Trước nay, mỗi lần có đoàn phim nước ngoài sang, nhiều người trong chúng
ta chỉ quan tâm đến việc phim đó có nói xấu, có xuyên tạc bôi nhọ Việt
Nam không, chứ chưa chịu xem đó là cơ hội để mở mang đất nước. Năm 2007,
khi đạo diễn Mỹ nổi tiếng Oliver Stone đến Mỹ Lai (Quảng Nam) để chuẩn
bị cho bộ phim “Pinkville” (Đề cập đến vụ thảm sát Mỹ Lai), một số
“chuyên gia” kỳ cựu đã khẳng định: Oliver Stone sẽ không quay phim này
tại Việt Nam! … Và thực tế đúng như vậy. Họ còn chắc như đinh đóng cột
rằng, trong tương lai sẽ không còn những phim lớn đến quay tại Việt Nam,
nếu không có sự thay đổi mang tầm… quốc gia. Cảm ơn người láng giềng
Việt Nam! Cuộc chiến Việt Nam đã khiến cái tên Việt Nam trở thành một
chủ đề lớn của điện ảnh thế giới suốt mấy chục năm. Tổng cộng trên thế
giới có trên 70 phim liên quan đến chiến tranh Việt Nam, trong đó 99% là
phim Mỹ (tất nhiên vì họ là nhân vật chính của cuộc chiến) còn lại là
lẻ tẻ vài ba bộ phim của Hong Kong, Hàn Quốc...
Trong số này, một số phim đã trở thành
những kiệt tác kinh điển của điện ảnh thế giới như: “Coming Home” (Hồi
hương – 3 giải Oscar 1978), “Forrest Gump” (6 giải Oscar 1994), “Born on
the 4th of July” (Sinh ngày 4/7 – 2 giải Oscar 1989), “Apocalyse Now”
(Ngày tận thế – 2 giải Oscar và Cành Cọ Vàng LHP Cannes 1979), “Birdy”
(Ước là chim – Giải thưởng lớn BGK tại LHP Cannes 1984), “Full Metal
Jacket” (Áo giáp thép – Đoạt hàng chục giải thưởng điện ảnh lớn nhỏ trên
thế giới)… Nhưng điều đáng nói ở đây là hơn 70 phim về đề tài chiến
tranh Việt Nam (tất nhiên bao gồm cả những kiệt tác nêu trên)… đều không
quay ở Việt Nam! Điều này cũng dễ hiểu bởi khoảng 10 năm đầu sau 1975,
lệnh cấm vận nghiêm ngặt của chính phủ Mỹ khiến các dự án phim Mỹ không
thể quay ở Việt Nam.
Tuy nhiên đối
với các nhà làm phim và đạo diễn có nhiều quyền lực, lệnh cấm vận của
chính phủ Mỹ chẳng là gì, nếu họ thật sự muốn quay bộ phim tại chính nơi
câu chuyện diễn ra. Các nhà làm phim đã tìm đến các nước Đông Nam Á và
họ phát hiện ra rằng, khí hậu, bối cảnh, thời tiết, và con người ở những
nước này cũng tương tự như ở Việt Nam – đặc biệt giống nhất là
Philippines (2 siêu phẩm “Apocalypse Now” và “Platoon” đều được quay
toàn bộ ở đây). Sau này, tình hình chính trị bất ổn và sự nổi dậy của
các nhóm phiến quân, nạn bắt cóc và khủng bố khiến Philippines phải
nhường… Việt Nam lại, và Thái Lan trở thành… bối cảnh Việt Nam được ưa
thích nhất của các nhà làm phim phương Tây. Chỉ trong khoảng 25 năm từ
1975 – 2000, hàng loạt bộ phim có liên quan đến câu chuyện, bối cảnh, và
con người Việt Nam đã mang lại không biết bao nhiêu lợi ích… cho các
nước trong khu vực: Hàng chục triệu USD đổ vào cho mỗi dự án, tạo công
ăn việc làm cho người dân. Quan trọng nhất là nhân sự của nước đó tiếp
cận được với công nghệ làm phim đỉnh cao. Chuyên môn sản xuất phim được
rèn luyện và đào tạo miễn phí, góp phần nâng tầm kỹ thuật cho điện ảnh
của nước sở tại. Khi phim chiếu ra, hàng triệu khách du lịch đổ xô đến
những nơi dùng làm bối cảnh phim. Khi phim đoạt giải, những lời cảm ơn
có cánh bay tới tấp đến đất nước đã cho mượn địa điểm giả làm bối cảnh
Việt Nam… Còn chúng ta thì sao?
Cầm vàng… sao để vàng rơi?
Ít
ai biết cách đây gần 20 năm (khoảng 1990), đạo diễn Oliver Stone đã
sang Việt Nam để xin chính thức quay bộ phim thứ 3 của ông về đề tài
chiến tranh Việt Nam, “Heaven & Earth” (Trời và đất). Lúc ấy danh
tiếng của Oliver Stone đang ở trên đỉnh cao, vì ông vừa mới đoạt giải
Oscar lần thứ 2 với phim “Sinh ngày 4/7″. Ở đây mọi thứ đều suôn sẻ,
ngoại trừ kịch bản có một vài chi tiết nhạy cảm liên quan đến hình ảnh
của người chiến sĩ cách mạng, khi Oliver được yêu cầu phải cắt, ông đã
nửa đùa nửa thật rằng: “Ngay cả ở Mỹ, tổng thống cũng không được quyền
đòi cắt kịch bản của tôi!”.
Tuy
nhiên vì rất muốn quay một bộ phim tại chính vùng đất đã mang lại nhiều
vinh quang cho mình, nên Oliver Stone chấp nhận sửa lại chứ không cắt.
Tuy nhiên đề nghị này của ông không được chấp nhận. Thế là Oliver Stone,
cùng các nhà sản xuất quyết định cầm hơn 30 triệu USD chuyển sang Thái
Lan để làm giả bối cảnh Việt Nam! Duyệt kịch bản và cấp giấy phép cũng
là chuyện bình thường trên thế giới, nhưng một thời kỳ dài ở ta là điều
khó hiểu đối với các đoàn phim nước ngoài, kể từ sau vụ bộ phim Hong
Kong đầy tai tiếng “Yêu tiếng hát Việt Nam” – khiến hàng loạt quan chức
bị kỷ luật ở cuối thập niên 1980. Kịch bản nước ngoài xin phép sản xuất
tại Việt Nam đều phải duyệt càng lúc càng khó khăn, chỉ cần có chi tiết
dễ liên tưởng đến những vấn đề nhạy cảm, là phải sửa hoặc “stop”. Nhưng
có lẽ điều khiến các nhà làm phim nước ngoài vào Việt Nam sợ nhất là
thời gian chờ đợi để có giấy phép. Không ít dự án phim bị “chìm xuồng”
vì chờ duyệt không nổi. Đồng tiền của nhà sản xuất phải luân chuyển để
đầu tư vào chỗ khác! Nguyên do chậm thì nhiều, nhưng có lẽ bắt nguồn từ
năng lực thẩm định, qua ý kiến của nhiều người vì… sợ trách nhiệm!
Trong lịch sử làm dịch vụ phim nước
ngoài, chúng ta chưa bao giờ xem việc chào đón các dự án phim nước ngoài
đến quay tại Việt Nam như một cơ hội làm ăn và quảng bá hình ảnh đất
nước, mà luôn đối xử với họ như kiểu… ban ơn! Năm 1999, bộ phim “Going
Back” (sau này công chiếu đổi lại thành “Under Heavy Fire”) đã được cấp
phép quay tại Việt Nam, nhưng lại bị “sao quả tạ” chiếu vào! Đây là phim
chiến tranh, các loại đạo cụ súng ống hạng nặng ta không có, phải nhập
vào từ nước ngoài thì các cấp có trách nhiệm ngại ngùng, phải đi lòng
vòng xin phép các nơi cực kỳ mệt mỏi. Đến khi họ không thể chờ đợi và
chấp nhận sử dụng quân khí trong nước, thì riêng việc xin phép đi tham
quan tại các bảo tàng quân sự cũng phải chờ sự chấp thuận của… Bộ Quốc
phòng! Rốt cuộc đoàn “Going Back” đã kéo sang Philippines quay và không
hẹn ngày trở lại như cái tên phim! Năm 2001, bộ phim kinh dị của Hàn
Quốc về chiến tranh Việt Nam, “R-Point” (Điểm R) cũng đã có giấy phép
quay sau bao gian truân. Nhưng rồi họ cũng bị vướng phải rào cản: khí
tài chiến tranh. Trong phim có một cảnh phải xuất hiện chiếc trực thăng
chuồn chuồn của Mỹ (sử dụng trong chiến tranh Việt Nam). Loại này ở ta
cũng có, nhưng tất cả đều đã hết giờ bay từ rất lâu, nên phía Hàn Quốc
đề nghị mang trực thăng từ nước ngoài vào. Vì phải chờ quá lâu để có câu
trả lời chính thức từ phía Việt Nam về việc này, nên đoàn “R-Point” đã
sang Campuchia để thực hiện bộ phim!
Cột mốc Bond 18!
Năm
1995, vài tháng sau khi tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường
hóa quan hệ với Việt Nam, một đoàn tiền trạm từ Mỹ đến Việt Nam để khảo
sát bối cảnh cho một bộ phim. Đi khảo sát nơi đâu hoặc đến đâu họ cũng
để lại name card, trên đó có in rõ logo nổi tiếng của loạt phim về siêu
điệp viên James Bond 007: 2 số 0 và số 7 cách điệu từ khẩu súng lục.
“James Bond” là loạt phim nổi tiếng nhất thế giới. Nhân vật điện ảnh bất
tử này tồn tại đã trên nửa thế kỷ mà vẫn luôn ăn khách. Đặc điểm của
phim “007″ là quay ở nhiều nước. Họ đến quay ở đâu, danh tiếng của bộ
phim là đảm bảo bằng vàng cho du lịch ở đó phát triển. Việc “James Bond
007″ “mở hàng” cho một bộ phim Mỹ đầu tiên quay tại Việt Nam thu hút sự
quan tâm của cả Hollywood, bởi lúc ấy việc bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam sẽ mở ra một cơ hội tốt cho các bên và điện ảnh là cú hích hàng
đầu. Thậm chí khi nghe “007″ chuẩn bị ở Việt Nam, vợ chồng Tom Cruise
và Nicole Kidman đang đi du lịch ở châu Á, đã bí mật ghé sang Việt Nam
để gặp gỡ các nhà sản xuất… Bộ phim lúc ấy chưa có tên chính thức, chỉ
có tên tạm đặt là “Bond 18″. Vì tính chất quan trọng của bộ phim nên
việc duyệt và cấp phép phải có sự chấp thuận từ các cơ quan có thẩm
quyền cao nhất. Ngày nhận được quyết định chính thức, cả đoàn Bond đã
khui champagne ăn mừng và lập tức triển khai rầm rộ. Họ dự định sẽ quay 3
tuần và chuẩn bị trong 3 tháng, chỉ cho một trường đoạn hấp dẫn nhất
của phim: Cảnh rượt đuổi bằng xe máy BMW phân khối lớn giữa Pierce
Brosnan, Dương Tử Quỳnh và những kẻ xấu. Ngoài ra còn thêm một vài cảnh
quay ở Vịnh Hạ Long. Dự kiến họ sẽ tiêu tốn khoảng 5 triệu USD chỉ trong
vài tháng ở Việt Nam. Mọi việc đang tiến triển tốt đẹp thì ngày định
mệnh đến. Buổi sáng hôm ấy vừa có thêm giấy phép chấp thuận từ Ủy ban
nhân dân Tp.HCM, thì ngay chiều hôm đó, một công điện khẩn từ Cục Điện
Ảnh gửi vào buộc phải dừng khẩn cấp mọi hoạt động của đoàn Bond 18 tại
Việt Nam, mà không đưa ra một lời giải thích! Sự kiện Việt Nam từ chối
Bond 18 đã gây chấn động Hollywood và làm cả châu Á phải tiếc nuối, trừ
Thái Lan… “vô tình lượm được cái bình!”. Một nhà sản xuất phim người
Philippines bình luận về sự kiện này: “Có lẽ Việt Nam là nước duy nhất
trên thế giới “dám” nói không với James Bond. Nếu chỉ cần biết Bond có
quan tâm đến Philippines một chút thôi, nước chúng tôi chắc chắn sẽ trải
thảm đỏ để rước họ vào”. Việc chuyển bộ phim sang Thái Lan là chuyện
nhỏ đối với đoàn “Bond 18″ dù thiệt hại của họ là rất lớn, nhưng tác hại
của nó với Việt Nam là không sao tính nổi! Hàng loạt dự án chuẩn bị
triển khai có liên quan đến Việt Nam, lập tức bị hoãn vô thời hạn với lý
do mà bất cứ hãng phim nào của Hollywood cũng phải ngán: Không một ngân
hàng hay tập đoàn tài chính bảo hiểm nào trên thế giới dám nhận bảo
hiểm cho một bộ phim triển khai tại Việt Nam, vì rủi ro quá lớn! Sau này
khi xem “Tomorrow Never Dies” (tức “Bond 18″), không ai hiểu nổi lý do
vì sao bộ phim bị đối xử như vậy. Và “nghi án” này đã khiến Việt Nam nằm
trong danh sách những địa danh mà các đoàn phim Hollywood… không dám
đặt chân tới! (“Người Mỹ trầm lặng” quay tại Việt Nam năm 2000 chỉ là
một phim nhỏ không thuộc hệ thống của Hollywood). Nếu bạn được xem các
show diễn “007″ khi đi du lịch Thái Lan, có phải móc tiền túi để được
xem Vịnh Hạ Long và đường phố Sài Gòn “dỏm” ở Thái Lan, thì cũng ráng mà
ngậm đắng nuốt cay… vì nghịch lý: Người Thái tuy “trâu chậm” nhưng lại
“uống nước trong”.
Cơ hội ngày càng khó Khoảng 3 năm trở lại đây, các hãng phim lớn nhất
thế giới đã thống nhất đưa ra một quan điểm đầu tư điện ảnh mới. Sẽ
không có chuyện các dự án triệu đô tự động “nộp mạng” cho các nước như
trước đây. Mà chính các nước được chọn làm bối cảnh sẽ phải đưa ra những
ưu đãi, và cam kết đặc biệt của chính phủ về chính sách thuế (tiếng Anh
tạm gọi là Film Production Incentive) khi họ đổ hàng triệu USD vào nước
đó để sản xuất phim. Nước nào đưa ra chính sách ưu đãi kinh tế tốt
nhất, các đoàn phim sẽ tới. Chính sách này hiện đang rất phổ biến trên
thế giới (ngay cả trong nước Mỹ, mỗi bang đều đưa ra những chính sách
khác nhau để lôi kéo các đoàn phim). Ở châu Á, đã có nhiều nước tham
gia, Thái Lan cũng đang chuẩn bị lộ trình để nhanh chóng gia nhập
Incentive. Nhưng họ cũng biết rõ lợi thế của mình với Hollywood – Muốn
quay phim về Việt Nam… chỉ có cách tốt nhất là đến Thái Lan! Đó là lý do
vì sao Oliver Stone khi chuẩn bị cho “Pinkville” đã chọn sản xuất ở
Thái từ lâu, và việc đến Việt Nam chỉ hoàn toàn mang tính ngoại giao
thăm hỏi!
Trước nay, mỗi lần có đoàn phim nước ngoài sang, nhiều người trong chúng
ta chỉ quan tâm đến việc phim đó có nói xấu, có xuyên tạc bôi nhọ Việt
Nam không, chứ chưa chịu xem đó là cơ hội để mở mang đất nước. Mà thật
ra cũng dễ thấy, nếu thực sự muốn làm điều xấu thì họ sẽ sang nước khác
quay chứ dại gì làm ở Việt Nam. Gần 70 phim truyện về đề tài chiến tranh
Việt Nam (trong đó có rất nhiều phim xuyên tạc bôi nhọ), có phim nào
quay ở Việt Nam đâu! Trong khi đó những đoàn phim đến Việt Nam thật sự
bằng thiện chí thì chúng ta đã cư xử với họ thế nào!? Đã quá muộn để sửa
sai, vì chúng ta đã mất khoảng 20 năm niềm tin để hội nhập với thế giới
điện ảnh. Nay cơ hội đó càng khó khăn hơn gấp vạn lần với quy chế
Incentive đang áp dụng trên toàn cầu. Nói là khó khăn bởi hiện nay, dù
những người trong ngành quản lý điện ảnh có biết đến quy chế Incentive,
nhưng để vận dụng được ở Việt Nam sẽ phải mất rất nhiều thời gian.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét