Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

NGHỀ CHỤP HÌNH XƯA VÀ NAY


Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ nói về nghề nhiếp ảnh cho khách hàng để lấy tiền, không nói đến những người chuyên chụp phong cảnh, rừng núi sông biển, hoa lá chim cò, chụp nghệ sĩ… mà bây giờ người ta hay gọi là các “nhiếp ảnh gia nghệ thuật”.

Thợ ảnh thời trắng đen

Làm hình trắng đen có hai giai đoạn mà thuật ngữ trong nghề chia ra hai loại là thợ phòng sáng và thợ phòng tối. Phòng sáng là chuyên làm việc ngoài ánh sáng như: chụp hình, sửa phim, sửa hình. Phòng tối là làm việc trong cái phòng tối hù đúng nghĩa đen, tất cả các khe hở nào có thể để lọt ánh sáng bên ngoài vào đều được thợ ảnh lấy giấy đen dán lên nhiều lớp cho kín hết. Trong phòng chỉ có duy nhất một bóng đèn tròn màu đỏ nhỏ xíu thường xuyên được bật cho chút ánh sáng đỏ mờ mờ mà làm việc. Cái bóng đèn tròn to 100W chỉ bật lên để in hình và thời gian bật được tính từng giây. Người trong nghề nói chuyện với nhau, hễ ai là thợ phòng sáng thì được đồng nghiệp nhìn bằng con mắt vị nể, bởi làm phòng sáng khó hơn phòng tối rất nhiều.

Cha tôi, sau khi học nghề với chú họ thành tài, bèn mở một tiệm hình riêng làm chủ và một mình ông kiêm luôn cả phòng sáng lẫn phòng tối. Ban ngày cầm máy tiếp khách chụp hình, ban đêm vào phòng tối lục đục in ảnh. Năm tôi mười lăm tuổi, cha tôi bắt tôi nghỉ học để theo nghề nhiếp ảnh. Lúc đó, tôi không thích học nghề nên nại lý do: “Con không biết nheo mắt đâu, không chụp hình được”. Cha tôi nói: “Mấy đứa tay ngang chụp hình mới nheo mắt, thợ chuyên nghiệp không ai chụp hình mà nheo mắt hết. Lâu lâu chụp vài kiểu nheo mắt thì được, chớ ngày nào cũng chụp, chụp từ sáng đến chiều, chụp năm này qua năm khác mà mỗi lần chụp phải nheo mắt thì mặt mày nó nhăn như khỉ ăn ớt. Ra đường, chỉ cần nhìn cái cách nó cầm máy là biết ngay đứa nào chuyên nghiệp đứa nào tay ngang liền. Cầm máy như vậy nè”. Cha tôi đưa cho tôi cái Pentax to đùng, nặng trĩu mà bắt tôi chỉ cầm bằng tay trái sao cho chắc, máy không bị rơi xuống đất. Cha tôi nói: “Tay trái cầm máy, nhìn vào lỗ nhắm bằng mắt phải, tay phải điều chỉnh ống kính, bấm máy, áp máy sát vào, không được để máy run. Cầm máy bằng tay trái để tay phải còn rảnh mà dời đèn pha, sắp xếp người với cảnh cho cân đối.”


Vậy là tôi… bị học nghề chụp hình chớ không phải được học nghề. Ban đầu là làm quen với máy chụp hình, với các từ ngữ chuyên môn rối rắm như: tốc độ, khẩu độ, màn trập, độ nhạy sáng (ASA)… thật là rối rắm. Mỗi loại phim và giấy in hình của hãng khác nhau thì độ nhạy sáng cũng khác nhau, tùy theo độ nhạy sáng, ánh sáng bên ngoài khi chụp, chụp đèn pha hay chụp sáng trời, chụp buổi sáng, buổi trưa hay buổi chiều, chụp ngoài nắng hay trong bóng râm… mà người thợ khi chụp điều chỉnh độ chớp, khẩu độ ống kính cho phù hợp để có bức ảnh đẹp. Hình chụp ra rõ ràng, sắc nét, không đen quá, cũng không trắng quá. Làm quen với máy ảnh xong rồi, tôi phải học phối cảnh, nói chung là một bức ảnh dù là chụp người theo yêu cầu, cũng phải bảo đảm bố cục có đầy đủ ba phần: tiền cảnh, trung cảnh và hậu cảnh thì bức hình mới có tính nghệ thuật, không bao giờ được bố trí vật chính nằm chình ình ngay giữa “mặt tiền” bức ảnh. Tất nhiên là ngoài những nguyên tắc chính, tôi còn được “lão gia” “chân truyền” cho một số “bí kíp” mà tôi biết mấy người thợ làm chung trong tiệm lúc đó thèm chảy nước miếng.

Hồi đó, tôi sợ ma lắm nên không chịu vào phòng tối, thành thử các kỹ thuật phòng tối tôi chỉ biết đại khái, lem nhem.

Clark and Vivian trong Gone with the wind
Clark and Vivian trong Gone with the wind
Phim từ phòng tối tráng xong đem ra, dùng cái kẹp quần áo kẹp treo lên dây phơi cho khô, cắt ra từng miếng rồi cho vào bao giấy chuyển cho thợ phòng sáng. Thợ phòng sáng đem ra xem từng bao, thấy kiểu nào chụp hình chân dung cho khách thì phải để riêng qua một bên để đem qua bàn sửa phim sửa lại cho mịn. Bàn sửa phim là cái bàn có thêm miếng ván mỏng gắn vô bằng bảng lề như gắn cánh cửa, mỗi khi giương lên thì lấy cây chống lên. Trên miếng ván có khoét một lỗ vuông nhỏ hơn diện tích miếng phim một chút và gài sẳn cọng dây thun để kẹp miếng phim vào đó. Người thợ dùng cái ruột bút chì mềm gắn vào cây bút sửa phim (là loại bút chuyên dụng, mô tả về cây bút này mất thời gian lắm, tôi sẽ nói rõ vào một dịp khác) để nó ló cái ngòi chì ra thiệt là dài. Dùng miếng bông gòn, chấm một chút dung dịch gọi là “ma-tô-le” lau nhẹ qua mặt phim có tráng nhũ tương, rồi dùng cái bút chì ấy mà “thêm mắm giậm muối vào”. (Cách pha “ma-tô-le” cũng là bí kíp à nghen, hổng có kể lung tung đâu). Xong rồi bỏ trở vô bao giấy đưa vào phòng tối in hình.

Trước năm 1975, cha tôi chụp hình bằng loại phim lớn khổ (6×9)cm, phim này mất công sửa nhiều nhưng in ra hình thì đẹp hơn, đỡ phải sửa hình nhiều. Sau năm 75 phải dùng loại phim người ta cắt từng đoạn ra từ mấy bành phim chiếu bóng, khổ phim (3×4) nhỏ xíu, không thể sửa phim nhiều, thành thử khi phóng ra cái hình to nó tèm lem, chấm sửa hình muốn mờ con mắt. Hồi đó không có chụp ảnh màu, khách hàng nào “điệu chảy nước” thì kêu thợ ảnh tô màu lên và trả thêm tiền tô màu. Màu tô ảnh là loại đóng thành tập như tập giấy, có 12 tờ 12 màu chính. Mỗi người thợ phòng sáng đều có một miếng kiếng trắng dày 5mm, to bằng hai bàn tay. Miếng kiếng này coi như một cái bảng pha màu, một đầu dùng để mài thỏi mực Tàu vào đó rồi dùng bút lông chấm mực sửa hình, một đầu để pha màu tô. Bút lông phải mua loại ngòi bút, quản bút thật nhỏ, càng nhỏ càng tốt, đem về ngâm ngòi bút vào chén nước cho rả hết keo ở lông bút, rẩy nước cho ráo, một cái dùng chuyên chấm hình, những cái nào dùng tô màu thì tùy yêu cầu mà lấy lưỡi lam gọt lông bút sao cho dễ tô màu. Lấy cái lưỡi lam đen, bẻ một miếng hình tam giác gắn lên đầu kia của cái bút lông mực Tàu. Khi chấm sửa hình, hễ chổ nào bị đen thì dùng cái lưỡi lam này cạo cho nó bớt đen, chổ nào nó trắng quá thì phết mực Tàu vào, sao cho “ruộng nẻ” trở thành “thảm nhung”, mũi xẹp thành mũi cao, mắt híp lờ đờ thành mắt long lanh, má hóp thành má đầy, môi khô thành môi mọng… Khó nhất là vẽ thêm vào từng sợi lông mi, lông mày, trở cái đầu nhọn lưỡi lam chuốt cho từng sợi lông vừa nhọn vừa bóng, vừa cong cong, sao cho tự nhiên như lông mi, lông mày thật. Nếu khách yêu cầu tô màu hình thì thợ phải tô màu trước, sấy khô, làm láng rồi mới chấm sửa bằng bút lông mực Tàu. Khi tô màu tùy bức hình mà thợ xé một miếng màu nhỏ xíu trong tập màu để lên miếng kiếng, lấy cái bút lông chuyên tô màu chấm nước pha màu, thử màu ngay trên đó, rồi tô màu vào bức ảnh. Nhiều lúc tôi, thử màu da người lên mu bàn tay mình, nếu tiệp màu da tay thì tôi tô lên giấy. Công phu, tỉ mỉ như vậy nên công đoạn phòng sáng đòi hỏi người thợ phải cầm bút hết sức nhẹ nhàng, lả lướt mà chính xác đến từng li.

Nói đi nói lại dông dài mà không nhắc đến kỹ thuật cắt cúp, ghép ảnh thì quả là một thiếu sót lớn. Một bức ảnh ghép giống như thật là một công trình sáng tạo bằng đôi tay khéo léo của người thợ. Tôi đã từng chứng kiến một cô tuổi ngoài hai mươi, tóc kẹp, đến tiệm chụp một kiểu hình để ghép vào bức hình người chồng vừa tử trận mà hai vợ chồng trẻ kia chưa kịp chụp chung với nhau bức ảnh nào. Cha tôi ghép bức hình cũ người lính mặc bộ quần áo rằn ri đứng choàng tay qua vai người vợ mặc bộ đồ bà ba trắng. Hình xong rồi, cô đó cảm ơn cha tôi rối rít.

Nhiếp ảnh thời @

Bây giờ, Digital phát triển, nghề nhiếp ảnh nhờ đó được ăn theo. Máy ảnh Digital cái gì cũng tự động, chỉ cần có tiền sắm cho mình một bộ máy ảnh tốt là có thể vác máy ra hành nghề.

Hồi trước Tết, tôi đi dự đám cưới bạn tôi, bèn gọi anh chàng thợ ảnh trong đám cưới lại chụp cho tôi và cô dâu chú rể vài kiểu ảnh kỷ niệm. Thấy anh chàng cũng vác máy “khủng”, điệu bộ hùng hồn lắm, tới hồi nhìn thấy hình tôi mới té ngữa. Chụp hình dâu rể, khách mặc áo dài, khăn đóng mà nó chụp cắt ngang đầu gối người ta, chụp bốn người thì hai người đứng sát rạt vào nhau, hai người còn lại tự dưng đứng dang ra xa cả cây số, nhìn vô thấy thiệt quái dị. Một kiểu khác thì để khách đứng quẹo đầu, rút cổ mà chụp, hổng biết sửa tư thế khách cho đàng hoàng hơn.

Ở một chỗ khác, anh thợ ảnh bố trí cho đôi uyên ương trẻ lấp ló trong vườn hoa rồi anh ta bắc thang trèo lên cao chụp xỉa xuống. Chung quanh có thêm dàn “trợ lý chụp hình”, kẻ cầm tấm kim loại phản chiếu thêm ánh sáng, kẻ cầm dù đen che khơi khơi không biết che cái gì, cứ như là đang ở trường quay. Nắng trưa chang chang, đâu có thiếu ánh sáng mà phải “huy động lực lượng” hùng hổ như vậy, cái này hổng biết có phải là bày vẽ cho có vẻ “nghệ thực” để “khủng bố tinh thần” khách hàng rồi tính giá trên trời? Chụp kiểu đó, tôi dám bảo đảm ra hình nhìn đôi vợ chồng kia như hai cái nấm lùn mọc lên từ những chậu hoa. Nếu trong một bức ảnh chụp phong cảnh, người ta có thể chụp tượng Nữ Thần Tự Do chân đế thật lớn, phần đầu và cánh tay cao vút, bé xíu chọc thẳng lên trời, nhưng người thật mà hình ảnh như thế thì quả là kinh dị.

Thợ ảnh bây giờ in ảnh chỉ cần máy tính, máy in chớ không cần phòng tối, không cần cầm đến cây bút, không cần tỉ mỉ tô vẽ từng sợi lông mày, không cần cạo bóng cho một đôi môi, tất cả đều thảy vào photoshop là xong. Người béo có thể kéo cho gầy, người gầy đổ cho đầy thành béo, lấy mắt mũi, chân tay người này dán vào cho người kia, hình chụp không cân đối thì cho vào máy tính cắt bớt… Công việc tiến hành nhanh hơn,  ảnh đẹp hơn, bóng bẩy hơn, thậm chí có thể nhào nặn, trộn ra một nhân vật khác, nhưng cái hồn của bức ảnh hình như rơi mất ở nơi nào!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét