Phần II : Thời Lê Duẩn
Chương X : Đổi mới
Từ
chỗ tập trung vào tay nhà nước ruộng đất, nhà máy và tất cả các quyền sản xuất,
kinh doanh, từ tháng 12-1986, Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu cho phép “các
thành phần kinh tế” được làm ăn một cách có giới hạn. Đồng thời, nhà nước cũng
từng bước cho tự do lưu thông hàng hóa trong nước, để thị trường điều tiết giá
cả thay vì lên kế hoạch và quyết định bằng các mệnh lệnh hành chánh. Việc chấp
nhận nền kinh tế vận hành theo các quy luật gần giống như nó vốn có được Đảng gọi
là “đổi mới”. Để đi tới quyết định đó, các nhà khởi xướng cũng đã phải mất rất
nhiều thời gian để thuyết phục các đồng chí trong Đảng và thuyết phục chính
mình.
Hội nghị Đà Lạt
Giữa
năm 1983, khi đến làm việc tại nhà máy Viso, một trong những những điển hình xé
rào ở Sài Gòn, ông Trường Chinh nói với Giám đốc Nguyễn Quang Lộc: “Nay tôi đến
đây để nghe. Chú như một chuyên gia cứ báo cáo hết chứ không phải lễ lạt gì”.
Ông Lộc báo cáo xong thì đã mười một giờ trưa. Bác sỹ riêng yêu cầu Trường
Chinh nghỉ, nhưng ông nói: “Tôi phải xuống xem nhà máy đã”. Năm ấy Trường Chinh
bảy mươi lăm tuổi. Sau khi trở lại sân chính, mọi người nhìn thấy ông, vây
quanh. Theo ông Lộc thì họ là những công nhân đã làm việc ở đây từ trước 1975,
là những người mà “cơ quan chức năng” từng nghi ngờ là “địch”. Trường Chinh
nói: “Phải chụp ảnh với giai cấp công nhân”. Chụp ảnh xong, ông ôm vai ông Lộc
ngay giữa sân: “Hôm nay bác chỉ dặn cháu một điều, làm gì thì làm cũng phải xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội”. Ông Lộc nhớ lại: “Tôi có cảm giác đó là lời
thầm thì của một papa”. Sở dĩ những người như ông Trường Chinh và đa số trong
Ban Bí thư lúc ấy đồng ý với “Khoán 100”, theo ông Trần Đức Nguyên, là vì nó
chưa đụng đến chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Khoán ruộng cũng như
“xé rào”, để được chấp thuận thì điều quan trọng nhất là phải làm cho các
“Papa” tin rằng chúng không hề thách thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ông
Trường Chinh đến Viso từ một gợi ý của ông Võ Văn Kiệt. Theo ông Đặng Xuân Kỳ,
con trai ông Trường Chinh: “Anh Sáu Dân giúp ông cụ hiểu thêm nhiều về thực tế,
đặc biệt là từ Hội nghị Trung ương 6, giữa năm 1979. Anh khuyên cụ đi cơ sở nhiều
hơn để trực tiếp nắm bắt tình hình”. Tháng 9-1982, Bộ Chính trị vào làm việc tại
Sài Gòn, phê phán xé rào hết sức nặng lời, có người còn quy thành phố là “phản
động”. Tại hội nghị, theo ông Nguyễn Văn Huấn, thư ký của ông Kiệt: “Ông Tố Hữu
bóng gió: Sáu Dân định làm vua Sài Gòn”. Cũng như ông Nguyễn Văn Linh, trong cuộc
“làm việc” này, ông Kiệt chọn con đường im lặng. Ông Kiệt và Thành ủy Thành phố
nhận ra phải tìm một con đường khác để từng bước thuyết phục trung ương thừa nhận
nhận xé rào. Con đường đó, theo ông Nguyễn Văn Huấn, khi ấy là thư ký riêng của
ông Kiệt, là: “Mời các anh Bộ Chính trị đi thực tế, xuống cơ sở, để các anh ấy
tự nhận ra làm ăn theo cách cũ là không được nữa”.
Trước
đó, tháng 4-1983, ông Trường Chinh đã đến Tây Nguyên để tìm hiểu cách “đồng bào
Tây nguyên đi lên chủ nghĩa xã hội”. Tại đây, ông giật mình khi biết trên văn bản
nói là có 93% hộ dân Tây Nguyên đã vào tập đoàn, hợp tác xã, nhưng hoạt động của
mô hình “kinh tế xã hội chủ nghĩa” đó chỉ là hình thức. Đồng bào vẫn du canh,
phá rừng, làm rẫy với cách canh tác lạc hậu như cũ; hợp tác xã vẫn phân phối
theo lối bình quân vì chưa biết tính toán định mức, cộng điểm.
Theo
ông Đặng Xuân Kỳ, người tháp tùng chuyến đi này: “Anh Y Ngông Niek Đam, bí thư
Daklak, nhờ tôi giúp báo cáo sự thật này vì anh ngại”. Nghe xong, ông Trường
Chinh hỏi: “Chả nhẽ ở dưới người ta nói dối Bộ Chính trị và Trung ương?”. Y Ngông
thật thà: “Dạ, nói dối”.
Theo
ông Trần Đức Nguyên, thư ký của Trường Chinh, ngay trong chuyến đi đó, ông Trường
Chinh đồng ý cho Daklak tiếp tục chính sách giao đất, giao rừng cho các hộ đồng
bào dân tộc. Đồng thời, khi trở lại Hà Nội, ông Trường Chinh đã “văn bản hóa”
quan điểm này trong một chỉ thị của Ban Bí thư do ông ký. Tháng 5-1983, sau nhiều
chuyến “vi hành” trở về, họp Bộ Chính trị, ông Trường Chinh phát biểu: “Chúng
ta đang ở trong tình hình nói dối phổ biến mà mọi người làm như là không nói dối”.
Sau chuyến đi đến nhà máy Viso, ông Trường Chinh muốn chia sẻ những vấn đề ông
ghi nhận được từ hiện tượng xé rào mà ông Võ Văn Kiệt nhen nhúm và cắm cờ điển
hình từ năm 1979. Tháng 7-1983, nhân khi có một số vị trong chính phủ khác đang
cùng ông nghỉ tại Đà Lạt, Trường Chinh đã liên hệ với Thành ủy Thành phố Hồ Chí
Minh, yêu cầu có báo cáo chính thức về “xé rào”.
Bí
thư Thành ủy lúc ấy là ông Nguyễn Văn Linh xuống Viso nói với ông Lộc: “Lộc ơi,
ta phải đi Đà Lạt. Các anh lãnh đạo đang nghỉ trên đó”. Ông Lộc hỏi: “Làm gì
anh Mười?”. Mười Cúc: “Tôi cho rằng anh Trường Chinh muốn các anh ở ngoài kia
hình dung được công việc của các cậu. Các cậu cũng phải gặp để các anh ấy biết
một tầng lớp cán bộ mới”. Ngoài Nguyễn Quang Lộc, giám đốc Viso, “tùy tùng” ông
Linh bao gồm những “điển hình xé rào” của ông Võ Văn Kiệt: Lê Đình Thụy, giám đốc
Thuốc lá Vĩnh Hội; Nguyễn Thị Lý, giám đốc Dệt Việt Thắng; Trần Tựu, giám đốc
Dược phẩm 2-9. Ông Lộc nhớ lại: Lê Đình Thụy vào phòng họp vừa nhìn thấy các
“papa” liền khóc rống lên. Ông Phạm Văn Đồng mắng: “Làm sao anh khóc?”. Ông Thụy
mếu máo: “Chúng tôi khổ quá, được giao kế hoạch mà trên không cân đối vật tư,
phải tự chạy vạy để hoàn thành kế hoạch trên giao và nuôi sống công nhân. Vậy
mà không được động viên lại còn nay đòi thanh tra, mai đòi bắt”. Ông Đồng lại mắng:
“Khi người ta giao kế hoạch người ta phải cân đối chứ. Tại sao có thể thế được?”.Phó
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Chí Công nói: “Nó giao đại thể thế chứ không có
cân đối đâu anh ơi”. Ông Đồng nói: “Tại sao không báo Đỗ Mười?”. Ông Công:
“Trên nó còn thứ trưởng, bộ trưởng làm sao nó lên tới phó chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng mà báo cáo được”.
Cũng
tại Hội nghị Đà Lạt, ông Trường Chinh đã nghe ông Phan Văn Khải, phó chủ tịch
Thành phố Hồ Chí Minh, và ông Mười Phi, giám đốc ngoại thương, nói về “xé rào”
trong hoạt động của khối phân phối lưu thông. Theo ông Nguyễn Quang Lộc: “Sau bốn
ngày lắng nghe, ông Trường Chinh ra ôm vai chúng tôi, nói: Các chú gặp khó khăn
nhưng đã rất dũng cảm. Phàm là một người cộng sản, chúng ta đừng sợ khó khăn, đừng
sợ sai lầm, sai thì sửa. Nhưng gì thì gì, phải kết hợp tốt giữa lý luận với thực
tiễn”.
Từ
cuối tháng 12-1981, ông Võ Văn Kiệt ra Hà Nội làm chủ nhiệm Ủy Ban Kế hoạch Nhà
nước. Sau hai năm ngồi ở trung ương, ông nhận ra nếu không “tháo gỡ được cách
nhìn thì sẽ không tháo gỡ được cơ chế”. Ông Kiệt gặp Bùi Văn Long, tổng giám đốc
Liên hiệp Dệt, đề nghị tổ chức hội nghị ngành dệt để các giám đốc nói hết những
ách tắc của mình. Ông Kiệt dặn: “Mời được càng nhiều lãnh đạo trung ương về
nghe càng tốt”.
Tháng
4-1984, tại khuôn viên công ty Dệt Phước Long, hơn hai mươi giám đốc trong và
ngoài ngành dệt đã báo cáo trước 200 đại biểu gồm lãnh đạo các tỉnh, thành phố,
các bộ, ban ngành và gần như đầy đủ các vị trong Hội đồng Bộ trưởng. Tuy hội
nghị khá dài, kéo tới ba ngày, nhưng không khí càng về sau càng cởi mở. Trả lời
một chất vấn về chính sách “hạch toán hai sổ”, Tổng Giám đốc Bùi Văn Long nói
thẳng: “Đúng là tôi có hai sổ: một sổ ghi thu chi các sản phẩm đầu vào theo giá
nhà nước, hợp pháp nhưng không hợp lý; một sổ ghi thu chi theo giá thật trên thị
trường, hợp lý nhưng không hợp pháp. Sổ hợp pháp để báo cáo cấp trên, sổ hợp lý
để điều hành doanh nghiệp. Ví dụ: Tôi mua cây tre, người ta chỉ bán với giá 1,5
đồng một cây nhưng Ủy ban Vật giá chỉ cho phép mua với giá một đồng một cây.
Tôi đành nói anh em mua một cây tre rồi chặt ra làm đôi, tính hai cây để ghi
vào sổ cho hợp pháp”.
Những
hội nghị như Đà Lạt hay Dệt Phước Long đã giúp các nhà lãnh đạo nghe được trực
tiếp những gì đang diễn ra thay vì nghe qua các báo cáo mà, theo ông Trần Nhâm,
thường không phản ánh đúng thực tế, cho dù được đóng dấu “mật” và chỉ lưu hành
trong nội bộ. Nếu như những người như ông Võ Văn Kiệt không tạo ra thực tiễn xé
rào thì những người như ông Trường Chinh sẽ không nhìn thấy sự bức bối của cơ
chế. Nhưng nếu như ông Trường Chinh không đủ bản lĩnh chính trị và năng lực tư
duy để giải thích thực tiễn và chuẩn bị cơ sở lý luận thích hợp với môi trường
chính trị lúc bấy giờ thì ông cũng khó mà thuyết phục được các đồng chí của ông
trong Đảng.
Nhóm giúp việc mới
Sau
chuyến đi Tây Nguyên, ông Trần Đức Nguyên bị điều đi khỏi văn phòng Trường
Chinh. Ông Trần Nhâm, một đồng nghiệp của ông Nguyên, cho biết: “Lý do công
khai để Ban Tổ chức thay anh Nguyên là vì anh Nguyên có một người chị định cư ở
Pháp. Thời ấy lý lịch như thế là ghê lắm”. Nhưng, cũng theo ông Nhâm, nguyên
nhân sâu xa là do trong các cuộc làm việc chung của nhóm, ông Trần Đức Nguyên
hay “nhận xét về các nhà lãnh đạo khác”. Một người trong nhóm giúp việc đã ghi
lại đầy đủ các phát ngôn này và sau đó đi báo với Ban Tổ chức. May mắn là chỗ
trống của ông Nguyên đã được “điền” bằng ông Hà Nghiệp, một nhà nghiên cứu xuất
sắc của thập niên 1980. Ông Hà Nghiệp lúc ấy đang làm vụ trưởng Vụ Tổng hợp Văn
phòng Trung ương Đảng. Ông có bằng đại học và phó tiến sỹ về cơ khí ở Liên Xô,
về nước giảng dạy ở trường Đại học Bách khoa. Năm 1975 ông được trưng tập vào
Nam tiếp quản
các cơ sở kinh tế, rồi về công tác ở Văn phòng Trung ương Đảng. Khi ấy, ông Trần
Đức Nguyên cũng được điều từ Ủy ban Kế hoạch Nhà nước về Văn phòng Trung ương.
Ông Nguyên kể: “Hai chúng tôi thường làm việc với nhau, rất thân nhau, hiểu
nhau vì Vụ của anh Nghiệp đảm nhiệm chính công tác nghiên cứu, biên tập phục vụ
Ban Bí thư, Bộ Chính trị. Tôi đặc biệt quý anh Hà Nghiệp ở cách nghĩ không bị
gò vào khuôn khổ thông thường mà luôn luôn tìm tòi cái mới phù hợp với thực tế.
Hồi đó, những người có tư tưởng đổi mới rất dễ bị phê phán. Anh Hà Nghiệp nói
vui: những người này phạm sai lầm vì đúng quá sớm”.
Theo
ông Đặng Xuân Kỳ, chính ông Trường Chinh đã yêu cầu Ban Tổ chức chọn đích danh
ông Hà Nghiệp. Tháng 7-1983, khi đang ở miền Nam để chuẩn bị cho Hội nghị Đà Lạt,
Trường Chinh đã cho gọi Hà Nghiệp vào dù khi ấy thủ tục Ban Tổ chức làm vẫn
chưa hoàn chỉnh. Ở Văn phòng Trung ương, Hà Nghiệp nổi tiếng luôn “nói ngược”.
Theo ông Trần Nhâm: “Một vị lãnh đạo trong Văn phòng Trung ương cũng muốn đẩy
đi, vì nghĩ kiểu Hà Nghiệp chỉ có thể làm việc với cụ Trường Chinh không quá ba
tháng. Không ngờ, ở càng lâu Hà Nghiệp càng trở thành một trợ lý mà ông Trường
Chinh tâm đắc nhất”.
Ông
Đặng Xuân Kỳ cho rằng: “Sẽ không có Trường Chinh của năm 1986 nếu như đầu thập
niên 1980 ông không tự mình lựa chọn những người giúp việc”. Ông Đặng Xuân Kỳ kể:
“Tôi học ở Nga tới năm 1965. Sau hai năm về nước, tôi nhận
ra bộ máy của mình có vấn đề. Tôi đề nghị cha tôi bắt đầu từ việc đổi mới bộ
máy giúp việc cán bộ chủ chốt. Nhiều người trong số họ xa rời thực tế, chỉ dựa
dẫm vào tiếng tăm các nhà lãnh đạo để hưởng bổng lộc. Nhưng năm ấy cụ không
nghe tôi. Phải tới năm 1972, cha tôi mới thừa nhận là cần phải thay người Trợ
lý số Một. Nhưng khi thay xong, tôi nói với ông: 'Người này cũng không khác những
người trước'. Cha tôi bảo: 'Đây là người Ban Tổ chức đưa về mà?'. Tôi nói:
'Nhưng vẫn không phải là người ta cần'. Cha tôi ngạc nhiên: 'Tổ chức thì làm
sao sai được?'”. Quyền lực của Ban Tổ Chức Trung ương dưới thời Trưởng Ban Lê Đức
Thọ có mặt gần như ở khắp nơi. Nhưng theo ông Kỳ: “Từ năm 1980, cha tôi không để
cho ông Lê Đức Thọ can thiệp nữa. Cụ tự chọn lấy những người giúp việc, và nếu
Ban Tổ chức không đồng ý ai, cụ yêu cầu phải giải thích”.
Cuối
năm 1983, ông Trường Chinh nói với ông Hà Nghiệp và Trần Nhâm: “Tình hình cấp
bách, nếu cứ tiếp tục như thế này, đất nước sẽ bế tắc”. Ông yêu cầu lập một
nhóm nghiên cứu tư vấn. Ông dặn: “Phải chọn những người có đầu óc mới mẻ, hiểu
chính sách kinh tế mới”. Nhóm nghiên cứu ngay sau đó được hình thành. Ngoài Hà
Nghiệp và Trần Nhâm, nhóm còn gồm Đào Xuân Sâm, chủ nhiệm Khoa Quản lý Kinh tế
của Học viện Nguyễn Ái Quốc; Lê Xuân Tùng, phó chủ nhiệm khoa của học viện này
kiêm thư ký của ông Lê Đức Thọ; Võ Đại Lược, viện trưởng Viện Kinh tế Thế giới;
Dương Phú Hiệp, phó viện trưởng Viện Triết học; Lê Văn Viện, giảng viên Đại học
Kinh tế Quốc dân Hà Nội, đang làm chuyên gia giúp tổng bí thư Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào; một phó Ban Cơ yếu Trung ương và ba chuyên viên cao cấp Ban Kinh
tế Trung ương, Nguyễn Thiệu, Trần Đức Nguyên và Nguyễn Văn Đào nguyên thứ trưởng
Bộ Ngoại thương. Giáo sư Dương Phú Hiệp nói: “Trước đó đã có tiền lệ Tổng Bí
thư Lê Duẩn lập ra nhóm nghiên cứu về Làm Chủ Tập Thể, nên ông Trường Chinh
cũng có cơ sở để báo cáo với Bộ Chính trị về việc hình thành nhóm nghiên cứu của
ông”. Theo Giáo sư Hiệp, trong buổi gặp đầu tiên, ông Trường Chinh nói: “Tôi biết
các đồng chí là những nhà khoa học, những người yêu nước, muốn đóng góp. Tuy
nhiên, nếu phát biểu ra ngoài những ý kiến mạnh mẽ bây giờ rất dễ bị quy chụp.
Nhưng ở đây, chúng ta cứ nói thẳng, nói hết, để tôi tìm cách nói lại trong Bộ
Chính trị, để Bộ Chính trị tìm biện pháp khắc phục những
thiếu sót của đất nước”.
Trong
các cuộc họp của nhóm nghiên cứu, ông Trường Chinh chỉ nghe và hỏi thêm chứ
không phát biểu ý kiến hay kết luận. Theo ông Trần Đức Nguyên: “Ông muốn chúng
tôi thật sự phát huy tự do tư tưởng, không bị trói buộc bởi những quan điểm
giáo điều, bảo thủ”. Trường Chinh nói với nhóm nghiên cứu: “Tôi lắng nghe các đồng
chí, nhưng vì tuổi cao, ghi chậm nên việc ghi chép xin nhờ mấy đồng chí thư ký
của tôi giúp”. Nhưng khi các chuyên gia phát biểu, ông không chỉ lắng nghe mà
còn mở sổ, cặm cụi ghi chép với một thái độ trân trọng và khiêm tốn. Phương
pháp của ông Trường Chinh đã tạo ra một không khí làm việc hết sức cởi mở trong
nhóm.
Một
lần, khi ông Trường Chinh hỏi Giáo sư Dương Phú Hiệp: “Khi nào thì ta có thể kết
thúc chặng đường đầu? Khi nào thì ta có thể kết thúc thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội?”. Giáo sư Hiệp trả lời: “Thưa bác cháu chưa biết”. Ông Trần Nhâm
và ông Hà Nghiệp nói: “Anh là chuyên gia về phân kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội
mà?”. Ông Dương Phú Hiệp chậm rãi: “Để trả lời câu hỏi này, cho phép cháu kể một
câu chuyện ngụ ngôn Nga”. Mặc dầu ông Trường Chinh nói: “Đang làm kế hoạch mà
nói chuyện dân gian Nga à?”. Nhưng ông có vẻ thích thú, bước tới đứng sát nơi
ông Hiệp ngồi, lắng nghe. Giáo sư Hiệp kể: Một người đi đường, khi ra tới bìa rừng
thì gặp một bác tiều phu, ông dừng lại hỏi: “Bác ơi, khi nào tới bến sông?” Người
tiều phu trả lời: “Không biết”. Người đi đường thất vọng bước tiếp và sau khi
đi được chừng mươi bước, bác tiều phu gọi giật lại bảo: “Còn bốn giờ nữa”. Người
đi đường ngạc nhiên: “Sao nãy bác không nói?” Bác tiều phu: “Khi nãy anh đứng
tôi không biết, giờ anh đi tôi mới biết”. Rồi ông Dương Phú Hiệp quay về phía
ông Trường Chinh: “Thưa bác, hiện nay ta chỉ dẫm chân tại chỗ chứ không đi nên
thật khó trả lời là đến khi nào thì đi hết thời kỳ quá độ”. Ông Trường Chinh
nghe xong, cười và nói: “Đồng chí văn nghệ thì để tôi cũng góp chút văn nghệ”.
Ông đọc bài Tiết Lập Xuân của Cao Bá Quát: “Khứ nhật xuân lai phá cựu hàn / Kim
chiêu hồng tử đấu thiên ban / Hà đương thế sự như hoa sự? / Phong vũ giang sơn
tận cải quan”, rồi đọc phần dịch thơ của ông: “Hôm trước xuân về tan giá lạnh /
Sáng nay muôn tía đấu ngàn hồng / Việc đời ví được như hoa nhỉ / Mưa gió qua rồi
đẹp núi sông”. Ông nói với anh em giúp việc: “Giờ ta đang khó khăn nhưng đừng
bi quan quá. Mây tan, gió tạnh sẽ về thôi”.
Không
bi quan không có nghĩa là mũ ni che tai, ông Trường Chinh tìm cách để hiểu những
gì đang diễn ra trong cuộc sống. Một hôm, Giáo sư Dương Phú Hiệp tới trễ. Ông
Trường Chinh hỏi thăm, ông Hiệp nói: “Đêm qua cháu phải thức đêm xách nước bác ạ”.
Ông chép miệng: “Vất vả nhỉ”. Ông Hiệp nói: “Không phải mình cháu. Các khu tập
thể ở Hà Nội đều thiếu nước, người dân phải xếp hàng tới khuya mới hứng được
vài xô nước mang về dùng. Bác ạ, bên ngoài người ta đang hát: Đêm đến cả nhà lo
việc nước / Sáng ra cả nước lo việc nhà”. Theo ông Trần Nhâm, từ đó, Trường
Chinh yêu cầu thu thập những câu nói trong dân gian, đặc biệt là những chuyện
tiếu lâm chính trị như là một phần giúp ông hiểu tâm tư nguyện vọng của dân
chúng.
Thập
niên 1980 có lẽ là giai đoạn để lại nhiều chấn thương cả về thể chất lẫn tinh
thần cho người Việt nhất. Những người lính tham gia hai cuộc chiến tranh ở biên
giới phía Bắc và Campuchia không còn có cái hào hùng của những người lính trên
đỉnh Trường Sơn năm xưa. Không còn những bộ quân phục vải Tô Châu xanh bền, phải
lăn lộn trên các chiến trường giá rét ở phía Bắc, gay gắt ở Tây Nam, bộ ka ki
Vĩnh Phú của người lính nhanh chóng rách gối, thủng đít. Bộ đội có sáng kiến cắt
ống, quay phần lành lặn từ phía sau lên thay cho đầu gối và gọi đấy là “ưu tiên
phía trước”.
Cuộc
sống của những người dân ở hậu phương cũng trăm bề khó khăn: Cây đinh phải đăng
ký / Trái bí cũng sắp hàng / Khoai lang cần tem phiếu / Thuốc điếu phải mua
bông / Lấy chồng phải cai đẻ / Bán lẻ chạy công an / Lang thang đi cải tạo / Hết
gạo ăn bo bo / Học trò không có tập… Đầu thập niên 1980, ở Sài Gòn có khoảng
năm vạn sỹ quan, công chức được tha về từ các trại cải tạo. Họ đương nhiên là
không thể xin việc làm, chỉ có thể kiếm sống qua ngày bằng cách ra đường. Các sỹ
quan cách mạng, những người hùng ngày nào giờ đây cũng: Đầu đường đại tá bơm xe
/ Giữa đường trung tá bán chè đỗ đen / Cuối đường thiếu tá buôn kem… Cho dù bộ
máy tuyên truyền hoạt động hết công suất nhưng tinh thần của dân chúng dường
như không còn có khả năng gượng dậy.
Mãi
cho tới gần cuối thập niên 1980, ngay tại những thành phố lớn như Hà Nội, Sài
Gòn, người dân vẫn phải xoay xở bằng cách nuôi heo, nuôi cá trê phi để sống.
Nhiều người “sống chung với heo” trong những căn hộ chật chội trên tầng năm, tầng
tám. Ở Hà Nội, cán bộ viên chức cũng phải xoay xở. Có một giai thoại nổi tiếng
về Giáo sư Văn Như Cương: Ông bị người dân trong một khu tập thể ở Hà Nội kiện
vì nuôi lợn trong căn hộ của ông ở tầng hai làm mất vệ sinh. Chính quyền khu phố
tới nhà phê bình và ghi vào biên bản: “Giáo sư Văn Như Cương nuôi lợn ở tầng
hai”. Ông không phản đối nhưng trước khi ký nhận chỉ xin sửa lại: “Lợn nuôi
Giáo sư Văn Như Cương ở tầng hai”. Bằng nhiều kênh khác nhau, có khi qua nhóm
nghiên cứu, qua những người giúp việc, có khi qua những người trong gia đình hoặc
những cán bộ cương trực nói lại, ông Trường Chinh nghe được khá đầy đủ sự ta
thán của dân tình. Người dân gọi những năm đầu thập niên 1980 là thời kỳ “Ba-Đồng-Chinh”. Có những câu đồng dao được mọi người đọc cho nhau: “Anh Đồng,
anh Duẩn, anh Chinh / Ba anh có biết dân tình sao không / Rau muống nửa bó một
đồng / Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân”.
Theo
ông Đặng Xuân Kỳ thì cha ông còn dũng cảm để nghe cả những tiếu lâm chính trị
nói trực diện tới mình. Một trong những tiếu lâm đó được kể: Một hôm, ba nhà
lãnh đạo cao nhất của đảng đi chung một chuyến chuyên cơ, ngó xuống hạ giới thấy
dân tình nheo nhóc, đói khát, mặt mũi thểu não. Bỗng một người hỏi: “Bây giờ
mình ném cái gì xuống thì đám dân ấy mới tươi tỉnh lên được nhỉ?”. Bác Đồng nói
trước: “Chắc họ đang đói. Hãy ném cho họ mấy bữa cơm không độn”. Bác Chinh cho
rằng: “Điều họ thiếu là lý tưởng. Hãy ném cho họ lý luận về thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội”. Bác Duẩn lắc đầu: “Không phải! Không phải! Họ cần làm chủ
tập thể”. Trong khi ba bác còn chưa thống nhất được nên ném gì cho dân thì anh
phi công lái chuyến chuyên cơ rụt rè đề nghị: “Dạ thưa, cháu có ý kiến được
không ạ?”. Ông Lê Duẩn nói ngay: “Tại sao không? Cứ phát huy dân chủ”. Bấy giờ
anh phi công mới nói: “Dạ, muốn cho đám dân tình dưới đó reo vang hạnh phúc thì
chỉ có cách là ném cả ba bác ra khỏi máy bay thôi ạ”.
Người của những khúc quanh lịch sử
Trong
những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trường
Chinh đều đã có mặt: có khi là để lãnh đạo Việt Minh cướp chính quyền như hồi
năm 1945, có khi đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân về sai lầm của Đảng trong cải
cách ruộng đất năm 1956, và trong thập niên 1980 là tự thức tỉnh và dẫn dắt Đảng
thoát ra khỏi sự bế tắc bởi chính những đường lối của mình.
Tháng
1-1941, Nguyễn Ái Quốc về Pác Bó, Cao Bằng, sau ba mươi năm “bôn ba”. Tại đây,
tháng 5-1941, ông chủ trì Hội nghị Trung ương 8: Trường Chinh chính thức được bầu
làm tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, kiêm trưởng Ban Tuyên huấn. Từ đầu
năm 1942, Nguyễn Ái Quốc đã trở lại Trung Quốc và tháng tám năm ấy bị Quốc dân
Đảng Trung Hoa bắt giam. Mọi công việc tuyên truyền chuẩn bị đều do Trường
Chinh tổ chức thực hiện. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng: “Bác Hồ là linh hồn
của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhưng đề ra đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về
lý luận với cuốn “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, là do anh Trường Chinh”. Đặc
biệt, trong giai đoạn “tiền khởi nghĩa”, vai trò quyết định là của Trường
Chinh. Công cụ cách mạng sắc bén nhất của Trường Chinh giai đoạn này là ngòi
bút.
Ngày
8-3-1945, sau khi phân tích các nguồn tin, Trường Chinh nhận định: “Nhật sắp lật
Pháp”, rồi lập tức triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng tại chùa
Đồng Kỵ. Chập choạng tối 9-3-1945, trong cuộc họp có mặt Trường Chinh, Nguyễn
Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Trân…, khi Tổng Bí thư vừa
tuyên bố lý do họp thì tiếng chó rộ lên, đồng thời có người đập cửa dồn dập. Sư
cụ cho chú tiểu ra mở cửa, thấy hai bóng người tay cầm đèn pin bước vào. Sư cụ
liền: “chào thầy phó, thầy trương” thật to để báo động.
Cuộc
họp Ban Thường vụ Trung ương phải chuyển sang “phương án hai”. Các nhà lãnh đạo
Đảng nhanh chóng thu xếp giày dép, khăn áo, chui qua bụi tre sau chùa, theo hướng
nam, đi sang làng Đình Bảng. Vừa vượt qua đường xe lửa, tới địa phận Đình Bảng
thì nghe tiếng súng nổ dữ dội phía Hà Nội. Ông Trường Chinh reo lên: “Nhật,
Pháp bắn nhau rồi anh em ơi!”. Lúc đó là đúng 8 giờ 25 phút tối ngày 9-3-1945.
Sau Hội nghị, Trường Chinh lánh sang chùa Dận, viết Chỉ thị: “Nhật Pháp đánh
nhau và hành động của chúng ta”, bản chỉ thị ngay sau đó, được bí mật in ấn để
phát đi toàn quốc.
Trước
khi Hồ Chí Minh từ Trung Hoa trở về Pac Bó, Trường Chinh đã triệu tập và chủ
trì Hội nghị Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ, chủ trương lập “bảy chiến khu cách mạng”
và “thống nhất các lực lượng vũ trang”. Theo ông Trần Quốc Hương, trước khi lên
Tân Trào, biết Hồ Chí Minh đang bệnh, Trường Chinh quay lại ATK ngoại thành, gọi
Mười Hương ra nói: “Tôi phải lên chiến khu ngay. Trung ương cần một bác sĩ và một
số thuốc để đưa lên ấy phục vụ cách mạng”. Bác sỹ Lê Văn Chánh được Mười Hương
tiến cử đã theo ông Trường Chinh mang theo dụng cụ y tế và thuốc men lên Việt Bắc.
Theo
dặn dò của ông Trường Chinh, tối 15-8-1945, sau khi biết chắc Nhật xin đầu hàng
Đồng Minh, ông Nguyễn Khang triệu tập Hội nghị Xứ ủy gồm: Lê Liêm, Trần Tử
Bình, Nguyễn Văn Lộc… Tại làng Vạn Phúc, chỉ thị ngày 12-3-1945, “Nhật Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta” của Trường Chinh lại được đưa ra thảo luận. Sau
khi phân tích những điều kiện “tất yếu cho cuộc tổng khởi nghĩa” mà Trường
Chinh chỉ ra, các ủy viên dự họp đã reo lên: “Thế này là đúng rồi. Ta phải lãnh
đạo quần chúng nổi dậy, tổng khởi nghĩa ngay lập tức!”. Hội nghị quyết định
thành lập Ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc Bộ để lãnh đạo quần chúng nổi dậy khởi
nghĩa trong phạm vi mười tỉnh ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Trong khi các đại biểu
đang ở Tân Trào để dự đại hội do Hồ Chí Minh chủ trì, các địa phương đã theo chỉ
thị của xứ ủy, lần lượt nổi dậy chiếm phủ, huyện rồi tiến vào chiếm tỉnh lị. Ở
Hà Nội, Ủy ban Quân sự Cách mạng được thành lập do Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nguyễn
Khang trực tiếp làm chủ tịch để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Lấy danh nghĩa Kỳ bộ
Việt Minh, Xứ ủy ra một bản thông báo cho các địa phương tiến hành khởi nghĩa
dành chính quyền. Ngày 19-8-1945, lực lượng của Nguyễn Khang chiếm Phủ Khâm sai.
Khi
Hà Nội đã rực trong cờ đỏ sao vàng, các đại biểu đi dự Đại hội Quốc dân ở Tân
Trào vẫn chưa rời căn cứ. Xứ ủy Bắc Bộ và Thành ủy Hà Nội lập tức cử đại diện
lên chiến khu “mời Bác và trung ương” về, các đại diện này đi đến Thái Nguyên thì
gặp ông Trường Chinh, cũng đã nghe tin, đang trên đường từ Tân Trào xuôi về.
Chiều ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh và tùy tùng theo đường sông Hồng về đến Chèm.
Các cán bộ thuộc “Công tác Đội” đón và bố trí ông ở nhà bà Chánh Hai ở Phú Thượng,
một cơ sở của xứ ủy nằm trong ATK. Sẩm tối ngày 26-8-1945, Hồ
Chí Minh được ông Trường Chinh đón bằng một chiếc xe hơi hiệu Citroen. Chiếc
Citroen mang biển số T.A.20 này, hôm 19-8-1945, đã được ông lái xe tên là Nền
lái đưa ông Nguyễn Khang đi khắp Hà Nội chỉ huy khởi nghĩa. Sau khi đón ông Trường
Chinh từ Phù Đổng về, ông Nguyễn Khang đã giao chiếc xe lại cho tổng bí thư.
Trường
Chinh đưa Hồ Chí Minh về 35 Hàng Cân, mặt sau nhà 48 Hàng Ngang của ông bà Trịnh
Văn Bô, một nhà tư sản có tiếng ở Hà Nội. Hàng ngày, sau khi ăn sáng tại nhà Trịnh
Văn Bô, Hồ Chí Minh làm việc tại nhà hoặc ra Bắc Bộ phủ. Còn ông Trường Chinh
thì từ hôm 26-8 đã tạm dời sang số 6 phố Hàng Đào. Khi Hồ Chí Minh thành lập
Chính phủ Liên hiệp, ông Trường Chinh không nắm giữ chức vụ nào. Trong thời gian
Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật, ông làm hội trưởng “Hội
Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”. Tại Đại hội Đảng lần II, ông chính thức
trở lại làm tổng bí thư, lúc này, Đảng đã đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam.
Năm
1953, khi Cụ Hồ đồng ý với Stalin và Mao Trạch Đông thi hành cải cách ruộng đất,
Trường Chinh là “trưởng Ban Cải cách Trung ương”. Ba năm sau, tháng 9-1956, khi
Trung ương “sửa sai”, ông phải đứng ra nhận lãnh trách nhiệm bằng cách từ chức.
Chức vụ nhà nước đầu tiên mà ông được giao là phó thủ tướng chính phủ kiêm chủ
nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước (năm 1958). Tháng 7-1960, ông được cử làm chủ tịch
Quốc hội, và nắm giữ chức vụ này hơn hai mươi năm.
Tháng
7-1981, ông chuyển sang làm chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Thời kỳ này, theo ông
Trần Nhâm: “Văn phòng đồng chí Trường Chinh nhận được hàng trăm, hàng ngàn báo
cáo, kiến nghị của các cơ quan, các cấp, các ngành và địa phương cùng với thư từ
của cán bộ, đảng viên và nhân dân khắp nơi tới tấp gửi về”.
Từ chính sách Kinh Tế Mới
Ông
Trường Chinh cùng nhóm nghiên cứu của ông đã chọn điểm bắt đầu bằng cách “nhận
thức lại những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lenin”. Mô hình “xã hội chủ
nghĩa” mà Liên Xô buộc các nước phải tuân thủ đã được chính thức
giảng dạy trong hệ thống các trường đảng của Việt Nam. Kinh qua
những khóa học ở trường đảng là tiêu chuẩn bắt buộc để một người có thể đảm
đương các cương vị lãnh đạo chủ chốt. Tính đến đầu thập niên
1980, có hơn một triệu người Việt Nam đã được giáo dục về mô hình Stalin ở
trong các trường của Đảng. Chỉ có nhân danh chủ nghĩa Marx-Lenin mới có thể làm
thay đổi nhận thức của đội ngũ cán bộ đó. Lúc này, các nhà nghiên cứu như Hà
Nghiệp, Đào Xuân Sâm, Trần Đức Nguyên đã có một thời gian tiếp xúc với “chính sách
kinh tế mới của Lenin”, thông qua những khóa học do các chuyên gia Liên Xô giảng
dạy. Năm 1978, khi nhận ra những hạn chế về lý luận của đội ngũ cán bộ các cấp,
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thay mặt Bộ Chính trị làm việc với Học viện Chính trị
Quốc gia và Viện Quản lý Trung ương, đặt vấn đề phải dạy quản lý kinh tế cho
cán bộ cao cấp.
Thời
gian này ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đang “dò đá qua sông”, chấp nhận cả “mèo
trắng lẫn mèo đen miễn là bắt được chuột”. Vận nước thật trớ trêu - Việt Nam đã
không ít lần lệ thuộc Trung Hoa, nhưng đã không “lệ thuộc” những khi Trung Quốc
có những bước đi tích cực. Khi ấy Việt Nam đang coi người láng giềng phương Bắc
này của mình là “kẻ thù truyền kiếp”. Những thay đổi ở Trung Quốc vào thời điểm
đó nếu có xuất hiện trên các diễn đàn của Việt Nam thì cũng chủ yếu để đả kích
và phê phán. Trong hoàn cảnh ấy, Hiệp định Hợp Tác Toàn Diện giữa Việt Nam và
Liên Xô được ký kết. Theo đó, Liên Xô không chỉ mang đến cho Việt Nam một tỷ
rúp mỗi năm mà còn đem theo một đội ngũ chuyên gia hùng hậu.
Đội
ngũ chuyên gia Liên Xô đến Việt Nam trong giai đoạn này bao gồm các cố vấn quản
lý và các chuyên gia nghiên cứu. “Tổng Cố vấn” là ông Paskar, nguyên chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng của Nước Cộng hòa Xô viết Moldavia. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm, nếu
như các cố vấn quản lý như Paskar mang theo não trạng cũ, càng “cố vấn” càng
làm cho bộ máy nhà nước Việt Nam vận hành “quan liêu bao cấp” hơn, thì các
chuyên gia lý luận lại có công giúp đội ngũ cán bộ Việt Nam tìm được lối thoát
về tư duy một cách tích cực. Ngoài hàng ngàn cán bộ đã được đưa đi đào tạo từ
dài hạn, trung hạn đến ngắn hạn ở Liên Xô, từ tháng 3-1979, đoàn giảng viên đầu
tiên đã đến Việt Nam, mang theo “chính sách kinh tế mới của Lenin”, chính sách
được biết đến với tên viết tắt là NEP.
Chính
sách kinh tế mới được Lenin đưa ra chỉ một thời gian ngắn ngay sau khi chính
sách “cộng sản thời chiến” xóa hết tư hữu mà ông áp dụng ở nước Nga thất bại.
Theo ông Đào Xuân Sâm: Khi áp dụng NEP, Lenin không nói rõ đây là một sách lược
tạm thời hay lâu dài. Sau khi Staline lên nắm quyền, NEP không chỉ bị kết liễu
mà nó gần như không được nhắc tới ngay cả trong nhà trường. Ở Liên Xô, chỉ những
chuyên gia lý luận cao cấp mới có quyền được nghiên cứu NEP.
Cuối
thập niên 1980, sau những bế tắc của mô hình cũ, các nhà lý luận Liên Xô bắt đầu
đề cập đến Lenin thông qua chính sách kinh tế mới. Tới Việt Nam, Viện trưởng
Kinh tế học Liên Xô Abalkin, người về sau trở thành phó chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Liên Xô đã cho rằng sai lầm của mô hình cũ là “phủ nhận thị trường, xây
dựng kế hoạch một cách duy ý chí”. Viện sỹ Viện Hàn lâm Nông nghiệp Liên Xô
Igor Tikhonov thì coi căn bệnh hợp tác xã cao cấp ở Việt Nam cũng giống như bệnh
ở các nông trang tập thể Liên Xô. Một chuyên gia trẻ khác là Kulikov thì viện dẫn
Lenin ủng hộ việc sử dụng kinh tế cá thể, tư bản tư doanh và tư bản nước ngoài:
“hãy bắt giai cấp tư sản làm nốt sứ mệnh của nó”.
Bài
giảng của các chuyên gia Liên Xô táo bạo và mới mẻ tới mức chính Tổng Cố vấn
Paskar cũng đã nhiều lần tỏ thái độ không đồng tình. Tuy nhiên, Paskar không thể
làm gì vì bản thân các vị viện sỹ hàn lâm này cũng đều là những người thế lực.
Igor Tikhonov là em ruột của Nicolas Tikhonov, người lúc đó là chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng Liên Xô. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm thì Tikhonov đã nói với ông về các
cố vấn quản lý như Paskar: “Bọn này ở bên kia cũng làm khổ tụi tao nhiều lắm”.
Về
phía Việt Nam, một số học viên “kiên định lập trường” đã báo cáo lên trung
ương. Giới lý luận trong nước cho rằng “Liên Xô sang giảng bài chống lại lý luận
của đảng ta”. Ông Lê Duẩn, ông Trường Chinh, ông Phạm Văn Đồng cho người đi nghe
về báo lại nhưng cả ba ông đều không có ý kiến gì. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm:
“Lúc đó niềm tin với Liên Xô vừa được khôi phục trở lại. Những lý luận đó lại
được dẫn từ NEP của Lenin. Nên cho dù trái với Marx, các nhà lý luận cấp tiến ở
trung ương đã tự an ủi rằng, đây là sách lược tạm thời, bước lùi tạm thời, khi
khá lên lại tập trung hóa, lại xóa tư hữu như Marx nói”.
Hơn
1000 cán bộ Việt Nam đã tham gia các lớp nghiên cứu về NEP trước khi Trung ương
bắt đầu có những sửa đổi ở Hội nghị Trung ương 6 vào giữa năm 1979. Đặc biệt,
các chuyên gia Liên Xô đã tổ chức năm lớp học cho các cán bộ cấp bộ trưởng, thứ
trưởng, bí thư, chủ tịch tỉnh. Hội nghị Trung ương 6 có cơ sở lý luận hơn để
phân tích “những vấn đề kinh tế cấp bách” để “cởi trói” dần cho sản xuất. Theo
Giáo sư Trần Đình Bút, phân hiệu trưởng của trường Quản lý Kinh tế Trung ương tại
Thành phố Hồ Chí Minh, các viện sỹ Liên Xô tham gia giảng dạy NEP ở Việt Nam đã
tới tìm hiểu giải pháp “bù giá vào lương” ở Long An và “khoán” ở xí nghiệp đánh
cá Côn Đảo - Vũng Tàu. Các vị viện sỹ đã rất đồng tình ủng hộ.
Khác
với hai ông Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, chỉ tiếp cận với các lớp giảng dạy về chính
sách kinh tế mới của Lenin thông qua báo cáo, ông Trường Chinh thường xuyên thảo
luận với các chuyên gia của mình về những nội dung của NEP. Đặc biệt, từ đầu
năm 1983, Trường Chinh liên tục đi tới các địa phương: ngày 10 đến 14-4-1983,
ông đi Đak Lak; ngày 15 đến 19-4-1983 ông tới Gia Lai- Kon Tum; ngày 18 đến
22-7-1983, ông làm việc ở Lâm Đồng; ngày 21 đến 22-8-1983, ông đến khu công
nghiệp Biên Hòa; ngày 23 đến 25-8-1983, ông xuống Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo;
ngày 11 đến 15-8-1984, sau khi dự Quốc khánh Campuchia, ông về Thành phố Hồ Chí
Minh rồi đi khảo sát chính sách “bù giá vào lương” ở Long An.
Chuyến
đi Long An có ấn tượng tốt. Theo ông Trần Nhâm: “Chưa bao giờ tôi thấy vẻ mặt
ông rạng rỡ và tinh thần ông phấn chấn đến như thế”. Trong năm 1985, Trường
Chinh tiếp tục nghiên cứu thực tế để củng cố tư duy đổi mới của mình: ngày 16 đến
19-1-1985, ông trở lại Thành phố Hồ Chí Minh cùng Nguyễn Văn Linh thăm một số
nhà máy, xí nghiệp có cách làm ăn mới mẻ; ngày 20 đến 23-1-1985, ông trở lại
Long An rồi từ đó đi An Giang, Đồng Tháp; chuyến đi kéo dài ba tuần lễ này kết
thúc ở Cần Thơ vào ngày 5-2-1985. Cho dù, tháng 8-1985, Trường Chinh còn đi
Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và tới tháng 11-1985, ông xuống Hải Phòng, theo ông Trần
Nhâm, thực tế sinh động ở miền Nam đã “khắc họa tư duy đổi mới của Trường Chinh”.
Đến chọc thủng thành trì bao cấp
Kết
quả nghiên cứu từ thực tiễn tới lý luận của Trường Chinh bắt đầu được ông tung
ra tại Hội nghị Trung ương 6, họp từ ngày 3 đến 10-7-1984. Bài phát biểu của
ông đã để lại một khoảng cách khá lớn giữa Trường Chinh và các đồng chí của
mình. Khoảng cách đó càng bộc lộ rõ khi ý kiến của ông được đặt bên cạnh bài
phát biểu của Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Ông
Lê Duẩn mở đầu Hội nghị Trung ương 6 bằng một bài phát biểu được chuẩn bị công
phu. Tình hình kinh tế lúc ấy đã lâm vào tình cảnh “tiến thoái lưỡng nan”,
nhưng bản báo cáo của tổng bí thư vẫn "kiên định": ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng; đưa ngay nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; lấy kế
hoạch làm trung tâm của hệ thống quản lý kinh tế; làm chủ tập thể trong phân phối
lưu thông,... Ông cho rằng, kế hoạch “đặt lên hàng đầu giá trị sử dụng bằng cách
cân đối hiện vật”.
Ngay
sau báo cáo chính trị của tổng bí thư, ông Trường Chinh trình bày một bài phát
biểu dài khoảng ba mươi trang, yêu cầu trung ương “nhìn thẳng vào những sự thật
trong đời sống kinh tế”. Trường Chinh nói: “Chế độ bao cấp trong những năm qua
làm cho bức tranh kinh tế của chúng ta trở thành giả tạo”. Ông cho rằng: “Trên
quan liêu nên dưới phá rào… tình trạng báo cáo sai sự thật đang lan tràn ở mọi
ngành mọi cấp”. Trước hai hiện tượng tiêu cực, “quan liêu, bao cấp, bảo thủ,
trì trệ” và “tự do chủ nghĩa, vô tổ chức, vô kỷ luật”, theo ông Trường Chinh,
tình trạng “quan liêu, bao cấp, bảo thủ, trì trệ” nguy hiểm hơn.
Ngay
tại Hội nghị Trung ương này, ông Trường Chinh đã yêu cầu Đảng, dù muốn hay
không “cũng phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của giá thị trường, đó là giá
thực tế mà cả xã hội dang phải sống hàng ngày với nó”. Trường Chinh kêu gọi
“khôi phục tính chân thật của các hoạt động kinh tế”. Theo ông, bao cấp không
những làm cho nhà nước “sa vào công việc sự vụ hàng ngày, làm thay công việc của
các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, can thiệp sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, bận bịu, tất bật đến nỗi không còn thời gian để suy nghĩ đến việc
mình phải cầm lái như thế nào”, mà còn dẫn tới “một hệ thống giá cứng nhắc và
quá thấp, gây thiệt hại lớn đến lợi ích quốc gia và người lao động”.
Có
không ít ủy viên trung ương ngạc nhiên khi “papa” Trường Chinh đưa ví dụ có nơi
“lương giáo viên được trả bằng phân bón”. Ông nói trước hội nghị: “Giáo viên
mang phân được trả với giá 7 đồng/kg bán ra thị trường với giá 50 đồng/kg để lấy
tiền chi cho sinh hoạt”. Theo ông: “Tiền lương của người lao động hiện nay chỉ
đủ sống trong mười ngày và đang có xu hướng giảm hơn nữa, kể cả khi được cung cấp
các mặt hàng định lượng. Vậy còn hai mươi ngày nữa phải sống sao đây!”. Khi
nghe Trường Chinh nhấn mạnh: “Giải quyết tiền lương lúc này, chính là giải quyết
sản xuất, đồng thời cứu lấy giai cấp công nhân”, những người có mặt ở Hội nghị
Trung ương 6 đã đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt. Trước đó, khi ông Trường Chinh nhắc
đến cụm từ “tự động xé rào”, cả hội trường cười ầm lên. Bài phát biểu tại Hội
nghị Trung ương 6 của Trường Chinh làm cho nhiều ủy viên trung ương “sửng sốt”.
Ông Phạm Văn Đồng thừa nhận: “Anh Thận nói làm tôi rợn người”. Ngay sau hội nghị,
các ngành, các địa phương đã phổ biến, truyền tụng những quan điểm chính yếu
trong bài phát biểu này.
Theo
ông Hà Nghiệp, quan điểm của ông Trường Chinh tại Hội nghị Trung ương 6 rất
khác với bản báo cáo của ông Lê Duẩn, nhưng đấy không phải là một cuộc đụng độ.
Cho dù uy tín của Trường Chinh là rất lớn trong dân, trong Đảng, nhưng trước
khi đưa ra Trung ương, ông vẫn thường trực tiếp cầm bài phát biểu của mình sang
trao đổi với ông Lê Duẩn. Vào thời điểm ấy, sức khỏe của ông Lê
Duẩn đã bắt đầu giảm sút. Có lẽ điều ông quan tâm lớn nhất là hệ thống hóa tư
duy lý luận của mình, nên thay vì nắm bắt những gì đang diễn ra, bản báo cáo
dài hơn bảy mươi trang của ông chủ yếu xoay quanh “mười quy luật kinh tế rường
cột” đậm chất kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa mà mà ông đã nghiên cứu từ thời viết
Dưới Ngọn Cờ Vẻ Vang Của Đảng.
Giá-Lương-Tiền
Sau
Hội nghị Trung ương 6, nhiều địa phương bắt đầu áp dụng thử chính sách “bù giá
vào lương và tính đủ giá thành vào sản phẩm”. Kết quả trên thực tế diễn ra tích
cực không ngờ. Năm tháng sau đó, tại Hội nghị Trung ương 7, họp từ ngày 10 đến
17-12-1984, Trường Chinh kêu gọi: “Dứt khoát bãi bỏ cơ chế quan liêu bao cấp.
Phải mổ xẻ và loại bỏ cái ung nhọt này càng sớm càng hay. Không một chút gì
đáng để chúng ta luyến tiếc”. Hội nghị Trung ương 7 đã nhất trí với đề nghị của
ông Trường Chinh, cho thành lập Tiểu Ban Nghiên cứu Giá - Lương - Tiền, chuẩn bị đề
án trình Hội nghị Trung ương 8.
Hội
nghị Trung ương 8, tháng 6-1985, đã coi việc giải quyết giá-lương-tiền là “khâu
đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh
xã hội chủ nghĩa”. Hai tháng sau khi có nghị quyết, số lượng các địa phương làm
thử bù giá vào lương lên đến hai mươi tám tỉnh, thành; mười hai tỉnh, thành
khác cũng tích cực chuẩn bị. Người đứng đầu “Bộ Tham mưu” cải cách Giá-Lương-Tiền
là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Phương, một chuyên gia hàng đầu của bộ
máy kế hoạch hóa tập trung; giúp việc ông là sáu bộ trưởng và tổng giám đốc
Ngân hàng Nhà nước.
Ông
Hà Nghiệp gọi ông Trần Phương là người “cấp tiến nhất trong phe bảo thủ”. Còn
ông Trần Phương thì thừa nhận: “Khi đó bọn mình nghĩ về giá còn ngây thơ lắm”. Sở
dĩ các địa phương như Long An, Hải Phòng,… thí điểm bù giá vào lương thành công
là nhờ mức bù giá căn cứ trên giá bán được “những hiện vật tính thành lương”
như xà bông, vải, gạo, thịt,… Trong khi, để thực hiện Nghị quyết 8, ngày 10-8-1985,
Bộ Chính trị ra Nghị quyết 28: phê chuẩn mức giá mua thóc từ 15-18 đồng/kg, ở
vùng thuận lợi từ 26-28 đồng/kg ở vùng khó khăn; phê chuẩn mức lương tối thiểu
cho cán bộ công nhân viên 2.200 đồng/tháng… Mức giá mua thóc lên đến từ 26-28 đồng/kg
là dựa trên ý kiến của chính ông Trương Chinh trong khi mức giá được đề nghị là
10 đồng/kg. Ông Trường Chinh đã đúng khi cho rằng nếu mua thóc với giá mười đồng
thì vẫn theo tư duy bao cấp. Tuy nhiên, theo ông Trần Phương, từ chuẩn giá thóc
như vậy, các loại vật tư hàng hóa khác cũng phải điều chỉnh tăng lên khoảng mười
lần.
Theo
ông Trần Phương: “Đầu thập niên 1980, Việt Nam có một triệu rưỡi quân, hai triệu
cán bộ công nhân viên chức và mười triệu dân thành phố. Để cung cấp lương thực,
thực phẩm cho lực lượng này, Bộ Nội thương đã phải ép nông dân để mua thóc và lợn
với giá chỉ bằng một nửa giá mà người dân trao đổi với nhau ngoài chợ. Với tư
cách một nhà nghiên cứu, tôi chống lại điều phi lý đó. Ngay từ năm 1981, khi
làm bộ trưởng Bộ Nội thương, tôi đã yêu cầu phải sửa giá chuyển sang giá thỏa
thuận, sửa giá toàn bộ và sửa lương. Đề án của tôi trình ra như một quả bom,
các bộ ai cũng run. Lê Duẩn kết luận: phải theo kế hoạch nhưng giá phải theo thị
trường”.
Đề
án “Giá-Lương-Tiền” năm 1985 của Trần Phương “dè dặt hơn” Đề án 1981 vì theo
ông: “Quỹ hàng hóa năm 1985 eo hẹp hơn”. Thời gian này, ông Lê Duẩn ốm, vài
tháng phải sang Liên Xô điều trị một lần. Theo thường lệ, “nhân vật số hai” Trường
Chinh thay thế chủ trì các hội nghị Bộ Chính trị. Trường Chinh kết luận: Làm
ngay một bước, không làm từng bước, theo đề án của mình. Nhưng, khi ra Hội đồng
Chính phủ, bộ trưởng Bộ Cơ khí tuyên bố nếu giá bán vật tư như vậy thì các xí
nghiệp cơ khí sẽ phải đóng cửa, các bộ trưởng khác cũng nói, nếu làm ngay một
giá hàng công nghiệp không bán được. Ông Phạm Văn Đồng kết luận: “Vật tư công
nghiệp lấy bằng 70% giá thị trường”. Thực tế cho thấy nhà nước nắm hai khối
hàng và trong khi hàng công nghiệp bán ra chỉ bằng 70% giá thị trường, phải mua
lại nông sản với giá bằng 100%
thị trường. Chưa làm đã thấy quỹ hàng hóa công nghiệp bán sẽ không đủ bù mua quỹ
hàng nông nghiệp.
Mất
cân đối về lý thuyết lại xuất hiện thêm khi ông Võ Chí Công chủ trì một hội nghị
của Ban Bí thư với các địa phương. Đề án bỏ lương hiện vật bằng tiền lương,
nhưng theo tính toán thì chỉ có thể tăng lương lên 20%. Các tỉnh nói mức lương
đó chỉ đủ ăn một tuần, các tỉnh miền Nam đề nghị tăng lương lên bằng 100%. Trần
Phương phản đối thì Võ Chí Công nói: “Tôi thật không hiểu anh Phương. Mức lương
này sao sống được?”. Trần Phương: “Thưa anh, tôi hiểu mức lương này sống rất khốn
nạn, nhưng nhà nước đang không có tiền”. Cho dù ngân sách không có, Võ Chí Công
vẫn kết luận: “Chấp nhận đề án do các tỉnh miền Nam đề nghị, tăng lương tối thiểu
lên 100%”. Chính hai quyết định trên đây đã dẫn tới lạm phát.
Theo
mức giá mới, Hội đồng Bộ trưởng tính toán nền kinh tế cần phải có một lượng tiền
mặt lên tới 120 tỷ đồng để lưu thông. Nhưng lượng tiền phát hành trên thực tế
chỉ mới có khoảng sáu mươi tỷ đồng, lấy đâu ra thêm sáu mươi tỷ đồng
tiền giấy? Theo ông Trần Phương, tháng 8-1985, nhân có mười hai tỷ đồng tiền mới
được in từ Đông Đức đưa về, Hội đồng Bộ trưởng tính toán nếu in thêm cho đủ lượng
tiền cần thiết thì không thể kịp và tốn kém nên quyết định nâng mệnh giá đồng
tiền mới này lên mười lần rồi đổi tiền để biến mười hai tỷ đồng thành 120 tỷ đồng,
thỏa mãn nhu cầu lưu thông theo “Giá-Lương-Tiền” mới. Ông Trường Chinh không đồng
tình với cách làm này. Ngày 29-8-1985, ông gửi thư tới Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và các phó của ông Đồng, Võ Chí Công, Đỗ
Mười, Tố Hữu. Thư Trường Chinh viết: “Riêng về tiền, sắp tới có mười hai tỷ đồng
tiền mới, tương đương với 120 tỷ đồng hiện nay. So với lương mới và giá mới sắp
tới thì số tiền đó là chưa đủ, tiền sẽ tiếp tục căng thẳng. Nên chăng đề nghị
các anh tính lại, không đổi tiền mà cho lưu hành song song hai đồng tiền với tỷ
lệ một đồng mới ăn mười đồng cũ. Như vậy, có thêm hơn sáu mươi tỷ đồng hiện nay
cứ cho tiếp tục lưu hành, lặng lẽ thu hồi và hủy dần khi có tiền mới về tiếp,
tránh được căng thẳng về tiền mặt, bảo đảm yêu cầu của sản xuất, thu mua, kinh
doanh đang chuyển theo cơ chế mới, không gây xáo trộn về tâm lý”. Thư gửi đi
chưa được trả lời, ngày 1-9-1985, khi họp Bộ Chính trị, Trường Chinh lại nhắc lại
đề nghị trên. Phạm Văn Đồng giải thích: “Ý kiến Anh Năm cũng hợp lý, nhưng mọi
việc đã chuẩn bị hết cả rồi. Chúng ta đang cưỡi lên lưng hổ, không thể xuống được
nữa”. Theo Trần Nhâm: “Ông chấp hành quyết định của Bộ Chính trị và sáng ngày
3-9-1985, nhân danh là chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Trường Chinh đặt bút ký sắc
lệnh đổi tiền mà trong lòng rất áy náy”. Tuần lễ sau đó, tiền mặt được vận chuyển
vào Nam qua sân bay Tân Sơn Nhất; các cửa hàng thương nghiệp quốc doanh không
bán các mặt hàng cao cấp; các ngân hàng không nhận tiền nộp vào. Ngày
11-9-1985, phần lớn nhân viên ngân hàng bị giữ lại trụ sở. Tin tức đổi tiền bắt
đầu lọt ra. Trong khi đó, ngày 12-9-1985, báo Tuổi Trẻ vẫn chạy tít lớn trên
trang nhất: “Bẻ gãy thủ đoạn tung tin đổi tiền của gian thương”. Bài báo đanh
thép tuyên bố: “Với sự tăng cường hiệu lực của bộ máy chuyên chính vô sản mọi hậu
quả tin đồn phải được thanh toán triệt để”. Để rồi, sáng 14-9-1985, hệ thống
loa truyền thanh giăng mắc khắp các góc phố bắt đầu thông báo lệnh đổi tiền.
Chính báo Tuổi Trẻ, trong số kế tiếp, ra ngày 14-9-1985, cũng đăng quyết định của
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm văn Đồng về việc “phát hành tiền ngân hàng mới,
thu đổi tiền cũ”. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Phan Văn Khải lên
báo giải thích: “Đổi tiền là vì lợi ích của nhân dân lao động”.
“Quyết
định đổi tiền không phải là hoàn toàn bất ngờ đối với mọi người dân. Ấy thế mà
lúc sáu giờ sáng thứ bảy, ngày 14-9, khi nghe loa truyền thanh trên đường phố
tiếp âm Đài Tiếng nói Việt Nam bắt đầu thông báo chương trình phát thanh đặc biệt
kéo dài đến 7 giờ 15 thì những người ra đường sớm đều dừng lại, đứng chụm nhum
thành từng nhóm để nghe cho hết từng quyết định, thông báo. Và từ đó, tin đổi
tiền thành đề tài số một ở tất cả mọi nơi, của tất cả mọi người”.
Không
sững sờ sao được khi cả thành phố gần bốn triệu dân, chính quyền chỉ thiết lập
900 bàn đổi tiền và chỉ cho “nhân dân lao động” có một khoảng thời gian rất ngắn,
trong vòng từ sáu đến mười hai giờ trưa ngày 14-9, để kê khai; người
dân chỉ được kê khai một lần và chỉ được đổi ngay một phần. Theo quyết định do
Phạm Văn Đồng ký ngày 13-9-1985: mỗi hộ gia đình được đổi ngay tối đa 2.000 đồng
tiền mới; mỗi hộ độc thân và mỗi người trong hộ tập thể (bộ đội, công an, cơ
quan nhà nươc) được đổi ngay tối đa 1.500 đồng; mỗi hộ kinh doanh có môn bài bậc
cao được đổi ngay tối đa 5.000 đồng tiền mới. Đối với số vượt mức đổi ngay thì
nộp cho bàn đổi tiền, lấy biên nhận, Ban Chỉ đạo Thu Đổi Tiền cấp tỉnh, thành
phố, quận huyện sẽ xem xét và giải quyết sau. Đặc biệt: “Số tiền mặt do đầu cơ,
buôn lậu, nhận tiền phân tán và do nguồn thu nhập bất chính khác đều bị tịch
thu, nhập vào tài khoản của ngân sách”. Hàng nghìn câu chuyện dở khóc dở cười
đã xảy ra do cách mà nhà nước đối xử với tiền bạc của người dân theo kiểu đánh
úp này. Do có hộ chỉ có bốn mươi đồng tiền cũ để đổi nên “dịch vụ” đổi tiền
giúp đã phát sinh giữa những người không có lượng tiền mặt vượt quá mức 2.000 đồng
tiền mới với các gia đình giàu có. Bằng kinh nghiệm lần đổi tiền thứ nhất trong
“Chiến dịch X3”, biết trước tương lai mất giá của những đồng tiền “vượt mức đổi
ngay” nộp cho ngân hàng rồi chờ
“xem xét giải quyết sau”, nhiều người đã tung tiền ra mua hàng. Theo Sài Gòn Giải
Phóng, ngay trong sáng 14-9-1985, ở chợ An Lạc, giá một con vịt lên tới 3.000 đồng
tiền cũ; một ký thịt heo lên tới 2.000 đồng, trong khi một ký thịt heo nạc bán
trước ngày đổi tiền chỉ là 325 đồng tiền cũ. Trước chín giờ sáng ngày
14-9-1985, các đội kiểm soát đã bắt “một gian thương” mua gom chín tấn gạo.
Cũng trong buổi sáng, Quản lý Thị trường đã “phát hiện” tại Quận 10 “một hộ đầu
cơ phụ tùng xe đạp; một hộ chứa vải bất hợp pháp; một hộ buôn vàng và
đá quý, tịch thu một khối lượng tiền mặt lên tới 380.000 đồng tiền cũ”. Bi kịch
cũng không tha các cơ quan nhà nước. Ngân hàng biết trước chuyện đổi tiền từ
trước đó, không những đã không chịu thu tiền về mà còn tìm cách dí tiền mặt xuống
cho các cơ quan, đơn vị. Ông Trần văn Thêm, giám đốc Dệt Bình Minh kể: “Sáng
13-9-1985, ngân hàng ấn cho chúng tôi gần một triệu đồng, bây giờ chúng tôi phải
vất vả giải trình”. Ngay trong ngày 15-9, nhiều xí nghiệp đã phải
ngưng hoạt động vì tiền cũ nộp, đi tiền mới chưa được cầm, không có tiền lo bữa
ăn giữa ca cho công nhân. Dệt Bình Minh có 900 công nhân, chỉ nhận được 5.000 đồng.
May Hòa Bình nhận được 2.500 đồng. Tình cảnh của nhiều cá nhân, đặc biệt là với
những người đang bị xếp vào diện “khách vãng lai”, thì lại còn bi kịch hơn gấp
bội. Vài ngày sau đổi tiền, ông Võ Văn Kiệt gửi thư báo cáo Phạm Văn Đồng và
ông Trường Chinh: “Kết quả của việc đổi tiền cho thấy tiền nằm trong nhân dân
tương đối ít, số hộ có số tiền đổi thấp là khá đông, cho chúng ta một kết luận đáng
suy nghĩ và day dứt về mức sống của nhân dân lao động hiện nay. Một kết quả
khác cho thấy tiền nằm trong tay tư sản không đáng kể, chúng ta đã ‘đánh hụt’
vì để cho bọn chúng quá nhiều thì giờ để chuẩn bị đối phó, thẳng tay thu gom, vơ
vét hàng của nhà nước và chuyển tài sản từ tiền ra những giá trị khác”.
Cũng
theo ông Võ Văn Kiệt: “Chúng ta có nhiều sơ hở trong vụ đổi tiền, gây nên những
hậu quả bất lợi đáng quan tâm. Sự thiếu bảo mật đã làm cho hàng của nhà nước tuồn
hết về người có tiền, tiền của các hộ buôn bán lớn chuyển hết cho các xí nghiệp,
công ty nhà nước, và thương nghiệp bị rút hết hàng nhanh chóng, suy yếu khả
năng chống đỡ trên thị trường. Chúng ta không thực sự chuẩn bị cho một vụ đổi
tiền, một đồng mới ăn mười đồng tiền cũ, không chuẩn bị một cơ cấu giấy bạc của
tiền mới thích nghi với nhu cầu thanh toán nhỏ. Giả dụ rằng chúng ta chỉ phát
hành đến mức năm mươi đồng tiền mới và nhiều đơn vị tiền lẻ, tình hình có lẽ đỡ
xấu hơn”. Sau khi tiền mới được tung ra, giá cả tăng còn nhanh hơn ngựa chạy.
Ngay trong ngày 15-9-1985, Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh đã phải tổ chức hội
thảo và sau đó cho lập các “đội thanh niên kiểm tra giá”. Ủy ban Nhân dân Thành
phố tuyên bố “Rút giấy phép kinh doanh những ai bán phá giá”. Nhưng giá cả đã tỏ
ra không hề sợ hãi chính quyền. Nhiều người dân khi nhận được đồng tiền mới, sức
mua đã giảm hàng chục lần khi họ giao tiền cũ cho nhà nước. Tình hình xấu đi
trông thấy: ngân hàng thiếu tiền, thương nghiệp thiếu hàng, công nghiệp thiếu vật
tư, công nhân đói vì cầm đồng tiền mất giá, nông dân khóc vì phải bán nông sản
với giá thấp hơn chi phí bỏ ra. Sản xuất giảm. Đầu tư nhà nước giảm. Chỉ số giá
bán lẻ trên thị trường tự do năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Lạm phát
chưa phải là thảm họa duy nhất của nền kinh tế. Như ông Kiệt phân tích, mệnh
giá thấp nhất của đồng tiền mới tự dưng bị nâng lên gấp mười, một đồng tiền mới
có sức mua theo lý thuyết bằng mười đồng tiền cũ. Cho dù loại giấy bạc từ mười
đồng tiền cũ trở xuống vẫn còn được lưu thông, nhưng nếu dùng một đồng tiền mới
để mua một que kem thì phải nhận thối về một ôm tiền lẻ. Sự bất mãn tăng nhanh
trong xã hội.
Tháng
12-1985, Quốc hội khóa VII triệu tập kỳ họp thứ 10. Trước khi ra Hà Nội, đoàn Đại
biểu Quốc hội tỉnh Cửu Long quyết định phải “nã pháo” vào Giá-Lương-Tiền. Người
nhận lãnh trách nhiệm này, bà Đào Thị Biểu, với biệt danh là bà Sáu Trầu, kể lại:
“Trước khi đi họp, anh Trịnh Văn Lâu, trưởng đoàn hỏi: ai dám phát biểu? Nhiều
người xung phong. Nhưng anh nói, vấn đề gay gắt lắm, phải có giọng nữ nhẹ
nhàng, nói năng từ tốn, thành tích kháng chiến tốt, phải dũng cảm, có thể ‘hy
sinh’. Tôi nghĩ mình phát biểu là đem ý dân gửi cho Đảng, để dân mất lòng tin
vào Đảng là mình có tội. Thế là tôi nhận”. Bài phát biểu đã được chuẩn bị sẵn từ
ở nhà và đã nộp cho chủ tịch đoàn Quốc hội đăng ký tham luận theo nguyên tắc của
thời kỳ đó. Nhưng, theo bà Sáu Trầu, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười,
khi đọc “Báo cáo Tình hình Kinh tế Xã
hội” trước Quốc hội, đã “đổ thêm dầu vào lửa” bằng cách phê bình các địa phương
“không biết phát huy thế mạnh đổi tiền”. Lúc đó, theo bà Sáu Trầu: “Giá tăng
cao gấp mười lần. Lương người sản xuất thấp lẹt đẹt, còn lương kinh doanh cao
ngút trời. Tiền thì không có tiền lẻ; mua thuốc, ăn hủ tiếu... phải thế lại giấy
chứng minh. Giá vé xe đò tăng cao gấp năm đến bảy lần, nhiều người về xa không
đủ tiền phải nằm lại bến. Cuộc sống xã hội đầy khó khăn như phơi bày ra đó, cử
tri cực kỳ bức xúc. Phải chăng đó là ưu thế!”. Bà Sáu và đoàn đại biểu Quốc hội
Cửu Long quyết định viết lại bài phát biểu, nói thẳng vào vấn đề hơn. Trước khi
lên diễn đàn, bà Sáu Trầu dặn các đồng chí của mình: “Gia đình tôi năm người
tham gia cách mạng, hy sinh hết bốn rồi, giờ dẫu có ‘hy sinh’ thêm nữa thì cũng
chẳng sao. Nếu tôi có bị sao thì nhớ chăm sóc con tôi và giáo dục nó sống tốt,
xứng đáng như mẹ nó”. Ngày cuối cùng của kỳ họp, trước giờ bế mạc, bà Sáu - với
hình ảnh được gần 500 đại biểu ghi nhớ: “một phụ nữ miền Nam phúc hậu, ăn trầu
bỏm bẻm” - bước lên diễn đàn, chất vấn thẳng vào vấn đề: “Chúng tôi cho rằng mười
năm qua chưa lần nào dân xôn xao, bất bình, thậm chí phẫn nộ bằng đợt phá
giá-lương-tiền vừa qua. Chúng tôi đã chứng kiến biết bao cảnh các cửa hàng ách
tắc, bao nhiêu cuộc cãi vã xô xát, bao nhiêu tiêu cực: vo tròn giá hay nâng giá
vì thiếu tiền lẻ và mua bán tiền lẻ... Trung ương nói địa phương không biết
phát huy ưu thế sau đổi tiền, nhưng ưu thế gì mà phát huy? Giá cả tăng năm, bảy
lần so với trước, có thứ gấp mười, mười lăm lần, đội rất xa giá thị trường.
Chúng tôi chứng kiến cảnh bắt và tịch thu hàng của người tự sản, tự tiêu vì bán
giá thấp hơn giá nhà nước quy định, đạo lý gì phải làm như vậy? Đồng chí Đỗ Mười
nói rằng tỷ giá công nông hiện nay đã rất hợp lý, thậm chí nông dân còn có lợi
nhiều hơn trước. Chúng tôi chưa nhất trí với nhận định đó”. Bà Sáu Trầu nói tới
đâu “cả hội trường vỗ tay rần rần” đến đó. Hôm ấy, khi bà Sáu về phòng, nhiều
đoàn đại biểu Quốc hội gõ cửa và tặng bà rất nhiều... trầu cau. Bà Sáu Đào Thị
Biểu nói: “Họ đồng cảm vì khó khăn ở đâu cũng vậy nhưng chưa dám nói”. Sau kỳ họp
này, ông Trần Phương nhớ lại: Tôi quyết định phải từ chức nhưng khi chia sẻ điều
này với Đồng Sỹ Nguyên, Bộ trưởng Bộ Giao thông Đồng Sỹ Nguyên nói: “Nếu từ chức,
phải từ chức cả Hội đồng Bộ trưởng”. Tôi bảo: “Đằng nào cũng phải có người chịu
trách nhiệm. Nếu mình tôi chịu trách nhiệm được với dân thì không nhất thiết phải
kéo thêm nhiều người”. Trần Phương bị kỷ luật, nhưng ngay từ lúc đó, dân gian
đã nói: “Đổi tiền là chuyện Triều đình / Cớ sao chịu tội một mình Trần Phương”.
Sự
nghiệp chính trị của ông Trường Chinh có những tình huống thật éo le. Phản đối
đổi tiền, nhưng khi không thuyết phục được Bộ Chính trị, sáng 3-9-1985, ông vẫn
nhân danh chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký sắc lệnh đổi tiền. Là một trong những
nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng, Trường Chinh đồng thời cũng phải phục tùng cái
tập thể mà ông lãnh đạo đó. Là người đưa ra “thuyết ba giai đoạn” trong Đại hội
II, năm 1951, theo đó trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách
ruộng đất, nhưng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận sức ép của Mao Trạch Đông
và Stalin, vội vàng cải cách ruộng đất, Trường Chinh vẫn nhận trách nhiệm chủ tịch
Ủy ban Cải cách Ruộng đất. Để rồi khi Hồ Chí Minh “sửa sai”, ông lại một mình mất
chức.
Ông
Trần Nhâm viết: “Sau khi Trường Chinh ký Sắc lệnh Đổi tiền, khắp nơi gửi thư đến
phàn nàn, nhiều cán bộ cách mạng lão thành gặp ông trách cứ: sao quan điểm của
anh đổi mới thế mà việc làm của anh lại khác như vậy? Ông cười xòa nói: đó là
quyết định của Bộ Chính trị, chứ không phải của một cá nhân nào. Ông thà chịu đựng
trước búa rìu của sự phê phán đối với cá nhân ông, chứ không bao giờ vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồi Cải cách ruộng đất cũng vậy, ông tự phê bình
nghiêm khắc, tự nguyện rút khỏi cương vị tổng bí thư. Ông thường tâm sự với
chúng tôi: làm cách mạng không phải lúc nào cũng suôn sẻ, có việc muốn làm thì
không làm được, có việc không nên thì lại cứ làm, người ta ai nói gì thì tùy họ,
miễn là không thẹn với lòng. Việc đổi tiền ông đã làm hết sức mình để ngăn
không cho nó xảy ra, nhưng cuối cùng nó vẫn xảy ra”.
Sau
“Giá-Lương-Tiền”, có ý kiến cho rằng thất bại của tổng điều chỉnh Giá-Lương-Tiền
có nguyên nhân từ Nghị quyết Trung ương 8. Tại Hội nghị Trung ương 9, họp từ
ngày 9 đến 16-12-1985, Trường Chinh cho rằng Nghị quyết Trung ương 8 là “nghị
quyết đi vào cuộc sống nhanh nhất và có hiệu quả cao nhất. Song, điều đáng tiếc
là trong chỉ đạo thực hiện, chúng ta đã phạm một loạt sai lầm, khuyết điểm...
Chúng ta đã nặng về điều chỉnh mặt bằng giá và lương mà coi nhẹ đổi mới cơ chế
quản lý... Nghị quyết Trung ương Tám chưa được triển khai thực hiện tốt, cơ chế
quản lý mới chưa kịp hình thành thì đùng một cái chúng ta đã tiến hành đổi tiền
trong thế bị động. Lẽ ra có thể giải quyết việc thiếu tiền theo cách khác”.
Quan
điểm của Trường Chinh tiếp tục có thêm thành viên trong Bộ Chính trị đồng tình ủng
hộ. Ngày 19-2-1986, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch phát biểu trong một
phiên họp của Bộ Chính trị: “Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội và sức mạnh của nền
chuyên chính vô sản cũng không thể đi ngược lại với những quy luật kinh tế...”.
Ông Thạch cho rằng: “Một chính sách của nhà nước vừa ban hành là người dân cần
phải tính toán ngay để quyết định sản xuất cái gì, mua cái gì. Nhưng bộ máy
tính giá của Ủy ban Vật giá phải mất một năm mới tính toán xong. Hệ thống giá cả
đó gửi đi mỗi tỉnh tốn mỗi năm bốn mươi tấn giấy”. Ông Thạch nêu ví dụ điển
hình về tính phi lý của giá: “Giá báo Nhân Dân rẻ quá đưa đến tình trạng con
buôn mua gom báo để làm giấy gói hàng còn người cần đọc báo thì không còn báo”.
Trước
thềm Hội nghị Trung ương 10, Trần Phương gửi tới các ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương một bản giải trình dài chín mươi hai trang, tiếp tục bảo vệ quan điểm
“quy tội” cho Nghị quyết 8. Nhóm chuyên gia của Trường Chinh, trực tiếp là Trần
Đức Nguyên, lập tức làm việc suốt ngày đêm chuẩn bị cho Trưởng Ban Kinh tế
Trung ương Nguyễn Lam một bài phát biểu ba mươi trang, lần lượt phản bác lại
“giải trình chín mươi hai trang” của Trần Phương. Tháng 6-1986, Hội nghị Trung
ương 10 kết luận chính thức: “Nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương và các
Nghị quyết 28, 31 của Bộ Chính trị về Giá-Lương-Tiền là đúng đắn”.
Nã pháo vào bộ tổng
Kết
luận của Hội nghị Trung ương 10 cho thấy khuynh hướng đổi mới mà Trường Chinh
khởi xướng đang thắng thế, cho dù từ đầu năm 1986, Trường Chinh bắt đầu gặp phản
công. Có lẽ do uy tín của Trường Chinh trong Đảng quá lớn, và do ông đã rất chặt
chẽ khi bắt đầu tiến trình đưa ra các quan điểm của mình, nên không ai dám có
phản ứng đích danh.
Nhưng
đầu năm 1986, khi Giáo sư Đào Xuân Sâm, một chuyên gia trong nhóm Trường Chinh,
công khai đưa ra khái niệm “thị trường có tổ chức”, nó đã bị coi như là một “quả
bom” vì động đến nơi linh thiêng nhất của nền kinh tế kế hoạch hóa. Sau khi cho
rằng không thể “lẩn trốn thị trường” nếu muốn thoát ra khỏi “quan liêu bao cấp”,
Đào Xuân Sâm đã dẫn câu nói của Lenin: “Đi với chó sói thì phải gào lên”. Tháng
3-1986, Ban bí thư tổ chức hội thảo, giáo sư Đào Xuân
Sâm
được mời và ông có bài phát biểu: “Kinh doanh xã hội chủ nghĩa và quyền tự chủ
của người kinh doanh”. Một số nhân vật trong Ban Bí thư khen phát biểu ấy nên
báo Nhân Dân lấy đăng ở mục Diễn đàn liên tiếp ba số báo từ ngày 17 đến
19-3-1986. Nhưng theo giáo sư Đào Xuân Sâm: “Đúng lúc ấy Bộ Chính trị họp, Đỗ
Mười, Tố Hữu phê phán rất căng. Đỗ Mười nói: thằng này nã trọng pháo vào bộ Tổng”.
Ngày
20-3-1986, Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước Phan Văn Tiệm nhận xét trong một
cuộc giao ban của ủy ban: “Những biện luận của vị giáo sư trên báo Nhân Dân mấy
ngày qua chỉ là một suy nghĩ ngông cuồng”. Báo Nhân Dân sau đó cũng liên tiếp
viết bài phê phán quan điểm của Đào Xuân Sâm, cùng lúc, các tạp chí như Nghiên
cứu Kinh tế, Thông tin Lý luận đăng nhiều bài lên án. Các “nhà lý luận kiên định”
coi Đào Xuân Sâm như là một “Otar Sik535 của Việt Nam”. Cho dù ông không có được
một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh về “tự do hóa nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
theo cơ chế thị trường” như Otar Sik, giới nghiên cứu chính thống và Học viện
Nguyễn Ái Quốc vẫn muốn xếp ông vào diện “xét lại”.
Bài
viết của Đào Xuân Sâm còn bị các chuyên gia Liên Xô phê phán, nhất là sau khi
Trưởng đoàn Paskar có buổi làm việc trực tiếp với Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Đỗ Mười. Ngày 8-5-1986, sau hơn một tháng trở lại Việt Nam, đoàn Chuyên gia
Kinh tế Cao cấp Liên Xô đã gặp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng, các
Phó Chủ tịch: Võ Chí Công, Tố Hữu, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt. Phía Liên Xô, ngoài Đại
sứ Sepplin, Cố vấn trưởng Paskar, còn có ba tiến sỹ, trong đó có viện trưởng Viện
Nghiên cứu kinh tế toàn Liên Bang, ba phó tiến sỹ khoa học kinh tế và những
chuyên gia có kinh nghiệm khác.
Sau
khi ghi nhận những “chuyển biến quan trọng”, Paskar đã chỉ ra nhiều “thiếu sót
nghiêm trọng” trong phát triển kinh tế. Về công nghiệp, Paskar
cho rằng: “một số ngành sản xuất đang đi chệch những chỉ tiêu kế hoạch; nhiều
nhà máy được
xây dựng chỉ sử dụng 50% công suất”. Về tình trạng cung cấp vật tư, Paskar phê
phán những thành quả “xé rào”. Paskar cho rằng “khó khăn của xí nghiệp, nhà máy
là ở chỗ, các xí nghiệp có quyền mua bán vật tư theo giá thỏa thuận”. Sau khi cảnh
báo hiện tượng “chưa tập trung đúng mức quyền lực vào trung ương”, ông nói:
“Chúng tôi theo dõi cuộc tranh luận trên báo chí ở Việt Nam; hình như có những
người phê phán trung ương tập trung quan liêu làm cho địa phương không hoạt động
được”. Sau khi nhấn mạnh “quyền lực của nhà nước trung ương”, cố vấn Paskar
nói: “Chúng tôi cảm thấy Việt Nam hiện đang có hai trào lưu: trào lưu phi tập
trung hóa, giao thêm quyền lực cho địa phương và giao lưu thông phân phối cho
thị trường tự do; trào lưu thứ hai là tập trung quyền lực và kế hoạch”. Dừng lại
một chút, Paskar tuyên bố: “Chúng tôi gia nhập trào lưu thứ hai này!”. Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng phụ họa: “Không thể khác được đồng chí Paskar ạ!”.
Võ Chí Công bổ sung: “Trào lưu thứ nhất chỉ có một ít thôi. Bài báo của Đào
Xuân Sâm là sai. Chúng tôi đã cấm và kiểm điểm tòa soạn”. Paskar phấn khởi:
“Chúng tôi muốn nói tới bài báo đó. Không thể có chủ nghĩa xã hội nếu giao lưu thông
phân phối cho tư thương. Không thể có chủ nghĩa xã hội nếu sản xuất không có kế
hoạch. Từ bỏ kế hoạch thì chủ nghĩa xã hội chỉ còn khẩu hiệu, không ai thừa nhận
đó là chủ nghĩa xã hội”. Paskar kết thúc cuộc họp: “Bây giờ phải tăng cường kỷ
luật lập lại trật tự”. Khi ấy, Liên Xô đang cấp cho Việt Nam mỗi năm một tỷ
rúp.
Khép lại trang sử Lê Duẩn
Cho
dù ở trường Nguyễn Ái Quốc, quy trình phong hàm giáo sư cho ông Sâm bị trì hoãn
sau nhận xét của Đỗ Mười và Cố vấn Paskar, Đào Xuân Sâm tiếp tục được mời tới
các cuộc thảo luận trong nhóm nghiên cứu của Trường Chinh. Tình hình đất nước
vào thời điểm ấy đã vô cùng nguy ngập. Trường Chinh biết rõ Đảng đang ở trong
tình thế “đổi mới hay là chết”. Trong cuộc đời của làm cách mạng của mình, đây
chính là cơ hội để Trường Chinh khắc phục những sai lầm không chỉ là của Đảng
mà cả của chính cá nhân ông nữa.
Theo
ông Trần Nhâm: “Sáng 29-9-1988, một ngày trước khi ông Trường Chinh mất, khi
làm việc với ông, tôi có hỏi, tại sao khi đó bác lại làm lớn chuyện ‘khoán Vĩnh
Phú’ lên vậy? Ông điềm tĩnh trả lời tôi rằng có lẽ lúc bấy giờ nhận thức của mình
không bắt kịp thực tế, trong khi những thông tin được báo cáo lên lại không
chính xác”.
Ông
Trần Phương cho rằng: “Trường Chinh đổi mới như thế là quá chậm, sau hai mươi
lăm năm thôi chức tổng bí thư, có thời gian nghiên cứu hơn, nhưng cũng phải tới
gần cuối đời, ông mới giác ngộ được. Nếu khi giải phóng miền Nam mà Trường
Chinh cũng nhìn được như Lê Duẩn thì tình hình đã khác. Khi đó, Lê Duẩn nhận ra
không thể áp dụng chính sách kinh tế ở miền Nam giống như những gì đã làm ở miền
Bắc. Nhưng nhìn qua nhìn lại không có ai đồng tình, Trường Chinh thì im lặng”.
Ông Trường Chinh không chỉ bỏ qua cơ hội sau năm 1975. Cuộc cải cách lần thứ nhất
ở Hội nghị Trung ương 6, khóa IV năm 1979, cũng không có ông.
Nghị
quyết Trung ương 6 năm 1979, cho dù đã kích thích sự “bung ra” ở nhiều nơi
nhưng cũng chỉ là một “tháo gỡ” nửa vời thay vì thay đổi trên nền tảng tư duy,
nên từ sau Đại hội V, khi tình hình tiếp tục khó khăn, xu hướng quay lại đã xuất
hiện. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, tháng 12-1983 và Hội nghị Trung ương 6,
tháng 7-1984, vẫn còn đánh giá nguyên nhân của tình hình khó khăn là do “chậm cải
tạo xã hội chủ nghĩa và cải tạo thị trường tự do”. Tháng 1-1983, Trường
Chinh vẫn ký Nghị quyết 8 của Bộ Chính trị chuyên đề về Hà Nội. Nghị quyết được
nói là có thêm những “tình tiết tăng nặng” để “Chiến dịch Z-30” tiến hành “cải
tạo lần hai”.
Tới
năm 1986, Trường Chinh đã đi được một quãng đường khá dài, đã ra khỏi “tháp
ngà”, đã đến tận cơ sở để lắng nghe thay vì tin vào các báo cáo mà ông nhận ra
là dối trá. Từ năm 1982 cho đến năm 1986, trên diễn đàn các hội nghị trung
ương, Trường Chinh thẳng thắn và đầy sức thuyết phục, đấu tranh không khoan nhượng,
từng bước xác lập nền tảng lý luận để giải thích thực tế và bắt đầu đổi mới. Thủ
tướng Phan Văn Khải, khóa V là ủy viên dự khuyết Trung ương, nhớ lại: “Khi đó,
những bài phát biểu của Trường Chinh liên tục nhận được nhiều tràng pháo tay. Ý
kiến của ông rất mới mẻ và thực sự làm thay đổi tư duy của Đảng”. Sức khỏe của
Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong những diễn biến
chính trị trước Đại hội VI. Theo bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ thứ hai của ông
Lê Duẩn: “Đầu năm 1986, những vết sẹo phổi có từ hồi nằm Côn Đảo bị đánh bầm dập
nay phát sinh nước trong phổi. Anh đi Liên Xô điều trị... Khi từ Liên Xô trở về,
anh nằm dưỡng bệnh ở Biệt thự số 7 Hồ Tây. Tôi ra thăm, anh bắt tay tôi, bàn
tay nóng hôi hổi, môi anh đỏ mọng. Chú Hiền, bác sỹ riêng của anh nói, anh thường
xuyên sốt 38˚, 39˚ nhưng vẫn dự họp Trung ương hoặc gặp đồng chí này, đồng chí
kia để lo nội dung
và nhân sự đại hội”.
Theo
ông Việt Phương và bà Lê Thị Muội, con gái Lê Duẩn, những ngày bệnh Lê Duẩn nằm
ở Biệt thự số 7 Hồ Tây, mỗi lần nghe có ông Trường Chinh sang là ông lại bắt
dìu từ gác hai xuống phòng khách, cho dù ông Trường Chinh đề nghị ông sẽ ngồi
bên giường bệnh để nói chuyện với ông Lê Duẩn. Trong khi đó, cứ thấy Lê Đức Thọ
đến là Lê Duẩn lại “phẩy tay đuổi đi”.
Ông
Hoàng Tùng nói: “Càng về sau, ông Lê Duẩn càng nhận ra sự thao túng của Lê Đức
Thọ, đặc biệt là sự thao túng nhân sự trong Đại hội V năm 1982”. Trần Nhâm, thư
ký riêng của Trường Chinh, kể: Trong một phiên họp Bộ Chính trị, cụ Duẩn đã ốm
lắm nhưng vẫn dự. Ông chỉ mặt Lê Đức Thọ: “Có phải có những trung ương ủy viên
anh rút từ trong tay áo ra?” Lê Đức Thọ tái mặt. Cụ Trường Chinh cầm tay áo cụ
Duẩn kéo ông ngồi xuống: “Anh đừng làm anh em người ta sợ”. Trong một phiên họp
Bộ Chính trị, ông Lê Duẩn nói với Lê Đức Thọ: “Anh đừng họp Bộ Chính trị nữa”.
Một thời gian sau, Lê Đức Thọ đi họp lại, Lê Duẩn lại nói: “Tôi đã bảo anh
không họp nữa mà. Lê Đức Thọ phải ra về”. Tại Hội nghị Tổ chức
chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ VI, diễn ra vào tháng 4-1986, ông Lê Đức Thọ
gián tiếp chỉ trích Lê Duẩn: “Lâu nay nói đường lối đại thể đúng, cụ thể sai.
Nói như vậy không đúng. Kế hoạch năm năm 1976-1980 là duy ý chí, phiêu lưu.
Đáng lẽ làm hai, ba năm khôi phục rồi mới đi vào xây dựng kinh tế thì tốt hơn”.
Về nhân sự, ông Lê Đức Thọ nói: “Lãnh đạo của ta già quá, từ năm 1980 tới nay
không có phê bình và tự phê bình. Lúc Hồ Chủ tịch già không làm việc thường
xuyên nhưng phải báo cáo công việc hàng ngày với Bác. Mấy năm nay, tổng bí thư
không làm việc, anh Trường Chinh, tôi, không có phê bình. Năm năm Bộ Chính trị
không có tự phê bình và phê bình. Ủy viên Bộ Chính trị của ta thấp nhất là sáu
mươi lăm tuổi, cao nhất là tám mươi nên rất hẫng. Dư luận nhiều nhưng cho đến
nay chưa thống nhất về nhân sự. Tình hình kinh tế phức tạp. Đồn đại anh Ba chết,
tiền, giá, kẻ địch lợi dụng nhiều”. Rồi ông Lê Đức Thọ chỉ đích danh: “Anh Trường
Chinh làm tổng bí thư mười tám năm; anh Ba làm tổng bí thư hai mươi lăm năm. Cả
hai đều già
trên tám mươi tuổi. Theo tôi, điều lệ nên ghi, một người không giữ chức tổng bí
thư quá hai nhiệm kỳ”. Ông Lê Đức Thọ được nói còn có một nỗ lực
tái lập chức chủ tịch đảng để tăng thêm cơ hội.
Năm
1985, ông Trường Chinh giới thiệu Nguyễn Văn Linh vào Bộ Chính trị lần hai.
Tháng 6-1986, ông Linh được đưa ra Hà Nội giữ chỗ thường trực Ban Bí thư, một vị
trí mà khi đó ông Tố Hữu đang chờ đợi. Tại Hội nghị Trung ương 10, chính ông
Trường Chinh đã điều khiển phiên họp theo hướng để Nguyễn Văn Linh nắm giữ
cương vị này. Ông Linh bàn giao ở Thành phố Hồ Chí Minh xong, ra tới Hà Nội
ngày 1-7-1986. Ngày 10-7-1986, ông Lê Duẩn qua đời. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng họp phiên bất thường, chính thức bầu Trường Chinh giữ chức
tổng bí thư, sau đúng ba mươi năm gián đoạn.
Vai trò của Mikhail Gorbachev
Từ
tháng 6-1986, Trường Chinh đã được giao làm trưởng Tiểu Ban Chuẩn bị Văn kiện,
nhưng công việc soạn thảo cho đến khi ấy vẫn do Tố Hữu phụ trách. Khi ông Lê
Duẩn mất, điều ông Trường Chinh lo lắng nhất là “cương lĩnh”. Theo ông Đặng
Xuân Kỳ: “Tôi kiến nghị, có hai việc phải chấn chỉnh ngay: một là báo cáo chính
trị, hai là vấn đề nhân sự”. Ông Trường Chinh băn khoăn: “Thời gian còn ngắn
quá”. Ông Kỳ bảo: “Nếu biết cách tổ chức, ba tháng xong, nhưng cái khó là nhân
sự”.
Ngày
13 và 14-5-1986, phát biểu tại hội nghị Bộ Chính trị, Trường Chinh nói: “Cách
nghĩ cách làm cũ đã cản trở chúng ta phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, làm cho
nhân tài bị mai một”. Nguyên nhân của tình hình đó được ông phân tích do quan
niệm phong kiến, hẹp hòi theo kiểu gia trưởng “sống lâu lên lão làng” đã “ràng
buộc, hạn chế tầm nhìn của chúng ta, khiến ta không thấy đầy đủ vốn quý báu
đó”. Trong bài phát biểu này, Trường Chinh cảnh báo tình trạng “chọn người rồi
mới tìm việc để ấn vào” thay vì từ nhu cầu của công việc mà chọn người thực hiện.
Lê Đức Thọ không những không đồng ý với bài phát biểu mà còn truy hỏi gay gắt: “Ai
viết cho Trường Chinh?”. Chỉ khi vấn đề được phát biểu trước Hội nghị Trung
ương 11 và được Ban Chấp hành Trung ương bày tỏ sự đồng tình, Lê Đức Thọ mới
thôi phản ứng. Theo ông Hà Nghiệp: “Đại hội VI tuy thành công về mặt đường lối,
đã thất bại về nhân sự”.
Trước
khi ông Lê Duẩn mất không lâu, ngày 2-6-1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường
Chinh ký quyết định miễn nhiệm những cán bộ liên đới trách nhiệm trong vụ
Giá-Lương-Tiền. Hai trong số đó là các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Quỳnh
và Trần Phương. Hạ tuần tháng 7-1986, Trường Chinh quyết định
thay thế nhóm biên soạn báo cáo chính trị làm việc dưới thời Lê Duẩn, đứng đầu
là Tố Hữu, Trần Quỳnh. Theo ông Việt Phương, một thành viên trong nhóm soạn thảo
văn kiện thời kỳ Tố Hữu, thì cho tới lúc ấy, nhóm chỉ mới soạn thảo đề cương và
đề cương này chưa bao giờ được trình lên tổng bí thư vì lúc ấy tình hình sức khỏe
của Lê Duẩn đã rất xấu.
Tổ
Biên tập Báo cáo Chính trị Đại hội VI được thành lập mới, gồm mười người, tổ
trưởng là Hoàng Tùng, tổ phó là Đào Duy Tùng; nhóm chuyên gia tư vấn của ông
Trường Chinh có ba người tham gia, Hà Nghiệp, Lê Văn Viện và Trần Đức Nguyên.
Lê Văn Viện khi ấy đang ở Lào, làm chuyên gia tư vấn giúp Kay-Sỏn Phôm-Vi-Hẳn,
tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Người cuối cùng được đưa vào nhóm này
là Lê Xuân Tùng. Theo Việt Phương: “Trong nhóm dự thảo Văn kiện Đại hội VI, Lê
Xuân Tùng là người đóng góp ít nhất vào việc viết ra đường lối đổi mới, nhưng về
sau là người đạt được cương vị cao nhất trong thời kỳ đổi mới: ủy viên Bộ Chính
trị”.
Chấn
chỉnh việc chuẩn bị văn kiện đại hội xong, đầu tháng 8-1986, Trường Chinh đi
Liên Xô. Đây là một chuyến đi bất thường, nhưng là lệ thường. Các nước “xã hội
chủ nghĩa anh em” mỗi khi thay đổi đường lối hay người lãnh đạo đều phải đến
“ông anh cả” Moscow trình diện. Ông Trường Chinh ở lại Moscow một tuần, và ngày
12-8-1986, ông gặp Tổng Bí thư Gorbachev lần đầu tiên. Chuyến đi thứ hai của
ông Trường Chinh diễn ra vào tháng 11-1986, khi công việc chuẩn bị đại hội đã tới
giai đoạn hoàn tất. Trường Chinh tới Moscow lần này là để dự cuộc gặp các Tổng
bí thư, các Bí thư Thứ nhất các Đảng Cộng sản và các nước thuộc Hội đồng Tương
trợ Kinh tế. Thực tế là ông đi với một sứ mệnh quan trọng là tìm kiếm sự ủng hộ
của Liên Xô cho công cuộc cải cách của mình. Theo Chánh Văn phòng Trung ương Đảng
khóa V Nguyễn Khánh: “Theo lệ xưa nay, mỗi khi Đảng Cộng sản Việt Nam đại hội
thì đường lối phải được Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đồng tình. Nếu họ không
đồng tình thì đường lối sẽ không thực hiện được. Lúc bấy giờ, quan hệ Việt Nam
- Trung Quốc còn gay gắt nên chỉ phải đi Liên Xô”.
Trường
Chinh đến Moscow ngày 9-11-1986, cuộc gặp Gorbachev được sắp xếp vào ngày
12-11-1986. Theo ông Hà Nghiệp: “Chúng tôi đã rất lo lắng”. Trước ngày lên đường
đi Moscow không lâu, tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Hà Nội, ngày 19-10-1986, Trường
Chinh tuyên bố: “Chúng ta đang ở thời kỳ quá độ, có thể bỏ qua tư bản chủ nghĩa
đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng dứt khoát không thể bỏ qua sản xuất hàng hóa”. Ở
thời điểm ấy, nếu Gorbachev “bác” đường lối đổi mới của Việt Nam thì ở trong nước,
Trường Chinh chắc chắn sẽ gặp khó khăn với những người bảo thủ.
Sau
khi Trường Chinh nhấn mạnh vai trò của kinh tế thị trường tại phiên họp ngày
18-5-1986 của Bộ chính trị, ông Phạm Văn Đồng nói: “Anh thì khi nào cũng hàng
hóa”. Trường Chinh nhẹ nhàng nhấc chén trà trước mặt: “Tôi hỏi anh, cái chén
này bán ở ngoài cửa hàng không phải hàng hóa thì là cái gì?”. Phạm Văn Đồng: “Đất
nước đang nước sôi lửa bỏng mà anh lúc nào cũng lý luận”. Trường Chinh: “Đúng
là tôi đang tư duy lý luận. Nhưng, khi nhà cháy mà chúng ta không trước hết
nghĩ cách, cứ lao hết vào lửa thì cháy hết cả nhà lẫn người”544. Phó Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Đỗ Mười thì không ít lần công khai dẫn lời Chủ nhiệm Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước Liên Xô Baibakov: “Chủ nghĩa xã hội là Sông Đà chứ không phải là
chợ Đồng Xuân”.
Tháp
tùng chính thức Trường Chinh tới Moscow có Hà Nghiệp, Trần Nhâm và Chánh Văn
phòng Nguyễn Khánh. Giáo sư Dương Phú Hiệp cũng có mặt. Ông Dương Phú Hiệp kể:
Theo lịch, cuộc gặp Gorbatchev sẽ diễn ra lúc ba giờ chiều. Một giờ, ông Trường
Chinh cho gọi chúng tôi sang trao đổi. Trường Chinh tỏ ra lo lắng. Mọi lo lắng
hóa ra lại không cần thiết. Theo Hà Nghiệp thì cuộc gặp Gorbachev diễn ra suôn
sẻ. Gorbachev đánh giá những dự định cải cách của Việt Nam là sáng tạo, ông đồng
ý với những đề nghị của Trường Chinh và nhận xét: “Có những điều các đồng chí
còn đi xa hơn cả chúng tôi”. Gorbachev nói điều đó không chỉ để làm vui lòng
Trường Chinh. Trong khi Việt Nam bắt đầu công nhận “kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần”, thì một tuần sau, vào ngày 21-11-1986, Xô Viết Tối Cao Liên Xô,
trong một nỗ lực cải cách, chỉ đưa ra được luật cho phép lập các “xưởng cá nhân
và gia đình”, theo đó người dân chỉ được sản xuất “dựa vào chính sức mình và của
những người trong gia đình”.
Ngày
28-7-1986, khi tới thăm vùng Viễn Đông Liên Xô, Gorbachev tỏ ra quan tâm tới Việt
Nam khi tuyên bố: “Mong muốn biên giới Việt - Trung trở thành một biên giới hòa
bình, láng giềng và thân thiện”. Cũng trong chuyến đi đó, Gorbachev bắt đầu đề
cập tới cải tổ. Ngày 31-7-1986, ông tuyên bố ở Vladivostock: “Đảng Cộng sản
Liên Xô và toàn thể đất nước Xô Viết hoàn toàn hiểu rằng cần phải tìm kiếm câu
trả lời cho những vấn đề mà cuộc sống đặt ra ngay trong khuôn khổ của hệ thống
xã hội chủ nghĩa”. Ông nhấn mạnh: “Dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng không được
sống theo lối cũ”. Báo chí Việt Nam thời gian đó bắt đầu dành nhiều tin bài để
nói về Liên Xô. Từng bước đi của Gorbachev đều được báo chí Việt Nam, đặc biệt
là tờ Tuổi Trẻ, tường thuật.
Cho
dù đổi mới ở Việt Nam là một tiến trình diễn ra với sự hối thúc từ bên trong,
nhưng sự thay đổi của Liên Xô đã đóng một vai trò quan trọng. Cái chết của
Brezhnev vào ngày 10-11-1982 đã chấm dứt kỷ nguyên trì trệ kéo dài suốt mười
tám năm kể từ khi Brezhnev ngồi lên ghế tổng bí thư Liên Xô. Người kế vị ông,
Andropov, thì nằm trên giường bệnh nhiều tháng trước khi qua đời trong thời
gian ở ngôi tổng bí thư mười lăm tháng. Người kế nhiệm Andropov chưa phải là Mikhail
Gorbachev như ông ta muốn mà là một ủy viên Bộ Chính trị ốm yếu khác:
Chernenko. Cái chết của Chernenko sau đó mười ba tháng đã đưa Gorbachev lên vị
trí tổng bí thư. Ngày 11-3-1985, ngày Gorbachev nhậm chức, đã đánh dấu một kỷ
nguyên mới của lịch sử thế giới.
Trường
Chinh từ Moscow trở về, tưởng mọi chuyện đều trôi chảy. Nhưng khi bắt đầu đại hội,
các đại biểu đã rất hoang mang. Trần Quỳnh, sau khi cùng Võ Chí Công đến
Hungary dự cuộc họp của Hội đồng Tương trợ Kinh tế về, nói rằng: “Thủ tướng
Liên Xô nói Liên Xô không tán thành Việt Nam đi theo khuynh hướng chủ nghĩa xã
hội thị trường”. Nhiều người nghe Trần Quỳnh tỏ ra rất sợ; hầu hết đại biểu đều
đã học qua Nguyễn Ái Quốc, đều biết số phận của Tiệp Khắc khi dám qua mặt Liên
Xô làm “chủ nghĩa xã hội thị trường”. Nhưng, theo Giáo sư Dương Phú Hiệp, Trường
Chinh là một người làm việc hết sức chặt chẽ. Ông hỏi văn phòng: “Anh Trần Quỳnh
nói có kèm theo văn bản không?”. Văn phòng trả lời “không”. Ông nói: “Thế thì
không được. Tôi có văn bản. Tôi và Gorbachev có ký chung một văn bản nhất trí với
nhau đây”. Biên bản được phát ra, những người ủng hộ Trường Chinh mới thở phào
nhẹ nhõm khi thấy “Liên Xô không ngăn cản ta đổi mới”. Khi ấy, Trường Chinh mới
nhắc lại bài viết của viện trưởng Viện Chính trị Kinh tế Thế giới mà Gorbachev
đã rất thích: “Ở Liên Xô cũng có những kẻ hay dọa thế”.
Tuyên ngôn đổi mới
Đó
là những ngày sôi động. Sau khi Trường Chinh nhận chức tổng bí thư, ông cùng
Hoàng Tùng, tổ trưởng Tổ Biên tập Báo cáo Chính trị Đại hội VI, và các thành
viên của Tổ Biên tập, xuống nhà nghỉ Vạn Hoa, tòa lâu đài ở Đồ Sơn, nơi mà Tổng
Bí thư Lê Duẩn đã từng thai nghén Nghị quyết Đại hội IV. Tại đây, theo ông Hoàng
Tùng: “Chúng tôi lần lượt trả lời hai mươi câu hỏi mà tình hình đặt ra và quán
triệt tinh thần của báo cáo chính trị chỉ trong hai chữ: đổi mới”.
Tổ
Biên tập sau đó làm việc chính ở Hồ Tây. Mỗi phần của báo cáo được phân cho một
nhóm biên soạn, Trường Chinh trực tiếp đọc và sửa. Khi đánh giá những sai lầm
sau 1975, theo ông Đặng Xuân Kỳ: tôi đề nghị ghi rõ sai lầm của ta là sai lầm về
đường lối chứ không chỉ chủ trương chính sách lớn. Ông Lê Phước Thọ cũng đề nghị:
“Đảng ta trước sau phải thừa nhận thời kỳ đó là sai lầm về đường lối”. Nhưng
cha tôi nói: “Anh Ba vừa mới mất, nói sai lầm đường lối là đánh giá tổng bí
thư. Cũng phải coi hoàn cảnh lịch sử lúc đó để đánh giá như thế nào là vừa mức”.
Tuy nhiên, trước áp lực “nhìn thẳng vào sự thật”, Trường Chinh cũng đã phải tự
tay ghi vào văn kiện: “Trong nhiều năm qua, Đảng đã phạm những sai lầm nghiêm
trọng và kéo dài về chủ trương chính sách lớn”. Ngày 19-10-1986, phát biểu tại
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Hà Nội, Trường Chinh phân tích thêm: “Đó là sai lầm tả
khuynh, ấu trĩ, duy ý chí, làm trái quy luật khách quan… khi đã mắc sai lầm lại
bảo thủ, trì trệ, không dũng cảm sửa chữa”.
Tổ
biên tập phân công Phan Diễn viết “Đổi mới tư duy về cơ cấu kinh tế”, Hà Đăng
viết phần “Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần”, Trần Đức Nguyên viết “Đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế”. Với sự thận trọng truyền thống, từng vấn đề một, Trường
Chinh đều cho chuẩn bị kỹ, đưa ra Bộ Chính trị thảo luận rồi thông qua từng phần
trước khi đưa vào “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội”. Thế nhưng, theo ông Trần Đức Nguyên: “Một buổi sáng sát ngày đại
hội, tôi vừa tới nơi làm việc của Tổ biên tập ở Hồ Tây thì được anh Đào Duy
Tùng chuyển cho hơn mười điểm mà các anh ủy viên Bộ Chính trị trong Chính phủ
(gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Võ Chí Công) thấy cần sửa. Tôi xem ngay và sau đó
gọi điện thoại cho anh Năng, thư ký của anh Tô (Phạm Văn Đồng), nhờ báo cáo với
anh Tô cho tôi được trình bày lại, vì nếu sửa văn kiện theo ý bên chính phủ thì
khác với kết luận của Bộ Chính trị về ba quan điểm đã bàn. Chỉ ít phút sau, tôi
được anh Năng gọi điện lại truyền đạt ý kiến anh Tô là viết như kết luận của Bộ
Chính trị”.
Sau
khi tạo được sự thống nhất trong nội bộ, Tổng Bí thư Trường Chinh đã chọn Đại hội
Đại biểu Đảng bộ Hà Nội để công bố với nhân dân. Ngày 19-10-1986, tại Hà Nội,
ông phát biểu: “Đối với cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa, đổi mới là con đường
vươn lên đáp ứng đòi hỏi của thời đại, đáp ứng những nhu cầu chính đáng và ngày
càng cao của nhân dân. Đối với nước ta, đổi mới cũng là yêu cầu bức thiết, là vấn
đề có tầm quan trọng sống còn. Y êu cầu đó vừa là đòi hỏi bên trong của nước
ta, vừa phù hợp với xu thế đổi mới của thời đại”. Bài phát biểu được các phương
tiện truyền thông chính thức trích dẫn ngay trong ngày, ngay sau đó nó được đón
nhận như một Tuyên Ngôn Đổi Mới.
Bàn tay Lê Đức Thọ
Trước
Đại hội VI, theo ông Hoàng Tùng: “Lê Đức Thọ không thèm quan tâm đến báo cáo
chính trị mà tập trung những nỗ lực cuối cùng để cấy nhân sự vào nhiệm kỳ kế tiếp”.
Có thể nói, chưa bao giờ bản lĩnh Lê Đức Thọ thể hiện kiên nhẫn và sắt đá như
giai đoạn này - giai đoạn mà uy tín của ông xuống đến mức những người thân tín
nhất của ông lần lượt bị “phế truất” thông qua lá phiếu bầu từ các đại hội địa
phương và ngành, đặc biệt là từ quân đội.
Đúng
như Lê Đức Thọ nhận xét trong Hội nghị Công tác Tổ chức, tháng 4-1986: “Đời sống
khó khăn gây nhiều chuyện tiêu cực, kể cả quân đội cũng tiêu cực ghê gớm”. Ông
Thọ thừa nhận: “Năm mươi sáu năm nay lúc này phẩm chất trong Đảng ta là sa sút
nhất. Trong Đảng hình thành một tầng lớp đặc quyền, đặc lợi, nên không muốn rời
chỗ đứng của mình vì nếu rời đi thì mất nhiều quyền lợi. Có người thắc mắc, nghỉ
hưu chết có được quốc tang không? Được mấy vòng hoa khi chết, đem nhiều vòng
hoa để biết người chết cách mạng to hay nhỏ, rồi chôn ở nghĩa trang nào?”. Lê Đức
Thọ đã nói đến những tiêu cực này như một người ngoài cuộc. Thế nhưng, từng vị
chỉ huy quân đội biết rõ nguyên nhân đến từ đâu.
Sự
kiện Võ Nguyên Giáp bị xếp sau Lê Đức Thọ theo thứ bậc trong Bộ Chính trị sau Đại
hội IV đã khiến các tướng lĩnh cảm thấy bị xúc phạm. Liền sau đó là sự ra đi của
Tướng Trần Văn Trà. Người thay thế Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Văn Tiến Dũng, một
vị tướng có nhiều đóng góp. Tuy nhiên, Tướng Dũng đã đánh mất khá nhiều uy tín
của mình khi cho xuất bản cuốn hồi ký Đại Thắng Mùa Xuân, gần như bỏ qua vai
trò của Tướng Giáp trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ngày
13-10-1986, Đại hội Đại biểu Đảng bộ Toàn Quân IV, diễn ra tại Hà Nội. Ngay
trong lễ khai mạc, các đại biểu đã bày tỏ thái độ. Đại hội, trong khi chỉ dành
vài tràng vỗ tay lẹt đẹt cho Đại tướng Văn Tiến Dũng, đã nhất loạt đứng lên vỗ tay
như sấm khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp bước vào hội trường. Tướng Giáp chỉ là một
đại biểu được mời dự, nhưng đã được quân đội đón chào bằng cả những tiếng hoan
hô và nước mắt. Những tiêu cực trong quân đội, tình trạng thiếu thốn, khổ sở của
người lính trên các chiến trường được các tướng lĩnh phê phán gay gắt. Tham luận
của Thiếu tướng Lê Phi Long, người vừa trực tiếp đốc chiến trên chiến trường Vị
Xuyên trở về, mô tả đời sống khó khăn, chết chóc hàng ngày của người lính trên
biên giới Việt-Trung; đối lập với tình trạng lợi dụng phương tiện quân sự buôn
lậu, thu vén cá nhân của gia đình một vài tướng lĩnh.
Ngày
18-10-1986, đại hội đã “cách chức” hai đại tướng Chu Huy Mân và Văn Tiến Dũng bằng
cách gạch tên hai nhân vật cao nhất của quân đội ra khỏi danh sách bảy mươi mốt
đại biểu toàn quân đi dự Đại hội Đảng Toàn Quốc. Duy nhất chỉ có hai ý kiến bảo
vệ Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân. Một trong hai người đó là Tướng Lê Ngọc Hiền,
phó tổng tham mưu trưởng. Tướng Hiền đã bị phản đối quyết liệt khi đề nghị đại
hội bầu cử lại.
Do
Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân đang là ủy viên Bộ Chính trị khóa V nên theo Điều
lệ Đảng, đương nhiên có mặt tại Đại hội VI. Tuy nhiên, cả hai vị đã không còn
uy tín và không đủ điều kiện để được giới thiệu tiếp vào Ban Chấp hành Trung
ương. Đại tướng Hoàng Văn Thái thì cũng vừa chết khá đột ngột ngày 2-7-1986.
Trong quân đội, người được coi sẽ ở vào vị trị kế tiếp là Đại tướng Lê Trọng Tấn. Tuy nhiên, một tháng là thời gian đủ dài để Trưởng Ban Tổ chức
Lê Đức Thọ chuẩn bị. Ngày 5-12-1986, khi Đại tướng Lê Đức Anh từ Campuchia về
Nhà khách T66 của Bộ quốc phòng, khi đại biểu từ khắp các tỉnh thành trong cả
nước đã tập trung về Hà Nội để dự đại hội, Tướng Lê Trọng Tấn từ một cuộc họp ở
Trung ương đi thẳng đến số 6 Nguyễn Cảnh Chân gặp Lê Đức Thọ. Không ai biết rõ
những gì đã xảy ra trong cuộc gặp chóng vánh này. Từ Nguyễn Cảnh Chân, Tướng Tấn
lên xe về nhà riêng, 36C Lý Nam Đế. Ở nhà, Tướng Lê Ngọc Hiền đang chờ ông về
cùng ăn cơm.
Tướng
Lê Ngọc Hiền là em vợ của Tướng Tấn, nhưng anh em có những bất đồng vì ông Hiền,
trước đó, “phù thịnh”, đứng hẳn về phía Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân. Giữa Lê Trọng
Tấn và Lê Ngọc Hiền có nói với nhau vài câu ngắn. Bỗng nhiên, Tướng Tấn gục xuống
bàn. Bà Lê Thị Minh Sơn, phu nhân Đại tướng Lê Trọng Tấn từ nhà dưới chạy lên.
Tướng Giáp từ 30 Hoàng Diệu, chạy đến đầu tiên. Người thứ hai là Tướng Đinh Đức
Thiện. Trong khi Tướng Giáp cắn chặt răng, đau đớn, Tướng Đinh Đức Thiện, em ruột
Lê Đức Thọ kêu lên: “Tấn ơi, đứa nào hại mày?”. Khi được dìu lên giường, Tướng
Tấn chỉ kịp tháo chiếc đồng hồ Titoni mà ông đã đeo cả đời, đưa cho cháu nội
trai là Lê Đông Giang, dặn: “Con cố trưởng thành”. Ngay lập tức, ông được đưa
ra khỏi nhà. Đến đêm, gia đình được thông báo là ông đã mất. Mãi tới sau ngày
7-12-1986,
ngày tang lễ của ông, các báo mới đăng thông cáo của Ban Chấp hành Trung ương:
“Đại tướng Lê Trọng Tấn từ trần hồi 18 giờ 50 phút ngày 5-12-1986, thọ bảy mươi
hai tuổi, sau một cơn đau cấp tính vì đồng chí đã mắc bệnh tim mạch nặng từ
lâu”. Hiếm có một cáo phó nào lại phải “vòng vo” như vậy về nguyên nhân của một
cái chết và điều này càng làm tăng thêm hoài nghi. Khi Tướng Lê Trọng Tấn mất,
Lê Đức Thọ vừa là người phụ trách công tác tổ chức, vừa phụ trách Ban Bảo vệ Sức
khỏe Trung ương, cơ quan quyết định tới từng viên thuốc của các nhà lãnh đạo.
Cái chết của Đại tướng Lê Trọng Tấn ngay bên thềm Đại hội Đảng, cũng như cái chết
trước đó của Đại tướng Hoàng Văn Thái, rất có thể chỉ là do tuổi tác và bệnh tật
như “thông cáo của Ban Chấp hành Trung ương”, nhưng lịch sử phi chính thống đã
xếp những cái chết này vào hàng “nghi án”. Hơn một tháng sau cái chết của Tướng
Lê Trọng Tấn, ngày 20-1-1987, trong một chuyến đi săn, khi ông Đinh Đức Thiện lấy
khẩu súng từ trong xe ra thì đạn nổ, viên đạn xuyên từ cằm lên đỉnh đầu, đục thủng
trần xe. Vị tướng đã xông pha biết bao chiến trường ấy cuối cùng đã chết vì
“súng bị cướp cò”.
Ở
hành lang Đại hội Đảng, các đại biểu xì xầm, nhưng cái chết đột ngột của Tướng
Lê Trọng Tấn, người lẽ ra sẽ giữ chức bộ trưởng quốc phòng sau đại hội này, đã
không được công khai nói đến. Cho đến lúc đó, công tác nhân sự vẫn được ông Lê
Đức Thọ kiểm soát gần như tuyệt đối. Quy trình công tác cán bộ của Quốc tế III
vốn đã có vấn đề lại càng trở nên “quái gở”, như nhận xét của ông Việt Phương,
sau khi mang thêm dấu ấn cá nhân của những con người như Stalin, Mao Trạch
Đông, Beria, Khang Sinh, và được Lê Đức Thọ mang về Việt Nam, và theo Việt
Phương, trở thành “một cách làm sai hỏng đã được quy tắc hóa”. Theo quy trình
này, nhân sự của nhiệm kỳ mới, về lý là do đại hội bầu, nhưng danh sách đưa ra
để đại hội bầu với một số lượng sít sao lại do Ban Chấp hành Trung ương khóa
cũ, tức là những người sắp rời nhiệm sở, đề nghị. Nếu có ai đó được đại hội đề
nghị mà Ban Chấp hành Trung ương không tán thành thì chính họ sẽ được Tiểu Ban
Nhân sự yêu cầu “tự nguyện rút”. Cũng có nhiều trường hợp, người được đề cử
không rút, và mỗi đại hội, Tiểu Ban Nhân sự đều nhân nhượng đưa vào danh sách bầu
cử một số ứng cử viên. Nhưng lịch sử các đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam kể
từ khi cầm quyền,
hầu như không có ứng cử viên nào đắc cử trung ương nếu như không nằm trong danh
sách chính thức được đề cử bởi Ban Chấp hành cũ. Nói là Ban Chấp hành nhưng,
người đóng vai trò quyết định vẫn là Lê Đức Thọ. Ông Việt Phương cho rằng cả Lê
Duẩn và Phạm Văn Đồng đều phó thác toàn bộ công tác nhân sự cho Lê Đức Thọ. Trường
Chinh tuy có quan tâm nhưng ông lại chỉ thường chú trọng các vấn đề nguyên tắc.
Ông Việt Phương xác nhận: “Những năm cuối đời, anh Lê Duẩn ác cảm ra mặt bởi sự
lộng quyền của Lê Đức Thọ trong công tác cán bộ. Ông nhiều lần nói với nhóm
giúp việc chúng tôi: Ban Chấp hành Trung ương có 150 người, may ra tôi chỉ biết
hai mươi người, còn lại do anh Thọ sắp xếp. Tuy rằng anh ấy có báo cáo, nhưng rồi
Bộ Chính trị, Trung ương cũng chủ yếu quyết định theo trình bày của anh ấy”.
Cũng theo Việt Phương, chính Hồ Chí Minh cũng từng phải than rằng: “Công tác
cán bộ của ta đều do chú Thọ cả. Chú thích ai thì chú báo cáo tốt, ghét ai báo
cáo xấu, chứ Bộ Chính trị có biết hết đâu”.
Trong
suốt ba mươi hai năm làm thủ tướng, cứ mỗi nhiệm kỳ, ông Phạm Văn Đồng lại
“trình quốc hội” một danh sách chính phủ mới. Bản danh sách ấy không phải của
ông Phạm Văn Đồng mà là của ông Lê Đức Thọ, cả về thành phần lẫn văn vẻ. Theo
ông Việt Phương: “Trước mỗi lần đọc, Thủ tướng Phạm Văn Đồng lại rị mọ ngồi sửa
lại chữ nghĩa trong bản danh sách nội các trình Quốc hội phê chuẩn. Ông Phạm
Văn Đồng sửa vì ông là một người trí thức thận trọng chữ nghĩa, ông không thể đọc
trước Quốc hội một văn bản mà ông than: họ viết câu bất thành cú. Tuy nhiên,
ông chỉ có thể chữa lại ngữ pháp, chính tả, chứ nội dung của nó thì thủ tướng
cũng không có quyền thay đổi”. Nhiều nhân vật, cho đến khi được ông Lê Đức Thọ
đưa lên làm “thành viên chính phủ”, Thủ tướng Phạm Văn Đồng chưa hề gặp mặt lần
nào.
Nhân
sự cho Đại hội VI vẫn do Lê Đức Thọ điều khiển cả về quy trình và con người cụ
thể. Theo người kế nhiệm của ông Thọ, ông Nguyễn Đức Tâm: “Trong quá trình chuẩn
bị, anh Thọ luôn nhắc nhở chúng tôi phải chú ý phương châm: thận trọng, dân chủ.
Trong từng trường hợp một, với cương vị là trưởng Ban Nhân sự Đại hội, anh Thọ
đều bố trí thời gian nghe một cách chăm chú và hỏi lại cặn kẽ những chi tiết
còn chưa thật rõ”. Tuy nhiên, giữa những lời dặn dò và cách mà ông
Lê Đức Thọ làm nhân sự, theo trải nghiệm của nhiều ủy viên trung ương là rất
khác nhau và có khi vô cùng “hình sự”.
Đối
với các trường hợp được giới thiệu vào Bộ Chính trị, theo ông Nguyễn Đức Tâm:
“Anh Thọ càng thận trọng xét đi xét lại kỹ lưỡng, báo cáo Bộ Chính trị rồi trao
đổi lại với từng người một, cứ như vậy cho đến khi có sự nhất trí trong Bộ Chính
trị rồi mới giới thiệu ra trung ương. Đến Đại hội VI về cơ bản cũng làm theo
phương pháp trên, nhưng đặc biệt ở đại hội này, việc lựa chọn tổng bí thư gặp
khó khăn nhất. Qua nhiều lần trao đổi riêng với từng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị,
Ban Bí thư vẫn chưa nhất trí”.
Phút 89
Chính
vì nhân sự chủ chốt chưa nhất trí được trong Bộ Chính trị mà ở hai kỳ hội nghị
trung ương - Hội nghị 11, họp từ 17-25 tháng 11-1986; Hội nghị 12, họp trước và
trong khi bắt đầu “Đại hội Nội bộ”, từ 5-12-1986 - nói là để “bàn nhân sự”,
nhưng theo ông Lê Văn Triết, khi ấy là ủy viên trung ương dự khuyết, các cuộc
thảo luận ở trung ương chỉ bàn về nguyên tắc chứ không được bàn về nhân sự cụ
thể. Việc không để các ủy viên trung ương và các đại biểu thảo luận nhân sự cụ
thể đã tạo ra một khoảng trống ở đại hội. Trước khi về Hà Nội, các đoàn đại biểu,
đặc biệt là các đại biểu miền Nam, những người hiểu rõ Nguyễn Văn Linh và đang kỳ
vọng to lớn vào Trường Chinh đã có một cuộc vận động để Trường Chinh tiếp tục
làm tổng bí thư khóa VI. Theo ông Trần Nhâm, thoạt đầu, ông Trường Chinh nói
trong Bộ Chính trị: “Tuổi tôi lớn rồi. Tôi xin thôi”. Nhưng về sau, có lẽ ý thức
trước sứ mệnh mà các đảng viên muốn giao phó cho ông và khó chịu trước cách làm
của Lê Đức Thọ, ông Trường Chinh giữ im lặng.
Lê
Đức Thọ đủ kinh nghiệm để thấy vào thời điểm ấy, ông không còn uy tín để tìm kiếm
cơ hội cuối cùng cho mình, nhưng vẫn rất “thao lược’ để cài cắm
trong bộ máy mới nhân sự của mình. Ông Trần Nhâm cho rằng việc không đưa nhân sự
cụ thể ra thảo luận công khai là “động cơ cá nhân” của ông Lê Đức Thọ. Trong Đại
hội Nội bộ, có hơn 900 đại biểu trong số 1.129 đại biểu về dự Đại hội VI ghi
vào phiếu thăm dò đề nghị ông Trường Chinh tiếp tục làm tổng bí thư. Các đoàn đại
biểu, đặc biệt là các đoàn từ miền Nam ra liên tục xin gặp Trường Chinh để thuyết
phục.
Theo
lịch Đại hội Nội bộ, sáng ngày 13-12-1986, các đại biểu tập trung ở Hội trường
Ba Đình. Nhưng, chờ mãi tới chín giờ, Ban Tổ chức mới thông báo: “Mời đại biểu
về nghỉ. Chiều nay ba giờ lên hội trường để thống nhất nhân sự kết thúc đại hội
trù bị”. Vài giờ trước đó, theo ông Trần Nhâm: Tôi đến số 3 Nguyễn Cảnh Chân,
nhà riêng Tổng Bí thư Trường Chinh, lúc sáu giờ. Sáu giờ ba mươi, Chánh Văn
phòng Trung ương Nguyễn Khánh tới hỏi: “Cụ dậy chưa?”. Tôi bảo: “Đêm qua họp Bộ
Chính trị khuya, giờ cụ chưa dậy”. Nguyễn Khánh về, tới 7 giờ 30 thì “một lô một
lốc kéo tới”, gồm Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Đức Tâm, Võ Chí
Công. Lê Đức Thọ ép ông ký vào lá đơn “xin không ứng cử”. Khi ông Trường Chinh
chưa kịp trả lời, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Nội vụ Phạm
Hùng nói: “Anh không rút thì rất căng”. Ông Trường Chinh đã phải
gật đầu, nhưng ông đã không ký vào lá đơn “xin rút” do Chánh Văn phòng Trung
ương Nguyễn Khánh chuẩn bị.
Ba
giờ chiều ngày 13-12-1986, các đại biểu lại lục tục lên hội trường, Phạm Hùng,
người có thâm niên trong Bộ Chính trị chỉ sau ba vị trưởng lão sắp rời chính
trường, thông báo với đại hội các vị Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ đã
‘xin rút tên” rồi Phạm Hùng đọc bản “tuyên dương công trạng to lớn” của “ba cụ”. Xếp theo thứ bậc trong Đảng thì Phạm Hùng sẽ là nhân vật số một
còn tham gia Ban Chấp hành Trung ương. Ông trở thành ủy viên Bộ Chính trị năm
1956, khi ông Nguyễn Văn Linh chưa là trung ương ủy viên. Từ năm 1967-1975, ông
là bí thư Trung ương Cục miền Nam trong khi ông Linh là phó. Nhưng lúc ấy, những
nhân vật mạnh nhất trong Đảng đều vận động cho Nguyễn Văn Linh. Ông Nguyễn Đức
Tâm kể: “Anh Thọ vẫn kiên trì giữ ý kiến để anh Nguyễn Văn Linh làm tổng bí
thư”. Ông Hoàng Tùng nhận xét: “Phạm Hùng là người nghiên cứu
kinh tế không sâu nên ít đưa ra sáng kiến. Trong thời gian làm ‘phó’, Phạm Hùng
cũng không phải là một người mềm mỏng với cả ông Phạm Văn Đồng”. Ông Đồng vốn
có cảm tình hơn với Nguyễn Văn Linh vì trong thập niên 1930 khi cùng ở tù Côn Đảo
với nhau, Nguyễn Văn Linh - khi ấy mới chỉ là một cậu thiếu niên mười sáu tuổi
- say mê đọc những tài liệu về chủ nghĩa Marx-Lenin do Phạm Văn Đồng dạy và dịch
từ tiếng Pháp.
Ngày
13-11-1986 khi ở Viên Chăn dự Đại hội Đại biểu Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào, trước các nhà lãnh đạo các “đảng anh em”, Phạm Văn Đồng đã cố gắng giới
thiệu Nguyễn Văn Linh như một thế hệ lãnh đạo kế tục ông thay vì chỉ tháp tùng
trong chuyến đi đó. Vào giờ chót, như một lá phiếu bỏ trước cho Nguyễn Văn
Linh, Phạm Văn Đồng đã chuyển bài phát biểu khai mạc Đại hội VI mà Hội nghị
Trung ương 11 đã giao cho ông và đã được người giúp việc của ông là Việt Phương
viết cho Nguyễn Văn Linh.
Theo
ông Việt Phương, Nguyễn Văn Linh đã chỉ sửa một vài từ có tính “nhân xưng” rồi
đọc trong phiên khai mạc Đại hội Nội bộ ngày 5-12. Ông Linh còn diễn đọc lại
bài này trong phiên khai mạc Đại hội Công khai vào ngày 15-12-1986. Bài phát biểu
về sau đã góp phần giúp báo chí gọi Nguyễn Văn Linh là tổng bí thư đổi mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét