi
là chỉ thị “bom nguyên tử ném thì ném, không sợ!” Chủ tịch nói chúng nó cứ doạ
bom nguyên tử. Hòng buộc chân trói tay chúng ta lại mà. Việc gì phải sợ? Vì Mỹ
dẫu cho có ném xuống một nghìn quả bom nguyên tử, dẫu trái đất có bị tan hoang
đi nữa thì ít nhất cũng còn sót lại một huyện dân Trung Quốc, huyện dân ấy sẽ
đi ương lại giống người trên quả đất này...
Tôi rợn người.
Sợ cái tính toán chi li này hơn cả sợ bom nguyên tử. Cũng thoáng một chút ghen
tị: thế ra Trung Quốc sẽ được đi cấy tái giá lại giống người trên quả đất.
Trong khi những Lào, An - ba - ni thì trống huếch trống hoác còn Việt Nam may lắm
trời cho sót lại vài ba anh đực rựa vô dụng vì teo hết nhẵn hai hột tinh hoàn.
Chỗ nghe,
nghe sang tai, ở gần cửa hàng quốc tế, kiểu cửa hàng cạnh Phú Gia, Hồ Gươm Hà Nội.
Chỗ này đường bảy tám chục mét rộng, thoáng đãng, gần Vương Phủ Tỉnh mà tôi thấy
ngạt thở. Ở cửa hàng này tôi hay bị người coi cổng đẩy ra, nghi tôi đồng bào cải
trang giả làm nước ngoài vào mua lậu gấm với nhung đem ra bán lại. Một lần tôi
bảo anh ta: “Người Trung quốc chúng ta không có thói xấu nhận vơ là người nước
ngoài đâu đấy nhớ!” Anh ta ngẩn ra nhìn tôi. Tôi vào lượn một vòng quay ra nói:
“Kan, mei mai shen mo! Trông đấy, không mua cái gì cả. (Kỳ thật không có tiền.)
Hôm nay nhìn
nó tôi nghĩ mai kia toàn thế giới đều Triệu, Lý, Trương, Vương cả với nhau thì
hết sợ lầm đồng bào với dị bào.
Chuyện “chỉ
thị quan trọng” này về nước tôi có nói với Nguyễn Tuân. Tuân bảo các nhà văn ta
cũng được nghe Hoài Thanh truyền đạt là cho dẫu Mỹ có ném đến một nghìn quả bom
nguyên tử xuống cũng không sợ. Tuân bèn giơ tay hỏi thưa anh con số một nghìn
là anh phát trỉển lên hay vốn sẵn như thế ạ? thì Hoài Thanh đỏ mặt nói tôi nghe
truyền đạt của trung ương, có ghi sổ cả đây. Rồi Tuân bình:
- Này cái hệ thống loa dọc nhà này xem ra
thông suốt đáo để. Xa có đến năm nghìn, đến thế không? Ừ, xa có đến năm nghìn
cây lô mếch mà họ truyền đạt cấm có sai lấy cho nhau một con dê - rô...
Hai anh bạn ở
Văn Nghệ báo đã gíúp tôi gặp Lâm Mặc Hàm, phó bí thư đảng đoàn Hội liên hiệp
văn học nghệ thuật Trung Quốc; Hạ Kính Chi, phó tổng biên tập Văn Nghệ báo và
Trương Quang Niên, cây bút lý luận quan trọng của báo, thường ký tên Mã Tiền Tốt.
Ông đã cùng quân Tưởng vào Việt Nam ngả Lào Cai năm 1945, “cờ đỏ đầy Hà Nội lúc
bấy giờ, đẹp lắm,” ông bảo tôi.
Các ông có
lòng mời tôi dạo Di Hoà Viên. Trưa lên quả núi có Phật Hương Các, vào một khách
sạn ngồi ăn ngoài trời ngắm cảnh hồ nước, núi rừng...
Lúc bấy giờ
công xã nhân dân đã mạt kỳ. Nhưng “phong trào thơ xã viên” vẫn được nuôi. Mỗi
lao động mỗi sáng ra đồng đều phải nộp đủ chỉ tiêu bao nhiêu bài thơ (tuỳ đảng ủy
mỗi công xã đặt). Không nộp đủ thì về, ngày ấy không công điểm. Các báo ra xã
luận ca ngợi thiên tài thơ ca của nông dân. Thi nhau đăng thơ xã viên mà đặc điểm
là rất giống nhau. Ta là Ngọc Hoàng, Ta là Đại địa, Ta làm nên tất cả... Ta là
Lão Thiên, ta là Long Vương, ta đào núi, ta lấp biển. Ta là Đại hải, ta là Thái
dương, ta không sợ thánh thần cùng ma quỷ... Nếu là nhà thơ nhóc con thì Ta là
Na Tra...
Tức là một tập
hợp bách khoa toàn thư văn vần dành riêng cho một từ TA để cho toàn dân định
nghĩa. Ta là tinh tú, ta là sao chổi, ta là nguyên tử, ta là sấm, ta là sét...
Tựu chung vơ lấy mọi sức mạnh tự nhiên, siêu nhiên. Có một nét không ai dám ví
tới. Đó là không bao giờ nhận mình là đảng, là Chủ tịch, là ta bảo đảng tiến,
ta vẫy đảng đi. v. v. Còn được một chữ sợ làm trần cho mọi vi vu bay bổng. Nhận
mình là thiên địa rồi tự hào vì sức mạnh đó, ấy là lãng mạn cách mạng. Còn sau
đó ta theo ngọn cờ đào, ta theo Chủ tịch, ta san núi, ta dịch sông, ta là người
lính tốt của Mao Chủ tịch thì đó là chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Mao để ra
phương pháp sáng tác chủ nghĩa hiện thực cách mạng kết hợp với chủ nghĩa lãng mạn
cách mạng là nhằm phang chết tươi chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa Stalin bắt
Gorki soạn thảo.
Chúng tôi
hôm ấy đả phá sai lầm trong văn học nhưng không ai dám nói đến chữ tả khuynh.
Chữ ấy vẫn còn hào quang chói lòa và thiêng liêng của nó. Đặng Tiểu Bình chưa
ra mắt để tổng kết cách mạng Trung quốc chủ yếu là tả khuynh và thật ra chính tả
khuynh có hại hơn hữu. Lâm Mặc Hàm bạo nhất thì hôm ấy nói: - Proletkul, trò
văn hóa vô sản nực cười đã chết giấp ở Liên Xô từ những năm 20 thế mà người ta
lại đào mồ cho trỗi dậy ghê gớm như thế này ở Trung Quốc thì đáng sợ thật...
Hôm ấy chúng
tôi đúng là cùng một lứa chân trời phủ nhận. Đến Cách mạng văn hoá cả ba ông đều
điêu đứng. Tôi sớm hơn. Nhưng rồi cả ba lại tái xuất giang hồ khi Đặng hạ Mao
xuống. Hạ Kính Chi lên thay Vương Mông làm bộ trưởng văn hóa sau vụ 4 tháng 6
năm 1989 tàn sát sinh viên ở Thiên An Môn. Vương Mông phái tự do của Triệu Tử
Dương, Hạ Kính Chi phái bảo thủ của Dương Thượng Côn. Tới khi Dương Thuợng Côn
xuống thì Hạ Kính Chi lại thôi bộ trưởng. Dương phản đối Đặng Tiểu Bình, phản đối
Đặng đưa Giang Trạch Dân là dân sự lên chứ không phải nhà binh.
Nên nói một
ít đến Vương Mông. Năm 1957, ông viết truyện “có một ngưởi trẻ tuổi đến vụ tổ
chức.” Bị phê phán tơi bời. Bôi nhọ, đả kích công tác tổ chức của đảng... Đang ầm
ầm thì Mao phán là tôi đã đọc, quyển sách tốt đấy, in ra có sao. In nhưng người
liền biệt tích. Miền tây xa thẳm hàng chục năm trời chăn cừu cuốc đất cho tới
khi Đặng Tiểu Bình trỗi dậy hú hồn cho sống lại tất cả xét lại, hữu, đi đường
tư bản tái xuất giang hồ. Hồ Diệu Bang thảo kế hoạch nhân sự mới: Vương Mông
làm bộ trưởng văn hóa...
Những Hồ
Phong, Lâm Ngữ Đường, Hồ Thích, Lý Tông Ngô, Du Bình Bá… phản động đều được sạch
sẽ trở lại. Hồ Phong làm cố vấn cho Bộ văn hóa, nghe đâu tiền lương truy lĩnh
và bồi thường danh dự nhiều quá xá. Thấy đảng sòng phẳng, ăn tiêu ra người lớn,
Hoa kiều mạnh bạo rót tiền và chất xám về...
* * *
Di Hòa Viên
về, tôi viết thư cho Trường Chinh. Nhận xét đảng ta hay bắt chước Trung Quốc mà
Trung Quốc thì rất tả khuynh... Trường Chinh trả lời. Tự tay anh viết chữ Trung
Quốc (rất đẹp) trên phong bì. Cảm ơn tôi. Đề nghị tôi nghiên cứu thêm mấy vấn đề
như văn nghệ sĩ đi vào thực tế, chủ nghĩa hiện thực cách mạng kết hợp chủ nghĩa
lãng mạn cách mạng. Nói đã chuyển thư tôi sang Tố Hữu để anh ấy nghiên cứu. Cuối
thư viết tôi phê bình đảng ta “tắp lắp của Trung Quốc nhiều là rất đúng.”
Nguyên nhân vì sùng bái nước ngoài, vì trình độ lý luận thấp và vì kém tổng kết
kinh nghiệm.
Tôi không
nghiên cứu hai vấn đề anh đề nghị. Thấy vô bổ. Lúc đó tôi chưa biết Trường
Chinh đã bàn giao quyền tổng bí thư cho Lê Duẩn. Nghĩa là anh có thể nghĩ tôi
phê ta tắp lắp Trung Quốc quá xá là nói móc anh - như nhiều thân tín cũ của anh
đã quay dáo - nhưng anh tin tôi lòng thành yêu mến anh và hơn nữa biết tôi
không phải thứ người cạnh khoé.
Tháng 8, nhận
bằng tốt nghiệp, chuẩn bị về nước. Quá bịn rịn. Không chỉ với Linh còn ở lại
thêm vài tháng mà bịn rịn với cảnh với người Trung Quốc. Chi bộ họp phiên cuối
cùng rồi giải tán. Nhận xét tôi phải hết sức cảnh giác tư tưởng lập trường, về
nước tôi rất dễ phục vụ giai cấp tư sản như “bọn” Nhân Văn - Giai Phẩm. Rất tức
nhưng cố nín.
Nhà trường
biết tôi không có thứ đựng đồ đạc, chăn màn, sách vở đã mua cho một thùng gỗ
thông vừa đập hòm xong. Ra ga tiễn tôi có Hồng Linh, hai bạn biên tập viên và một
chị ở văn phòng Văn Nghệ báo. Chụp ảnh ở sân trường… Các anh chị, tôi không thể
nào quên. Giả như những năm sau đó các anh chị có hô lạc điệu đi nữa, tôi cũng
chẳng giảm tình. Nói thế thôi chứ chắc chắn các anh chị đều không thoát cảnh nạn
nhân. Từ ngày chúng ta quen biết nhau và thường loanh quanh vùng Vương Phủ Tỉnh
mỗi trưa, tôi đã biết các anh đứng ở đâu trong bảy “phản” mà cách mạng văn hóa
phải tiễu trừ rồi.
Trên tàu gặp
vợ chồng Hồ Bản Anh, phân xã trưởng Tân Hoa Xã Hà Nội. Nửa tháng sau, Hoàng
Tùng chiêu đãi họ, tôi dự. Bản Anh ố to một tiếng và như tụt mất cả kính trắng
kêu lên: - Thế ra là người Việt Nam? Tôi cứ tưởng người Trung Quốc!... Chui
cha..., tiếng Trung Quốc nói đẹp quá, shuo di ken piao liang... Lại tưởng người
Trung Quốc chứ... Piao liang là đẹp. Có thể tôi đẹp tiếng nói. Nhưng đẹp lời
thì không. Hai năm sau, tôi lao đao: ngọng lời Mao Chủ tịch. Người đã thành đại
giáo chủ, đầu tàu - gió - đông. Con chiên xóm đạo lẻ thường sùng đạo hơn con
chiên thành thị thì phải.
(CÒN TIẾP)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét