Mỗi ngày, công chúng tiếp nhận khá nhiều thông tin y khoa hoặc y tế nói
chung. Phần lớn những bản tin này mang tính tích cực, như khám phá ra
một yếu tố mới, phát triển một thuốc điều trị [đa số là ung thư] mới,
một liệu pháp can thiệp đầy triển vọng, phương pháp điều trị bằng tế bào
gốc, chế phẩm sinh học trị viêm khớp, v.v. Nhưng nhiều người do không
có khả năng đánh giá tính khả tín của những thông tin đó, nên có những
hi vọng không hợp lí. Sau đây là những tiêu chí mà các bạn cần biết để
đánh giá một phát hiện khoa học.
1. Xem xét mô hình nghiên cứu
Nghiên cứu y khoa đến với chúng ta rất đa dạng, mà ta sẽ gọi chung là
mô hình. Trên quan điểm điều trị lâm sàng, tất cả những nghiên cứu trên
chuột và dòng tế bào đều có giá trị rất thấp; do đó, công chúng không
nên kì vọng vào những nghiên cứu loại này. Nên nhớ rằng đại đa số (có
thể hơn 95%) kết quả nghiên cứu công bố là sai. Trong số hàng vạn phát
hiện trên tế bào, chỉ có vài phát hiện trở thành hiện thực (và cũng hay
thất bại). Chẳng hạn như hôm nay có tin rằng một nhóm nghiên cứu bên Hàn
Quốc tìm ra một cách điều trị ung thư bằng cách dùng vi khuẩn
Salmonella, nhưng thật ra đây là nghiên cứu trên chuột và tế bào, không
nên đặt quá nhiều niềm tin vào những công bố như thế.
Tương tự,
trong khoa học, những ý kiến cá nhân, cho dù cá nhân là giáo sư có giải
Nobel, cũng không có giá trị khoa học cao. Một ví dụ tiêu biểu là báo
chí làm ồn ào về chuyện sữa và loãng xương, mà báo Vietnamnet chạy một
cái tít giật gân "BS Harvard: Muốn không loãng xương, ngừng uống sữa".
Nhưng thật ra, nếu đọc kĩ thì đây là ý kiến của giáo sư David Ludwig và
Walter Willett (cả hai đều từ ĐH Harvard) chất vấn khuyến cáo dùng 3 li
sữa không đường mỗi ngày (1). Tạp chí đề rõ đây là "Viewpoint", tức là
quan điểm cá nhân họ, chứ họ có làm nghiên cứu gì đâu mà phải tin họ. Vả
lại, họ chất vấn khuyến cáo uống 3 li sữa mỗi ngày, chứ đâu có nói là
uống sữa có hại cho xương. Cái nhãn "Harvard" của họ HOÀN TOÀN không có
một trọng lượng nào trong khoa học (2), vì nền tảng của khoa học là
chứng cứ, và chứng cứ mới có trọng lượng. Không một bác sĩ nào, không
một giáo sư nào, mà dại dột đến nỗi khuyên không nên uống sữa, hay nói
rằng sữa không có lợi cho sức khoẻ của xương.
2. Mức độ ảnh hưởng
Ngay cả kết quả nghiên cứu được đúc kết từ mô hình nghiên cứu có giá
trị khoa học cao nhất như RCT (3), thì chúng ta cũng cần phải xem xét
mức độ ảnh hưởng thấp hay cao. Cần tĩnh táo trước những phát biểu như
"thuốc giảm nguy cơ 50%", vì con số 50% có thể là khác biệt giữa 1% và
0.5%, tức rất ư là khiêm tốn.
3. So sánh với phương pháp hiện hành
Rất nhiều nghiên cứu RCT hiện nay so sánh thuốc mới với placebo (tức
giả dược). Do đó, kết quả thường thường mang tính tích cực, hiểu theo
nghĩa thuốc có hiệu quả. Nhưng câu hỏi quan trọng hơn là hiệu quả của
thuốc mới so với thuốc hiện hành (hay thuốc cũ) ra sao thì thường không
rõ, do các công ti dược không muốn làm so sánh như thế. Không có số liệu
về so sánh trực tiếp giữa thuốc mới và thuốc hiện hành rất khó để chúng
ta tin vào sự "ưu việt" của thuốc mới.
4. Xem xét giá cả
Rất nhiều thuốc mới thường đắt tiền hơn thuốc cũ, một phần là do chi
phí nghiên cứu, một phần là công ti muốn lấy lại vốn trước khi bản quyền
thuốc hết hạn. Ở Việt Nam, rất nhiều quảng cáo về thuốc trong nhóm "chế
phẩm sinh học" và hiệu quả tuyệt với của chúng, nhưng ít ai biết rằng
những loại thuốc này rất đắt tiền. Có khi giá thuốc quá cao nhưng hiệu
quả lâm sàng thì chẳng khác mấy so với thuốc cũ nhưng rất rẻ!
5. Chú ý đến mâu thuẫn lợi ích (conflict of interest)
Một vấn đề khá "nhạy cảm" là nhiều giáo sư nói chuyện về thuốc trong
thực tế là những người có mâu thuẫn lợi ích. Mâu thuẫn là vì họ được
công ti trả tiền để nói những thông tin của công ti (dĩ nhiên là những
thông tin đã qua "xử lí"). Trong nhiều trường hợp, các vị giáo sư đáng
kính, kể cả giáo sư nước ngoài, chỉ là những người bán thuốc cao cấp cho
các công ti dược. Do đó, những gì họ nói cần phải đặt trong bối cảnh và
chứng cứ khoa học. Đọc những dữ liệu họ trình bày, nhưng đừng nghe
những gì họ bình luận.
6. Xem xét trường hợp cá nhân
Khi
đọc một kết quả nghiên cứu, chúng ta cần phải đối chiếu kết quả đó với
cá nhân. Nên nhớ rằng các nghiên cứu được thực hiện trong môi trường
được kiểm soát rất cẩn thận, và bệnh nhân cũng được tuyển chọn theo các
tiêu chuẩn rất khắt khe. Còn trong thực tế lâm sàng hay thực tế ngoài
cộng đồng thì bệnh nhân thường rất đa dạng, chứ không đơn giản như những
đối tượng tình nguyện tham gia nghiên cứu. Vì thế, không phải kết quả
nào cũng áp dụng cho tất cả bệnh nhân.
Nhưng tại sao lại có
những thông tin về "đột phá" hoặc "khám phá" cái mới gần như hàng tuần
trong khoa học? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phải biết động cơ
đằng sau của những thông cáo báo chí như thế. Ở các nước phương Tây, các
đại học và viện nghiên cứu lớn đều có một nhóm chuyên làm PR. Họ thường
chọn những nghiên cứu với kết quả hấp dẫn, hoặc những nghiên cứu được
công bố trên các tập san danh giá, để viết thông cáo báo chí. Những
người PR này rất giỏi trong việc viết lách, và họ có quan hệ rất rộng
rãi trong giới truyền thông. Mỗi thông cáo báo chí của họ có thể đến tay
hàng ngàn cơ sở truyền thông trên thế giới, và phần lớn đều bị vứt vào
sọt rác, chỉ có một số nhỏ được chú ý và đăng tải. Những lí do để họ ra
thông cáo báo chí bao gồm:
(a) Quảng bá khoa học và cái mới
Khoa học hiện nay là một lĩnh vực hoạt động rất lớn, với qui mô toàn
cầu. Vì thế, quả thật thỉnh thoảng có những phát hiện đáng chú ý, hoặc
những đột phá quan trọng. Chẳng hạn như phát hiện sóng hấp dẫn từ "hố
đen" mới được công bố tuần qua thì đáng được quan tâm. Đa số (có thể
99%) những thông tin có danh từ "phát hiện" có lẽ chẳng có gì phải quá
bận tâm vì chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta, hoặc chẳng có thông tin gì
thật sự mới.
(b) Giúp cho việc xin tài trợ
Nghiên cứu
khoa học đòi hỏi phải có tài trợ. Tiền thường là từ Nhà nước, mà tiền
Nhà nước cấp là từ thuế của người dân. Do đó, việc công bố trên báo chí
kết quả nghiên cứu là một hình thức báo cáo cho người dân biết đồng tiền
của họ đã được sử dụng ra sao. Một ý nghĩa khác là "Chúng tôi làm việc
tốt đó nhé, xin cho thêm tiền để làm tiếp." Cái thông điệp ngầm này rất
quan trọng, vì báo chí giúp các nhà mạnh thường quân nhận dạng được các
nhà khoa học thật và có triển vọng để họ ... cho tiền.
(c) Tìm đối tượng (tình nguyện viên) nghiên cứu
Thỉnh thoảng chúng ta thấy tivi phỏng vấn các nhà nghiên cứu về một
liệu pháp điều trị mới cho một bệnh nguy hiểm nào đó, và chúng ta nghĩ
rằng đó là một phương pháp mới có nhiều triển vọng. Sự thật là nhà
nghiên cứu đang thiếu tình nguyện viên tham gia nghiên cứu, nên họ phải
nhờ giới truyền thông giúp một tay. Trong thực tế đúng là có những liệu
pháp có triển vọng, và chúng ta nên giúp nhà nghiên cứu. Nói chung,
người Việt chúng ta ít có cái văn hoá tham gia nghiên cứu như người
phương Tây, vì họ nghĩ mình là "vật thí nghiệm". Không đúng. Các nghiên
cứu do các nhà nghiên cứu đàng hoàng thực hiện đều đáp ứng các tiêu
chuẩn đạo đức nghiêm ngặt, chứ không có chuyện biến người tình nguyện
thành "vật thí nghiệm".
(d) Tìm đối tác đầu tư
Có những
nghiên cứu với kết quả có thể thương mại hoá. Nhưng để thương mại hoá,
nhà khoa học cần đầu tư để thành lập công ti. Do đó, công bố kết quả là
một dạng kêu gọi (gián tiếp) các "đại gia" đầu tư.
(e) Đánh bóng cá nhân nhà khoa học
Một động cơ khác, có lẽ hơi hiếm, trong việc công bố những kết quả khả
quan là ... xây dựng "thương hiệu" cho nhà khoa học. Trong lí lịch nhà
khoa học, có một mục gọi là "đóng góp cho cộng đồng", và ý nghĩa của nó
bao gồm việc trả lời phỏng vấn báo chí. Lưu ý rằng tôi không nói việc
đánh bóng tên tuổi là xấu (thật ra là cần thiết), nhưng đó cũng là một
cách để nhà khoa học không bị mặc cảm là những kẻ ngồi trong tháp ngà.
***
Quay lại câu hỏi về sữa (và calcium) và sức khoẻ của xương, đây là một
chủ đề còn trong vòng tranh cãi qua một số dữ liệu mới công bố. Nhưng
những dữ liệu này không có giá trị khoa học cao, nên chúng ta không thể
xem đó là "chân lí". Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phớt lờ những
phát hiện về mối liên quan giữa bổ sung calcium và nguy cơ bệnh tim
mạch. Giới nghiên cứu loãng xương đồng ý rằng bổ sung calcium và vitamin
D cho những người thiếu calcium và vitamin D (nhất là người cao tuổi)
là cần thiết, nhưng không quá liều lượng 1000 mg/ngày (4), và cẩn thận
với những người có tiền sử bệnh tim mạch.
Hi vọng rằng 6 "tiêu
chí" trên đây và những động cơ công bố có thể giúp cho các bạn tự đánh
giá tính khả tín và giá trị khoa học của một thông tin y khoa. Thật ra,
đây cũng là những tiêu chí dành cho nhà báo để họ có thể chọn thông tin
mà chuyển tải đến độc giả. Không nắm vững 6 tiêu chí này dễ bị giới
truyền thông phương Tây "xỏ mũi" và gây hoang mang cho công chúng VN một
cách không cần thiết.
===
(2) Không hiểu tại sao báo chí VN có vẻ bị ám ảnh với chữ "Harvard"
quá như thế. ĐH Harvard là một trung tâm giáo dục danh tiếng, nhưng
điều đó chẳng nói lên điều gì về một cá nhân từ đại học đó cả. Người ta
đánh giá một cá nhân qua thành tích và thành tựu của cá nhân, chứ không
phải qua cái tên trường.
(3) RCT (randomized controlled trial)
là mô hình nghiên cứu chia bệnh nhân thành 2 nhóm (nhóm điều trị và nhóm
không điều trị) và theo dõi một thời gian. Đây là mô hình nghiên cứu có
giá trị khoa học cao nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét