Chương mười lăm
Đầu 1960 tôi
theo Cụ ra Móng Cái. Bọn tôi - Đinh Đăng Định, nhiếp ảnh viên theo sát Cụ, hai
anh bảo vệ và tôi - đi lối Mông Dương, Ba Chẽ, Tiên Yên, Đầm Hà, Hà Cối. Cụ đi
máy bay lên thẳng do phi công Liên Xô lái - vừa lái vừa vực phi công ta. Vừa
trên máy bay xuống, Cụ ra thẳng nơi mít tinh. Sau mít tinh, kéo chúng tôi lượn
phố. Thăm xưởng gốm, trường học, lớp vỡ lòng lít nhít. Viết lên bảng đen chữ
nhân Trung Quốc rồi hỏi bằng tiếng Tàu bản địa, tức tiếng Ngái (hay Khách Gia gốc
gác tỉnh An Huy mà ta gọi lan sang tất cả người Tàu là chú Khách): - Trây sấn
mà chề? Đây là chữ gì?... Đi một đoạn ngắn dọc sông Ca Long, sắp đến cầu Bắc
Luân, Cụ chỉ vào một ngôi nhà phía bên kia đường nói với tôi đi bên cạnh: - Ở
nhà này ngày xưa có một chị bí thư chi bộ.
Tôi ngợ
ngay. Có quan hệ tình cảm gì với Bác? Thầm mong là có. Đồng thời nghĩ: Thế ra Cụ
đã từng ở Móng Cái? Năm nào? Chị bí thư kia phải là của chi bộ Đảng cộng sản
Trung Quốc? Vì đến 1930 mới lập Ðảng cộng sản Việt Nam. Cụ qua đây bao giờ? Dạo
đến Macao thống nhất Ðảng? Bao nhiêu thắc mắc nhưng không dám hỏi. Một chi tiết
nữa: không như ở nơi khác, tại sao đến đây Cụ đi chơi phố nhiều thế? Xem vẻ Cụ
có đặc biệt với Móng Cái hơn? Khéo đã ở đây thật?
Ông Cụ rẽ
lên cầu Bắc Luân. Đến giữa cầu có một vạch sơn đỏ cắt giữa cầu. Hoàng Chính, bí
thư Quảng Ninh nói:
- Thưa Bác, đến đây hết địa phận nước ta. Sang bên đó phải
có giấy ạ.
- Bác không
cần giấy, miệng nói chân xăm xăm bước sang đất Trung Quốc. Bọn tôi năm sáu người
theo sau.
Lúc đó không
dám vượt biên sang Trung Quốc, sau này Hoàng Chính lại bị tù vì “thân Trung Quốc.”
Cụ bảo hai
công an Trung Quốc ở đầu cầu bên kia gọi huyện ủy Đông Hưng ra gặp Hú puổ puồ
(Hồ bá bá) rồi ngồi phệt xuống vệ đường lượn thoai thoải ở chân cầu. Loáng sau,
một xe đầy phè huyện ủy Đông Hưng phóng như bay ra. Ông Cụ bảo tôi Bác hỏi kinh
nghiệm nông nghiệp, họ nói sao, chú ghi lại cho Bác.
Trưa, Vũ Kỳ,
Nguyễn Chánh, Nhữ Thế Bảo, bác sĩ riêng của Bác, Đinh Đăng Định nhiếp ảnh gia
và tôi sang Đông Hưng, cái thị trấn mọi nhà im ỉm đóng. Dân đi lao động ở đồng
ruộng hết. Vào vườn hoa có mỗi con gấu đói lờ đờ ngủ gật. Nguyễn Chánh kể một
hôm qua một cây cầu gỗ bập bênh, Bác bị đầu ván cầu quật phải chân bong mất
móng ngón cái.
Bác hỏi bảo
vệ đi cùng ai có thuốc lào cho một nắm, nhất định không thuốc đỏ thuốc đen gì.
Miệng nói cái móng này nó chết từ 1924, nay mới chịu rời Bác đây. Ngày ấy Cụ xếp
hàng cả ngày chờ vào viếng Lê-nin mà không ủng không bít tất len, chân lạnh quá
xưng tấy lên và chết mất một cái móng... Một ai đó nghe xong hỏi, hơi bất bình:
- “Sao? Đệ tam đâu? Bác là nhân vật quan trọng của Quốc tế mà lại thế?” Không
ai, cả tôi, biết lãnh tụ ta mới đến Nga xin vào học trường dạy làm cách mạng…
Xẩm tối hôm
sau Cụ về Hà Nội. Chúng tôi ra sân bay tiễn. Trong bóng tối lờ mờ xứ địa đầu,
chiếc máy bay lên thẳng bé như một chiếc lồng chim quý mà các kính cửa lấp lóa
như nước trong cóng sứ. Sắp lên máy bay, Cụ dừng lại hỏi tôi:
- Có muốn về với
cô ấy không? Tối thứ bảy mà. Muốn về Bác cho bám càng này... Nào!
Cười thú vị
quặp can vào nách lên máy bay, hai tai lồng bồng trắng hai cục bông to tướng...
Ít lâu sau
đi Lạng Sơn. Chúng tôi lên chiều hôm trước.
Tinh mơ sau, ra sân bay đón thì được cấp báo thời tiết xấu, Bác lên đường bộ.
Chúng tôi bèn quay ngay ra Đường 1. Một trung đoàn lập tức được rải ra từ Bắc
Giang lên thị xã Lạng Sơn.
Khoảng tám
giờ sáng, Cụ đến tỉnh ủy. Vừa đặt chân lên hiên văn phòng, Cụ hỏi luôn “có được
điện báo không? Đồng bào đâu?”
- Dạ, đồng bào ở sân vận động, - bí thư tỉnh
nói.
- Sao không cho đồng bào tạm giải tán? (Giọng
bắt đầu gắt, mặt nhăn lại) Đồng bào còn phải ăn phải nghỉ chứ?
- Dạ thưa Bác đã chuẩn bị đủ cả.
- Nhưng còn ỉa đái? (Giọng sẵng bẳn hẳn lên)
Thôi đi... (Bụi đỏ trên trán lăn nhanh xuống má, vào chòm râu như những sinh vật,
những dã tràng đỏ sợ hãi lẩn trốn, tôi thầm nghĩ. Tay Cụ vơ lấy chiếc khăn mặt
ướt Vũ Kỳ vừa nhúng vào thau nuớc vẫn chờ cạnh đó lau vội một vòng lên mặt rồi
vội vã đi ra sân vận động).
Trên lễ đài
ván gỗ rất rộng mới dựng, đúng ba người: Cụ, Chu Văn Tấn và tôi lui lại đằng
sau. Cụ đằng trước đầy kín bà con ở toàn tỉnh vượt núi non sông suối về. Tôi chợt
thấy từ ngày 7-3-1946 đến nay, mười bốn năm trời, về khoảng cách không
gian, tôi chỉ gần Cụ hơn có một bước hợp pháp so với cậu thiếu niên lần đầu
tiên ở sau Cụ là tôi. Hôm ấy Hải Rỗ Bát Đàn và tôi leo hông Nhà hát lớn vào đứng
ngay sau lưng Cụ đang ở ban công giải thích Hiệp định 6 tháng 3 với nhân dân Hà
Nội mít tinh kín quảng trường bên dưới. Quân Pháp sẽ vào Hà Nội. Nhiều người thắc
mắc, thậm chí phản đối Cụ ký. Thép Mới sau này bảo tôi Trần Huy Liệu lúc ấy nói
với Cụ rằng sợ ăn cứt như Câu Tiễn cũng không được độc lập... Cụ giơ một tay
lên hạ mạnh xuống như chém không khí nói: “Hồ Chí Minh chết thì chết chứ không
bán nuớc!” Cánh tay kia cầm chiếc can và chiếc mũ cát kaki buông thõng bên người
nom tự nhiên côi cút lạ lùng. Tôi cảm thấy có nước mắt nghẹn ngào trong tiếng
nói trọ trẹ thoáng run run của Ông Cụ.
Bây giờ trên
lễ đài này, tôi hết cảm giác ấy. Dân nay là con, cha già là Bác. Và tôi cảm động,
cho đó là xoay vần tất nhiên theo tiến bộ của cách mạng Giữa chừng mít tinh, trời thình lình đổ mưa sầm
sập rất to. Chu Văn Tấn xòe ô ra che cho Cụ. Cụ gạt đi. Tấn lại dấn ô vào. Cụ
hơi gắt: “Còn đồng bào.” Tấn giậm mạnh chân, cao giọng lại: - Bác khác! Nhưng
phải giải tán.
Xuống khỏi lễ
đài ra cửa sân vận động thì mưa tạnh. Xe lăn bánh liền phải dừng lại: dân nhao
nhao xúm đến đen đặc quanh xe. Mấy anh bảo vệ và tôi leo lên nắp mũi xe, tựa
vào kính chắn gió, lấy tay lấy chân khỏa gạt người ra rẽ lối. Tôi ngoái lại
sau: Cụ chống can hơi chúi đầu về truớc, con mắt lo lắng, bồn chồn. Cụ sợ đồng
bào xéo lên nhau chết như dạo ở Thái Bình? Hay Cụ sợ một quả lựu đạn phát nổ?
Nhìn Cụ tôi bất giác nghĩ tới khả năng ấy. Và chợt gặp lại vẻ côi cút ở cánh
tay Cụ buông thõng cầm mũ và can, cái ngày mới độc lập chừng sáu tháng, dân còn
được coi như bố mẹ đang xét nét đứa con lưu vong lâu quá mới trở về. Lần này là
côi cút trong mắt Cụ.
Nay viết đến
đây, tôi bỗng thấy Chu Văn Tấn quá tiên tri. “Bác khác!” Đúng, Bác bị Ðảng coi
là chống Trung Quốc còn Chu Văn Tấn thì bị đảng nghi là thân Bắc Kinh.
Chuyến đi Mỹ
Đức, Ứng Hòa - Hà Đông hoàn toàn “đột kích”. Xe vừa ra khỏi Cổng Đỏ rẽ lên
Hoàng Hoa Thám, Vũ Kỳ cười bảo:
- Hôm nay cánh bảo vệ rông đi tìm Bác phải biết
đây.
Cụ đi bộ rất
nhanh. Phải rảo cẳng mới kịp Cụ. Đảo hết khoanh đồng này sang khoanh đồng kia.
Đang cữ làm cỏ, tát nước. Những tràn ruộng đang phơi ải. Cụ tát nước với một tổ
đổi công. Mới chỉ mon men làm thử vài điểm hợp tác xã. Đằng xa xanh thẳm một nền
truyền kỳ dãy núi Chùa Hương.
- Mỹ Đức, Ứng Hòa là gì? - Cụ hỏi bà con rồi
nói luôn. Là sống tốt, đoàn kết tốt, lao động tốt.
Xe quay đầu
về. Dân tíu tít chạy theo đen ngòm chân đê, sườn đê, mặt đê, các tràn ruộng… Chợt tôi khựng người. Trên một thửa ruộng ải,
Trần Châu tay sổ, tay nhặt giép tụt đang ngửng lên cười. Cười với một cái gì rạng
rỡ ở cao hơn nữa, ở xa hơn nữa. Tôi né vào sau Vũ Kỳ và Vũ Đường, chủ tịch Hà
Đông đang mải trêu Cục trưởng bảo vệ Kháng “hai phòng” ngồi cạnh lái xe.
Cái trật tự,
tôi (Trần Đĩnh) là em trên xe với lãnh tụ, còn anh (Trần Châu) dưới đất với dân
thế này tôi thấy khó coi quá. Sau đó, Châu bảo mình đang ở huyện, anh em huỵện ủy
chạy ra mình cũng ra thì thấy Đĩnh, mình cười là muốn cho Đĩnh biết mình đã
trông thấy. À, ra thế, tôi nhẹ hẳn người. Cứ thấy anh ngước lên một cái gì rất
cao mà cười.
Lần đi thăm
gang thép Thái Nguyên, tôi mới đối mặt Lim, người tôi luôn nghe thấy dính đến
tính mạng bố của Hồng Linh. Lúc này Lim là đảng uỷ viên phụ trách bảo vệ ở khu
gang thép. Trong các cuộc đón tiếp Cụ, tôi thường vào một góc kín ngồi. Nguyễn
Khai, chánh văn phòng trung ương, trung ương ủy viên lặng lẽ đến đặt một vại
bia trước mặt tôi.
Thấy thế,
Lim đến mời tôi ra ngồi chỗ quan khách. Bảy năm trước Lim bắn “phát ân huệ” cụ
Cử Cáp cũng ở Thái Nguyên, đôi bốt lục phục ở chân như một lệ bộ khiến người đi
nó được phép nổ súng vào ai cũng được. Hôm nay bất giác tôi tránh nhìn mặt ông.
Thì nhìn phải bàn tay: cái vật thể cuối cùng mà chắc bố Linh trông thấy trong
giây phút cuối cùng!
Tôi vụt ngỡ
như cách bao nhiêu năm mắt hai bố con đã gặp nhau ở cùng một điểm: bàn tay, nó
đang lồng trong mỗi yên vì một người và đã lạnh lùng xóa mạng một người. Tôi lảng ra hè. Cả một vùng rộng bao la trước
mặt, phu phen đào bới, gồng gánh, cuốc xúc và những cỗ xe ủi chạy nhớn nhác...
Một tổ kiến bận rộn gậm nhấm cho thành khu gang thép. Chợt nhớ ai nói Trần Dần,
LêĐạt đang lao động cải tạo trên này... Thì cũng chợt thấy chẳng nên tin cái
người dạo nào trên xe lửa liên vận nói “anh Lim lấy búa bổ vào đầu bố Hồng
Linh.” Tin thì làm gì? Và làm được cái gì? Phân vân kèm một cảm giác khó chịu.
Nhưng nay cần nói thêm là các thứ lúc ấy rút lại cũng chỉ cốt để bảo vệ uy tín
đảng!
Sau bữa cơm
trưa, thấy Cụ quần áo cánh nâu đi vòng ra sau dẫy nhà tranh đến rặng chuối thay
hàng rào, tôi đi theo. Cụ thuốc lá ngậm miệng, tay vén ống quần lên đái. Thấy
tôi gần như ở ngay bên, cụ quay ngoắt lại hỏi, điếu thuốc khẽ lật bật ở môi:
“Người ta đái cũng theo à?” Không ạ, cháu...” Thế đứng sát vào người ta nhòm
gì?” câu tra hỏi đùa bỡn đã đóng một dấu ấn phơi phới vào quan hệ bác cháu. Lúc
Cụ quay người lại để đùa với tôi, tôi theo bản năng đã có một động tác không thể
tránh khỏi: liếc nhanh vào chỗ kia của Cụ. Và chỉ thấy vùng ấy hơi tôi tối -
nâu nâu hay hồng hồng? Ô, cũng như mọi người?
Chiều ấy,
khoảng bốn giờ về tới Chủ tịch phủ, tha thẩn ở sân chờ lấy xe đạp gửi các chú
lính gác, tôi bất thần nhớ tới Xuân, cô “con gái nuôi của Bác.” Hỏi mấy người đứng
tuổi nom có vẻ quen từ trên rừng. A, cô Xuân ấy hả? - Lấy chồng rồi. Chồng lái
xe. Nhưng chết rồi! - Ố, sao trẻ thế mà chết? - Về quê Cao Bằng bị ô tô đè... -
Khổ, sao lại thế! tôi bàng hoàng kêu lên. Lúc ấy chưa biết các tình tiết đồn
quanh cái chết tang thương này.
Đôi mắt bừng
bừng nhìn tôi hôm nào khi Xuân đứng cạnh Cụ, đôi mắt như dứ bảo tôi “em giới
thiệu anh với Bác nhé?” bỗng hiện lên lại rành rành, nguyên vẹn ánh long lanh
vì sung sướng, vì được khoe, vì được chòng ghẹo. Và bàn tay mềm tôi nắm dắt lên
bờ suối cao trơn. Khác là đằng sau con mắt ấy hiện nay là tòa nhà Phủ Chủ tịch
chứ không phải gian nhà ăn tre nứa trống tuềnh toàng...
Cái chết của
cô gái ba mươi tuổi hồng nhan bạc mệnh khiến tôi thấy chả cần viết tắt tên là
X. như trên kia nữa.
Tôi lấy chiếc
xe Diamant Đông Đức mua bằng tất cả tiền nhuận bút tiểu sử Hồ Chí Minh. Các chú
lính đem xe ra nghịch làm tuột hết bộ tăng tốc độ. Tôi phải dắt bộ đến tận vườn
hoa Hàng Đậu mới có một cửa hàng chữa xe đạp. Hà Nội bắt đầu xua dẹp tiểu
thương, tiểu thủ công, mầm mống của chủ nghĩa tư bản.
Phải nói chiều
ấy tự nhiên buồn khó tả. Những ngẫu hợp kỳ quặc. Tối đó lúc đi qua cột đồng hồ
Bờ Hồ, tôi đã chậm chân lại nghe tiếp âm Đài phát thanh Bắc Kinh.
Lúc bấy giờ
ta cho hai ông anh trong phe tiếp âm, Bờ Hồ có thể nói là tổng phát hành của
hai đài. Dân có thú giải trí duy nhất rẻ và mát là ra ngồi nghe hai ông anh tự
khen tài giỏi rồi bắt đầu chửi nhau... Tối nay cái giọng mũi rất khê, rất trịch
thượng ta đây của Đài Bắc Kinh chợt đập khác thường vào tai tôi. Nó đang đọc xã
luận kỷ niệm 90 năm ngày sinh Lê-nin: Chủ nghĩa Lê-nin muôn năm của Trần Bá Đạt,
phát pháo đầu tiên công khai chửi Khroutchev và Liên Xô phản bội người thày,
người cha của cách mạng vô sản thế giới.
Trước động đất
lớn, giống vật thường biết trước và bồn chồn lo lắng. Tôi lại bực mình. Không
biết chừng cùng với bài viết lẫy lừng này, Trần Bá Đạt còn xếp cả Lưu Thiếu Kỳ,
Đặng Tỉểu Bình, gần hết Bộ chính trị và các nguyên soái vào sọt “xét lại” để trừ
khử. Và ngay lúc ấy cũng đã xếp loại cả xét lại ở Việt Nam. Bản thân họ Trần
thì không biết mười lăm năm sau ông ra tòa nghe án chết. Bài học điên đảo này
hình như ít người thấy và coi trọng.
Ít hôm sau,
đọc báo Pháp, thấy viết: đầu năm 1960, nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh Lênin,
Trung Quốc mở màn phê phán toàn diện Liên Xô. Nhưng Trung Quốc rất cô lập, ở
châu Âu chỉ có Anbani ủng hộ, ở châu Á chẳng có ai, Mao Trạch Đông đang nghĩ
kéo Việt Nam.” có mà kéo được khối.” Tôi lẩm bẩm nói một mình và nghĩ đến cái
lá chắn vững vàng là Cụ Hồ.
Báo Le Monde
Pháp vẽ một tranh châm biếm cảnh Xô - Trung chửi nhau trên thế giới: Marx râu xồm
phất cờ kêu gọi “vô sản toàn thế giới buông rời nhau ra!” , bên dưới vô sản chạy
tung tóe đi bốn phương như kiến vỡ tổ.
Bức tranh
quá hay, nó khiến tôi phải tự hỏi: “Sao họ tinh quái biết moi chỗ vô sản khinh
ghét nhau thế này ra thể hiện mà Ðảng thì không biết? Nên tối đến Ðảng vẫn mở
cho dân ngồi Bờ Hồ nghe đài hai ông anh túm lấy nhau chửi bới hết ruột hết gan
vô sản!”
Rồi đọc Karl
Popper bác bỏ chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít trong một hội thảo từ 1937
thì nhận ra chủ nghĩa duy vật biện chứng của Marx chính là thứ thuốc mê gây ảo
tưởng chủ quan, lạc quan tếu, viển vông nhất vì người ta ngỡ có nó thì người ta
nắm được quy luật đi lên của xã hội. Ôi thôi! đã nắm được gáy tiến hóa rồi thì
chả cái gì làm niềm tin lung lay được nữa. Một dạng thuốc lú sao?
Từ cuối
tháng 5 đầu tháng 7, tôi phải đọc biên bản một số đại hội đảng bộ các tỉnh, rút
lấy các vấn đề chính rồi tập hợp lại báo cáo với Lê Duẩn đang chuẩn bị gấp đại
hội toàn quốc lần thứ ba (5 đến 10/9/1960)
Tôi còn giữ
thư Võ Chí Hữu, thư ký của Lê Duẩn gửi ngày 18-7, nói chúng tôi hoàn thành
nhanh báo cáo tình hình các đại hội tỉnh thảo luận báo cáo chính trị để cuối tuần
anh Duẩn nghiên cứu.
Chiều chiều
lên số 8 Hoàng Diệu làm việc cùng Hoàng Tùng, Trần Quang Huy và mấy thư ký của
Duẩn. Chúng tôi ngồi đâu đấy thì Đặng Tất lại ôm hộp chè Trung Quốc như ôm một
ông phỗng sứ Phúc Lộc gì đó ra rao to: - “Chè Long Tỉnh Bác Mao tặng đây!” Rồi
tiếng mành trúc khẽ reo. Lê Duẩn pi-gia-ma lụa mỡ gà đi ra…
Thật sự là
ngồi cả đống lại nghe Lê Duẩn nói. Ông không bận tâm tới ý người khác. Các tỉnh
họp bàn gì, kiến nghị gì ông không cần biết. Chúng tôi là những mặt người giống
như các vách hang đá cho ông thử nghiệm độ vang của lời ông.
Tôi đã phản ứng
dại. Thấy ông nói hơi nhiều và hơi rối trong diễn đạt, tôi bèn nêu ra ý kiến của
một số đại biểu ở đại hội Nghệ - Tĩnh phản đối luận điểm của Lê Duẩn cho rằng ở
Việt Nam, khác với Marx, quan hệ sản xuất tiến bộ hơn sức sản xuất.
Lê Duẩn cáu
tức thì. Hai con mắt càng xáp lại gần nhau, tiếng nói càng ríu lại. “Tôi đã nói
nhiều lần rồi mà sao cứ cố hiểu sai ý tôi mà nói mãi…? Marx..., Marx... Ở đây
có ý gì?” Hai mắt tự nhiên chằm chằm, xoay xoáy lại.
Sau đó tôi học
Hoàng Tùng, Trần Quang Huy, Nghĩa là chỉ nên nghe thôi. Cúi đầu xuống. Tránh
nhìn cả vào mắt người diễn giải. Chính người ấy cũng không thích ai nhìn thẳng
vào lại mắt mình, tôi nhận thấy. Hai vị đang chờ đại hội để có thể vào Trung
ương. Tôi không có lợi ích nào nên không dễ nín lặng.
Lê Duẩn nhiều
ý lạ. Một hôm ông nói “ở ta không có tinh thần lãnh tụ. Phương Tây hễ lãnh tụ tới
đâu là quần chúng quây lấy, có khi công kênh lên nhưng ở ta không thế. Tôi đến
Văn phòng Trung ương, mọi người lại tránh xa, như ngại đến gần thì mang tiếng cầu
cạnh. Không được. Lãnh tụ và quần chúng phải có quan hệ máu thịt quấn quít...”
Tôi lập tức
nhớ tới những lần dân chạy theo đen ngòm đằng sau Cụ Hồ. Rồi thầm cãi trong đầu:
đâu bằng được dân ta với Cụ Hồ? Nhưng sao Duẩn lại không nhìn dân với Bác Hồ mà
lại đi lấy mình ở tư cách lãnh tụ để soi xét cán bộ gần hay xa. Còn anh em Văn
phòng Trung ương tránh Duẩn là vì họ còn nặng tình với Trường Chinh... Và sao
Duẩn lại chỉ tính trường hợp của mình ông, người Nam bộ ra ngoài Bắc này đã mấy
ai biết ông?
Một chiều Duẩn
phàn nàn rằng ông đã bảo thành ủy Hà Nội làm bàn ghế, giường tủ bán chịu cho
công nhân viên, trừ lương hàng tháng hay trả dần nhưng họ không nghe. Duẩn nói
“Tôi hỏi thì nói không có tiền. Kìa, không có thì in ra! In ra! Không sợ lạm
phát! Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát chứ ta, chuyên chính vô sản thì sao lại
là lạm phát mà sợ?”
Tai nghe, đầu
tôi cho vẽ lên ba cái dấu hỏi to thù lù...
Có lẽ từ đấy trên báo, chữ lạm phát của ta được thay bằng cụm từ “thu
không đủ chi”. Rồi “thất nghiệp” thay bằng “sức lao động không được huy động
đúng mức”, khuyết điểm thì thay bằng “chưa theo kịp yêu cầu”, sai lầm thì thay
bằng “chưa nắm bắt đúng quy luật...” Giữ trọn được hình ảnh sáng ngời của đảng
thì từ ngữ đất nước bị nhập nhằng đi mất một số.
Về chuyên
chính vô sản, Duẩn ngắn gọn vô cùng. “Người ta lầm là Marx đề ra đấu tranh giai
cấp. Không, nhiều người đã nói cái này trước Marx rồi. Vậy phát kiến vĩ đại của
Marx là gì? Là đầu tiên nêu ra chuyên chính vô sản. Thế nào là chuyên chính vô
sản?” Rồi Duẩn cười cười đưa cạnh bàn tay lên ngang cổ nói: “Là như Jacobins thời
Đại Cách Mạng Pháp. Giết, thủ tiêu, bạo lực...” Hai bàn tay xoè ngửa ra hai
bên.”
Đấy, có thế
thôi!” đơn giản, sòng phẳng, dứt khoát.
Một tháng làm việc này không để lại trong tôi một ấn tượng, một nhận thức
tích cực nào về Lê Duẩn. Tôi hay vẩn vơ nghĩ trở lại tại sao Lê Duẩn lại chỉ thị
báo Nhân Dân khi tuyên truyền các tổng bí thư của đảng thì cần nhớ đề cao Nguyễn
Văn Cừ, người tổng bí thư xuất sắc nhất, hơn cả Trần Phú. Tự nhiên hình thành
qua cách nói của Duẩn một thứ hạng Nguyễn Văn Cừ, Trần Phú. Còn Trường Chinh ở
đâu thì Duẩn không nói. Tôi lờ mờ nghĩ nếu Cừ xuất sắc nhất thì hóa ra Nam Kỳ
khởi nghĩa thất bại lại hay hơn Cách mạng Tháng Tám của Trường Chinh ư? Suốt thời
gian làm việc với Duẩn tôi không thấy ông nhắc đến “Bác Hồ”. Khi Duẩn kêu ca đảng
viên ta thiếu tinh thần yêu mến lãnh tụ, ít vồ vập lãnh tụ, Duẩn không biết Cụ
Hồ được tung hô thế nào mà chỉ thấy ông ta bị lạnh nhạt mà thôi sao?
Còn tôi
không ưa Duẩn lắm vì tôi còn yêu Trường Chinh. Với tôi, anh có thể làm tổng bí
thư suốt đời. Tôi biết hồi 1948 Trường Chinh đã có thư nhận xét xứ uỷ Nam Kỳ và
Lê Đức Thọ mang vào nhưng tôi không biết bản nhận xét đã làm cho Lê Duẩn khóc rất
nhiều. Chính Mai Lộc cho tôi hay. Lê Duẩn lúc ấy đóng tại nhà vợ thứ nhất của
Mai Lộc do đó Mai Lộc không lạ. Khóc ở nhà cơ sở như thế chắc là hận người nhận
xét lắm. Thật ra, xét thuần theo lý tính, tôi cứ thấy ý Duẩn sường sượng.
Tháng 9,
Thép Mới dự đại hội trù bị hay đại hội chính thức nhưng bí mật - mọi điều quan
trọng mà chủ yếu là bầu Trung ương đều đã làm xong trong đó - tôi dự đại hội
công khai mà dân gọi là “cờ đèn kèn trống”
Thép Mới báo
tôi mất ba tournois - vòng tập bầu mới bầu xong Trung ương. Sau mỗi vòng các cốp,
nhất là Sáu Thọ lại chia nhau đến các tổ giải thích, vận động và... dọa với ép
cho theo dự kiến của các cốp. Mãi vòng ba Hải Dương mới chịu cho Hoàng Tùng dự
khuyết...
Hai đại biểu
Moukhitdinov của Liên Xô và Lý Phú Xuân của Trung Quốc tranh thủ diễn đàn đại hội
đảng Việt Nam để đả kích lẫn nhau. Cụ Hồ quần áo cánh lụa nâu lại cầm tay hai vị
Moukhitdinov và Lý Phú Xuân lắc dung dăng hát “Kết đoàn chúng ta là thép gang.”
Hai vị lầm lì có vẻ không thích lối dàn xếp kiểu nhà trẻ.
Đại hội đặt
nhiệm vụ trung tâm là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nên với cách mạng miền
Nam là “chiếu cố”. Ba năm sau, Mao phất cờ “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được
nhờ” thì lật nhào hết.
Một sáng Cụ
gọi đám nhà báo phục vụ đại hội ra chụp ảnh. Đã đứng đâu vào đấy, Cụ chợt đi
vòng ra đằng sau, tóm tay Văn Doãn, tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân kéo
lên: “Đã lùn lại đi nấp”. Bức ảnh này mọi người ha hả cười là nhờ cái pha Văn
Doãn bị Cụ lôi ra ánh sáng.
Ba năm sau,
học ở Liên Xô, Văn Doãn không về nuớc nữa. Anh là cây lý luận chuyên viết cho
Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh. Bài viết “chống chủ nghĩa cá nhân” ký tên
Nguyễn Chí Thanh là do Doãn hay Doãn Bụt (lành như Bụt) viết. Ở đại hội 3, tình
cờ giường anh và tôi lại châu đầu vào nhau. Rồi Brejnev lên, anh nhảy lầu tự tử.
Một kiểu Phan Thanh Giản không thể nhìn thấy Pháp chiếm thành. Vừa học ở Liên
Xô về Hồng Hà đến hội trường leo trèo, bày biện khánh tiết. Bảo tôi: - Trần
Đĩnh cơm đại hội, mình cơm nhà vác ngà voi.
Trên rừng
tôi chơi với Thép Mới, không chơi với Hồng Hà. Hà yêu Khroutchev “máu thịt” hơn
tôi, tôi ghét Mao “máu thịt” hơn anh. Rồi từ bước cơm nhà leo trèo treo cờ,
căng khẩu hiệu ban đầu, Hà dự liền mấy đại hội. Sau lên tới Ban bí thư.
(CÒN TIẾP)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét