Phụ lục: Đánh và Đàm
(Phần này sử dụng nhiều tư liệu lấy từ
cuốn Ending the Vietnam War [Simon & Schuster xuất bản năm 2003] của Henry
Kissingger, tác giả có chọn lọc, đối chiếu với các cuốn sách, các bài báo của
các nhà ngoại giao Việt Nam tham gia Hiệp định Paris hoặc nghiên cứu về Hiệp định
Paris [có dẫn trong phần chú giải] và trao đổi trực tiếp thêm với nhiều nhân chứng)
Đàm phán
Washington đã từng yêu cầu thương lượng
từ năm 1965, nhưng chỉ sau Mậu Thân, Hà Nội mới bắt đầu đàm phán. Đề nghị
thương lượng của tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã được Hà Nội chấp nhận
“trong vòng 72 giờ đồng hồ”. Giữa W. Averell Harriman, Cyrus R. Vance và Lê Đức
Thọ đã có những cuộc thương lượng công khai và ngầm nhưng không có một thỏa thuận
nào đạt được trong cái năm Mậu Thân máu lửa ấy.
Ngày 20-12-1968, một tháng trước khi
nhậm chức Tổng thống, Richard Nixon đã gửi một thông điệp tới Hà Nội nói rằng
ông sẵn sàng để tiến hành các cuộc đối thoại nghiêm túc; nếu Hà Nội mong muốn
“trao đổi một số ý tưởng chung trước ngày 20-1 (ngày Nixon nhậm chức), các ý kiến
này sẽ được xem xét với một thái độ mang tính xây dựng và đảm bảo bí mật tối
đa”. Nhưng “Phúc đáp của miền Bắc Việt
Nam ngày 31-12-1968 hầu như không quan tâm gì đến danh dự và tự trọng. Họ nêu một
cách thẳng thừng hai yêu cầu cơ bản: Đơn phương rút toàn bộ lực lượng quân đội
Hoa Kỳ và thay thế cái mà Hà Nội gọi là ‘bè lũ Thiệu-Kỳ-Hương’, cụm từ miệt thị
chuẩn mà Hà Nội dùng để gọi giới lãnh đạo Sài Gòn”.
Trong khi đó, ở Washington, các phong
trào phản đối chiến tranh lại trở nên có tổ chức hơn và dứt khoát hơn. Gần nửa
tổng số các trường hợp lính Mỹ chết ở Việt Nam trong thời gian Nixon cầm quyền
xảy ra trong sáu tháng đầu tiên. Sau bốn tuần liên tục có số thương vong tổng cộng
lên tới 1.500 lính Mỹ, Campuchia.
Theo Kissinger, khi chưa chính thức
vào Nhà Trắng, Nixon đã gửi cho ông một bức thư đề nghị có một báo cáo chính
xác về những gì kẻ địch có ở Campuchia, đồng thời yêu cầu Kissinger nghiên cứu
là phải làm gì để phá hủy các căn cứ được xây dựng ở đó. Người Mỹ ở Sài Gòn biết
miền Bắc sử dụng cảng Sihanoukville để vận chuyển vũ khí vào miền Nam.
Một tuần sau khi Nixon nhậm chức, vào
ngày 30-1-1969, Kissinger, Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird và tướng Wheeler
đã họp tại Nhà Trắng để xem xét khả năng tiếp tục ném bom miền Bắc hay tấn công
vào các căn cứ của miền Bắc ở trên đất Campuchia. Trong khi Nixon đang chần chừ,
ngày 22-2-1969, Quân Giải phóng đã tiến hành một cuộc tấn công trên khắp miền
Nam. Ngay trong tuần đầu tiên, 453 lính Mỹ bị giết; tuần thứ hai, con số này là
336; tuần thứ ba là 351. Nixon giận dữ, nhưng khi ấy ông ta đang ở trên
Airforce One bắt đầu chuyến công du ra nước ngoài đầu tiên với tư cách Tổng thống.
Trong hai tuần đầu tháng ba, Quân Giải
phóng tiến hành 32 cuộc tấn công vào các thành phố lớn ở miền Nam. Theo
Kissinger, ngày 15-3-1969, Quân Giải phóng đã bắn năm quả Rốc-két vào Sài Gòn.
Ngay trong ngày đó, Nixon gọi điện thoại cho Kissinger “ra lệnh tấn công ngay lập
tức bằng B-52”. Cuộc tấn công bằng B-52 bắt đầu vào ngày 18-3.
Ngày 22-3-1969, Washington, thông qua phái đoàn Ngoại giao ở Paris, yêu cầu đàm
phán. Theo Kissinger thì chỉ trong vòng 72 giờ, đề nghị nói trên đã được Hà Nội
chấp thuận.
Chính quyền Nixon bắt đầu nghiên cứu
việc rút quân ngay trong tuần đầu của nhiệm kỳ nhằm tìm kiếm sự ủng hộ của dân
chúng và tạo động cơ cho Hà Nội thương lượng. Ngày 10-4-1969, Tổng thống Nixon
yêu cầu các bộ và cơ quan phải lên chương trình Việt Nam hóa cuộc chiến. Cuộc gặp
ngày 8-6-1969 tại đảo Midway giữa Nixon và ông Thiệu là để bàn về kế hoạch này.
Ngay sau cuộc gặp kéo dài một tiếng rưỡi đó, hai vị Tổng thống bước ra và Nixon
đã tuyên bố đợt rút quân đầu tiên của Mỹ. Tuy nhiên, không như Chính quyền
trông đợi, quyết định của Nixon đã không hề mang lại chút thời gian nghỉ ngơi
nào. Đa số những người chỉ trích tin rằng, các cuộc biểu tình của họ đã mang lại
việc ngừng ném bom và hiện là quyết định rút quân. Sức ép vì thế càng tăng
nhanh hơn nữa.
Trong một nỗ lực tìm kiếm cơ may
thương lượng, ngày 15-7-1969, Trưởng Phái đoàn Pháp tại Hà Nội năm 1946, Jean
Sainteny, được mời tới phòng Oval gặp Tổng thống Nixon. Sainteny sẵn sàng tới
Hà Nội và mang theo một thông điệp và một bức thư riêng của Nixon gửi cho Hồ
Chí Minh. Theo Kissinger, bức thư nhấn mạnh đến cam kết của Mỹ đối với hòa bình
- qua đó Việt Nam sẽ thấy Mỹ sẵn sàng và cởi mở trong một nỗ lực chung để “mang
hạnh phúc của hòa bình đến cho dân tộc Việt Nam dũng cảm”. Nhưng Sainteny bị từ
chối cấp visa. Bức thư được chuyển cho ông Mai Văn Bộ ở Paris thay vì đưa tận
tay Hồ Chí Minh ở Hà Nội, có lẽ vì đây là thời gian mà Hồ Chí Minh đang ở trong
tình trạng ốm rất nặng.
Ngày 4-8-1969, Sainteny thu xếp một
cuộc gặp bí mật tại nhà riêng của ông ở Paris cho Kissinger và Bộ trưởng Ngoại
giao Xuân Thủy, cuộc gặp có ông Mai Văn Bộ đi cùng. Kissinger cảm thấy Xuân Thủy
là người không có thẩm quyền thương lượng. Hai ngày sau, Quân Giải phóng tấn
công vào vịnh Cam Ranh, và 3 ngày sau đó, 11-8-1969, các cuộc tấn công lại diễn
ra trên 100 thành phố, thị xã, và các căn cứ khác. Ngày 23-8-1969, Nixon tuyên
bố sẽ trì hoãn việc xem xét đợt rút quân tiếp theo.
Vào ngày 30-8-1969, ba ngày trước khi
Hồ Chí Minh mất, Tổng thống Nixon nhận được phúc đáp lá thư mà ông gửi đi hôm
15-7, thư có chữ ký của Hồ Chí Minh đề ngày 25-8-1969. Bức thư tuyên bố: “Dân tộc
chúng tôi quyết tâm chiến đấu đến cùng, không sợ hy sinh gian khổ để bảo vệ đất
nước mình và các quyền quốc gia thiêng liêng… Hoa Kỳ phải ngừng chiến tranh xâm
lược và rút quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền của nhân dân miền
Nam Việt Nam và của toàn đất nước Việt Nam tự giải quyết vấn đề nội bộ mà không
có sự can thiệp của nước ngoài”. Ngày 16-9-1969, Nixon tuyên bố
giảm thêm 40.500 quân Mỹ nữa.
Trước đó, giữa chuyến công du vòng
quanh thế giới, Nixon đã đột ngột tới Sài Gòn. Trong thời gian đó, các cuộc biểu
tình diễn ra hàng tuần trước Lầu Năm Góc, trước những nơi mà Tổng thống dừng
chân.
Ngày 3-9-1969, 225 nhà tâm lý học biểu
tình bên ngoài Nhà Trắng, gọi chiến tranh Việt Nam là “sự điên rồ của thời đại
chúng ta”. Các nghị sỹ liên tục tấn công Tổng thống. Ngày 9-10-1969, Kingman
Brewster, Hiệu trưởng trường Yale, yêu cầu rút quân vô điều kiện. Ngày 10-10,
các hiệu trưởng của 79 trường đại học tư viết thư cho Tổng thống, yêu cầu có một
thời gian biểu chắc chắn đối với việc rút quân. Ngày 14-10-1969, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng được Kissinger mô tả là đã “đổ thêm dầu vào lửa” khi viết thư “bày tỏ
sự ngưỡng mộ những khát vọng cao xa” của công chúng Mỹ.
Trước ngày 3-11-1969, ngày Tổng thống
Mỹ có một phát biểu quan trọng về Việt Nam, Nixon đã gặp Đại sứ Liên Xô tại
Washington, gây sức ép: “Việc ngừng ném bom đã kéo dài một năm; nếu không sớm
có tiến bộ, Hoa Kỳ sẽ phải thực hiện các phương pháp riêng của mình để kết thúc
chiến tranh. Mặt khác, nếu Liên Xô hợp tác trong việc đưa chiến tranh tới một kết
cục trong danh dự, thì chúng tôi sẽ ‘thực hiện điều gì đó đáng kể’ để cải thiện
quan hệ Hoa Kỳ-Xô Viết”.
Ngày 3-11-1969, Nixon đã từ chối nhượng
bộ những người phản đối chiến tranh, kêu gọi đa số dân chúng Mỹ im lặng để ủng
hộ vị chỉ huy của họ. Nixon tiết lộ việc trao đổi bí mật với miền Bắc trước khi
lên nhậm chức; các cuộc thảo luận nhiều lần với Liên Xô để thúc đẩy thương lượng;
các bức thư bí mật trao đổi với Hồ Chí Minh và tuyên bố là “không có tiến bộ
nào”.
Bài diễn văn đã làm cho tình hình
trong nước Mỹ dịu xuống. Cuối tháng 11-1969, Tướng Vernon Walters, tùy viên quốc
phòng Mỹ ở Paris, đưa đề nghị gặp Xuân Thủy. Theo Kissinger, đề nghị này nhanh
chóng được chấp nhận. Ngày 12-12, Tướng Walter được mời đến nơi ở của đoàn miền
Bắc tại Paris để nghe phàn nàn về “bài phát biểu hiếu chiến” ngày 3-11. Hai hôm
sau, Tướng Walters gợi ý tổ chức một cuộc họp “vào một cuối tuần nào đó sau
ngày 8-2”. Hà Nội đã bắt người Mỹ chờ cho đến ngày 26-1-1970, mới nhận được tín
hiệu có thể sớm tiến hành thương lượng.
Ông Lê Đức Thọ được bắn tin là sẽ tới
tham dự đại hội đảng Cộng sản Pháp sắp diễn ra. Cuộc thương lượng bí mật giữa
Kissinger và Lê Đức Thọ được bắt đầu vào ngày 20-2-1970, và từ đó cho đến ngày
4-4-1970 có thêm hai cuộc gặp nữa. Ông Lê Đức Thọ đòi “các vấn đề quân sự và
chính trị phải được giải quyết đồng thời”, theo đó, “loại bỏ lập tức Tổng thống
Thiệu, Phó Tổng thống Kỳ và Thủ tướng Khiêm; thành lập một chính phủ liên hiệp
gồm những người ủng hộ “hòa bình, độc lập và trung lập”.
Chiến tranh Việt Nam chịu không ít
tác động bởi chính trường Campuchia. Ngày 23-3-1970, ông hoàng Sihanouk bị lật
đổ bởi Lon Nol, người mà ông ta vừa mới chọn làm Thủ tướng hồi tháng 8-1969.
Sihanouk khi ấy đang tiếp tục chuyến công du sau những ngày điều dưỡng thường
niên tại Pháp. Kissinger nói là Mỹ đã bất ngờ trước cuộc đảo chính ở Campuchia
trong khi miền Bắc Việt Nam thì cho rằng Lonnol là tay sai của Mỹ. Nhưng cả hai
phía sau đó đều thúc đẩy các hoạt động quân sự tại địa bàn có giá trị bàn đạp
xuống miền Nam này.
Ngày 27-3-1970, quân đội Sài Gòn đưa
quân qua Biên giới Campuchia truy lùng Quân Giải phóng. Kissinger ngại rằng
Chính quyền Nixon sẽ bị cáo buộc là đã bị Nam Việt Nam lôi kéo vào cuộc chiến
tranh mở rộng nên đã yêu cầu Bunker gặp Tổng thống Thiệu đề nghị tạm hoãn các
hoạt động trên Biên giới. Nhưng Nixon đã bác bỏ các lo ngại đấy và yêu cầu phải
Tổng thống Thiệu đề nghị tạm hoãn các hoạt động trên Biên giới. Nhưng Nixon đã
bác bỏ các lo ngại đấy và yêu cầu phải 1970, Nixon quyết định rút thêm 150.000
quân nữa.
Một ngày sau khi thông báo quyết định
rút quân của Tổng thống, vào lúc 7 giờ sáng ngày 21-4-1970, Kissinger nhận được
tin báo “Bắc Việt Nam đang tấn công trên toàn Campuchia; Phnom Penh không thể
chống đỡ cuộc tấn công này lâu được”. Đêm 28-4-1970, quân đội Sài Gòn với sự
tham gia của 50 cố vấn Mỹ bất ngờ tấn công vào Parrot’s Beak, Campuchia. Tối
30-4-1970, Nixon đọc diễn văn giải thích: “Không thể chấp nhận sự đe dọa tính mạng
của người Mỹ hiện đang ở Việt Nam sau khi rút thêm 150.000 lính”. Sáng hôm sau,
1-5, quân Mỹ và quân Sài Gòn mở đợt tấn công tiếp theo, trong ba tuần đầu tiên,
mười hai vùng căn cứ được nói là của Bắc Việt Nam ở Campuchia bị tấn công.
Chính quyền Nixon cố gắng dùng các
con số để chứng minh, nhờ đưa quân vượt qua Biên giới Campuchia mà mức thương
vong kể từ tháng 6-1970 giảm còn một nửa so với trước đó (đến tháng 5-1971, chỉ
còn 35 lính Mỹ chết mỗi tuần; tháng 5-1972, còn 10 lính Mỹ chết mỗi tuần),
nhưng việc đưa quân sang Campuchia đã làm cho người Mỹ nổi giận.
Sau những cuộc hành quân vượt Biên giới
Campuchia, ngày 5-7-1970, Kissinger gửi thư đề nghị gặp Lê Đức Thọ. Mãi tới
ngày 18-8, Kissinger mới nhận được trả lời, nhưng ông Thọ không đi. Ngày
7-9-1970, Kissinger gặp Xuân Thủy. Ngày 17-9-1970, tại Paris, Bà Nguyễn Thị
Bình, đại diện cho Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, công bố một “chương
trình hòa bình tám điểm”, yêu cầu “rút toàn bộ và vô điều kiện quân Mỹ trong
vòng 9 tháng”. Ngày 7-10-1970, trong một bài diễn văn đọc tại Washington, Nixon
đề nghị một cuộc nói chuyện tại chỗ, trong đó ngừng ném bom trên toàn Đông
Dương. Ngày hôm sau, Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy “bác bỏ thẳng thừng” những
đề nghị đó.
Nixon cử người tới Sài Gòn, và tại
đây, Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã đưa ra kế hoạch đột kích sang Lào, chia cắt Đường
mòn Hồ Chí Minh. Cho đến thời điểm ấy, theo Kissinger, các sư đoàn quân đội miền
Nam Việt Nam chưa bao giờ tổ chức các chiến dịch phản công lớn ở ngoài lãnh thổ
Việt Nam. Đặc biệt, họ sẽ phải tác chiến không có các cố vấn Mỹ ở bên, thậm chí
không có cả sỹ quan Mỹ làm nhiệm vụ hướng dẫn không kích chiến thuật.
Ngày 8-2-1971, quân đội Sài Gòn bắt đầu
vượt biên giới Lào, nơi, Tướng Lê Trọng Tấn đã dàn quân chờ sẵn.
Theo Tướng Giáp: “Năm 1970, tôi phát hiện âm mưu địch cô lập miền Nam sau khi mở
mấy cuộc hành quân lên Campuchia và đẩy các đoàn sư chủ lực của ta ra khỏi biên
giới. Thời gian này, Sihanouk có sang ta và Chu Ân Lai cũng tỏ vẻ lo lắng.
Nhưng tôi khẳng định chẳng có gì đáng ngại. Từ dự kiến đó, tôi bèn lập Binh
đoàn 70, ‘B 70’, do anh Cao Văn Khánh làm tư lệnh và Hoàng Phương làm chính ủy”.
Ngày 6-2-1971, Quân ủy Trung ương họp
thông qua Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Tướng Lê Trọng Tấn ngay sau khi trình
bày kế hoạch này đã lên đường ra trận. Tướng Lê Phi Long, “Chủ nhiệm Hướng” của
Chiến dịch Đường 9 Nam Lào kể: “Cứ vài ba ngày Bộ chính trị lại cùng họp chung
với Thường Trực Quân ủy Trung ương để nghe báo cáo và chỉ đạo chiến trường.
Ngày 31-2-1971, khi tình hình trở nên căng thẳng, Bộ chính trị, Quân ủy Trung
ương đã cử thêm Tướng Văn Tiến Dũng vào Chiến trường. Ở “Tổng Hành Dinh”, Tướng
Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy chiến dịch”. Người Mỹ chắc chắn không thể hình
dung được rằng nơi làm việc được gọi là “Tổng Hành dinh” của vị tướng đã đánh bại
họ lại chỉ được trang bị hết sức thô sơ, không chỉ so với Lầu Năm Góc.
Quân đội Sài Gòn đã chiến đấu không
quá tệ ở Lào trong Chiến dịch mà họ gọi là “Lam Sơn 719”. Tuy nhiên, những hình
ảnh mà truyền thông chụp được về những quân nhân hoảng loạn, tìm cách bám vào
càng hạ cánh của trực thăng để chạy khỏi chiến trường đã không tạo được niềm
tin vào một một đội quân sắp phải đương đầu với những trận đánh quyết định.
Kissinger thừa nhận: “Cuộc tấn công này đã không biến hy vọng của chúng tôi
thành hiện thực, không những thế còn thất bại hoàn toàn”.
Lại hòa đàm
Nixon không chỉ phải đối đầu trên chiến
trường. Ngày 22-6-1971, Thượng viện Mỹ bỏ phiếu với tỷ lệ 57-42, thông qua điều
khoản bổ sung Mansfeild, kêu gọi Tổng thống “rút toàn bộ lính Mỹ về nước trong
vòng 9 tháng nếu Hà Nội đồng ý trao trả hết các tù binh chiến tranh”. Ngày
22-6, báo chí Mỹ đã đăng nhiều bài báo hoan nghênh Thượng viện. Ông Xuân Thủy đề
nghị một cuộc gặp ngay trước tháng 7. Nhà Trắng được thông báo rằng Lê Đức Thọ
trên đường đến Paris sau khi ghé Bắc Kinh và Moscow.
Lê Đức Thọ khi ấy không hề biết rằng
Kissinger cũng bí mật đến Bắc Kinh, chuyến đi dẫn đến cuộc gặp giữa Nixon và
Mao vào năm sau, một bước ngoặt không chỉ trong quan hệ Mỹ - Trung mà còn làm
cho Việt Nam có nhiều thương tổn.
Tại Paris, Lê Đức Thọ đề ra hạn chót
cho việc rút quân Mỹ là ngày 31-12-1971, thay vì tháng 9 mà bà Bình đã từng đề
nghị. Lần đầu tiên, ông Thọ cũng đồng ý việc tù binh Mỹ sẽ được thả đồng thời với
việc rút quân của Mỹ. Ngày 1-7-1971, Bà Nguyễn Thị Bình chi tiết hơn khi công bố
“Kế hoạch bảy điểm mới”. Cả đề nghị của Lê Đức Thọ và bà Bình đã khuấy động sự
phản đối của công chúng Mỹ.
Ngày 6-7-1971, Lê Đức Thọ trả lời
phóng viên Anthony-Lewis của tờ New York Times, nhấn mạnh “điểm 1” của bà Bình
- “Rút quân đổi lấy tù binh” - có thể được tách rời khỏi các điều khoản khác.
Theo Kissinger: “Đây hoàn toàn là một lời dối trá, nó mâu thuẫn với đề xuất bí
mật 9 điểm mà họ gắn mọi vấn đề với nhau và gọi chúng là một tổng thể không thể
tách rời”. Nhưng cũng theo Kissinger: “Cả nhà báo lẫn các nhà lập pháp đều cho
những gì Hà Nội nói là đúng còn những lời chúng tôi là dối trá”. Bà Bình và ông
Lê Đức Thọ đã thành công, Quốc hội và báo chí Mỹ kết tội chính quyền Nixon “đã
bỏ lỡ một cơ hội có một không hai để có thể đạt được hòa bình”.
Theo Kissinger, Nixon muốn rút khỏi
Việt Nam trước kỳ bầu cử tổng thống năm 1972 mà không làm chính quyền Sài Gòn sụp
đổ. Khi chuyến công du bí mật đến Bắc Kinh thành công, Nixon trở nên cứng rắn
hơn với Việt Nam.
Trong ngày 12-7-1971, Nixon nhắc lại
với Tướng Haig ý định rút quân chóng vánh đồng thời tấn công tổng lực bằng
không quân vào Miền Bắc. Kissinger gặp Lê Đức Thọ và Xuân Thủy vẫn bên một chiếc
bàn hình chữ nhật có phủ một tấm vải xanh, "nhưng khung đàm phán thì không
như xưa nữa; nó đã bị thay đổi cơ bản sau chuyến đi Bắc Kinh mặc dù Lê Đức Thọ
vẫn chưa biết điều này”.
Cuộc họp được coi là gay gắt, tuy
nhiên theo Kissinger, phía Bắc Việt Nam có vẻ thực sự muốn đàm phán. Hà Nội
“yêu cầu bồi thường chiến tranh” và “khăng khăng đòi lật đổ chính quyền Sài
Gòn”. Vấn đề bồi thường chiến tranh không phải là không thể nhân nhượng, nhưng
theo Kissinger: “Chúng tôi sẽ không lật đổ chế độ Miền Nam Việt Nam để đổi lấy
hòa bình”.
Theo Kissinger, Nixon muốn rút khỏi
Việt Nam trước kỳ bầu cử tổng thống năm 1972 mà không làm chính quyền Sài Gòn sụp
đổ. Khi chuyến công du bí mật đến Bắc Kinh thành công, Nixon trở nên cứng rắn
hơn với Việt Nam. Trong ngày 12-7-1971, Nixon nhắc lại với Tướng Haig ý định
rút quân chóng vánh đồng thời tấn công tổng lực bằng không quân vào Miền Bắc.
Kissinger gặp Lê Đức Thọ và Xuân Thủy vẫn bên một chiếc bàn hình chữ nhật có phủ
một tấm vải xanh, "nhưng khung đàm phán thì không như xưa nữa; nó đã bị
thay đổi cơ bản sau chuyến đi Bắc Kinh mặc dù Lê Đức Thọ vẫn chưa biết điều
này”.
Cuộc họp được coi là gay gắt, tuy nhiên
theo Kissinger, phía Bắc Việt Nam có vẻ thực sự muốn đàm phán. Hà Nội “yêu cầu
bồi thường chiến tranh” và “khăng khăng đòi lật đổ chính quyền Sài Gòn”. Vấn đề
bồi thường chiến tranh không phải là không thể nhân nhượng, nhưng theo
Kissinger: “Chúng tôi sẽ không lật đổ chế độ Miền Nam Việt Nam để đổi lấy hòa
bình”.
Ngay từ lúc này, ông Xuân Thủy đã “ngụ
ý” rằng Tướng Dương Văn Minh có thể là một người mà Hà Nội có thể chấp nhận để
thay thế Tướng Thiệu. Nhưng theo Kissinger, Minh sẽ là vị tổng thống dễ lật đổ
nhất, trong khi Nguyễn Văn Thiệu là một lãnh đạo quân sự cứng nhất, là người có
năng lực nhất trong số các chính khách Sài Gòn.
Ngày 16-8-1971, lại có một cuộc gặp nữa
giữa Kissinger và Xuân Thủy. Kissinger đến chậm nửa tiếng, Xuân Thủy nói: “Mặc
dù các ông đưa được người lên mặt trăng nhưng vẫn đến cuộc họp muộn”. Ông Xuân
Thủy có thể sẽ không hài hước như thế nếu biết, trong nửa giờ đó, Kissinger đã
có một cuộc họp bí mật với đại sứ Trung Quốc ở Paris, Huang Chen, người được
coi là đồng minh của Bắc Việt Nam.
Trong suốt thời gian đàm phán, chiến
tranh Việt Nam luôn được Kissinger đưa ra trả treo với Liên Xô thông qua Đại sứ
Dobrynin, và với Bắc Kinh thông qua đại sứ Hoàng Hoa ở Liên Hiệp Quốc. Các nhà
lãnh đạo Bắc Việt Nam chỉ biết được chuyến đi bí mật của Kissinger đến Bắc Kinh
36 giờ trước khi nó được công bố. Theo Kissinger: “Hà Nội tức điên đến mức họ
biến các cuộc đàm phán trở thành băng giá”.
Theo ông Đống Ngạc, Thư ký riêng của
Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn: “Sau đó, Trung Quốc có cho Chu Ân Lai sang giải thích.
Anh Ba nói: Các đồng chí muốn vào Liên Hiệp Quốc các đồng chí cứ vào nhưng các
đồng chí không được thay mặt Việt Nam bàn về vấn đề Miền Nam với Mỹ”. Ông Đống
Ngạc nói tiếp: “Ta hiểu, sở dĩ Trung Quốc đạt được thỏa thuận đó với Mỹ là do
cuộc chiến của mình. Có chiến tranh Việt Nam, thế Trung Quốc trên trường quốc tế
cao hơn. Mỹ nghĩ vấn đề Việt Nam không giải quyết được là do chưa kéo được Trung
Quốc”.
1972, Nixon công bố các biên bản đàm
phán trước người dân Mỹ và đọc một bài diễn văn cho thấy các đề nghị của ông đã
bị Hà Nội bác bỏ. Nixon nói: “Chỉ có một điều, đó là ngả về phía kẻ thù để lật
đổ đồng minh của chúng ta, điều mà nước Mỹ sẽ không bao giờ làm. Nếu kẻ thù muốn
hòa bình họ phải nhận ra sự khác biệt quan trọng giữa thỏa thuận với sự đầu
hàng”.
Ngày 2-2-1972, miền Bắc ra tuyên bố
công khai đồng ý tù binh sẽ được thả vào ngày người lính Mỹ cuối cùng được rút
về nước. Nhưng vấn đề này phải được gắn với việc kêu gọi Thiệu từ chức ngay lập
tức đồng thời giải tán lực lượng cảnh sát, quân đội Sài Gòn.
“Mùa hè đỏ lửa”
Trong khi đó, từ tháng 5-1971, Bộ Tổng
Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đã dự thảo kế hoạch để Quân ủy xác định chiến
lược 71-72, đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả ba vùng ở miền Nam.
Thoạt đầu, Quân ủy dự kiến: “Hướng tấn
công chủ yếu 1” là chiến trường biên giới Campuchia và chiến trường Đông Nam Bộ;
“Hướng chủ yếu 2” là chiến trường Tây Nguyên; “Hướng phối hợp quan trọng” là miền
núi Tây Trị Thiên. Vào đầu tháng giêng năm 1972 sau khi nắm lại tình hình, thấy
việc bảo đảm vật chất cho chiến trường Nam Bộ và Tây Nguyên không đạt được, Bộ
Chính trị và Quân ủy quyết định lấy Trị Thiên làm chiến trường chủ yếu, như đề
xuất ban đầu của Tướng Giáp, mặc dù khi đó ngày mở đầu Chiến dịch đã cận kề.
Theo Tướng Lê Phi Long, trong chiến dịch
này, nơi đặt “Tổng Hành dinh” đã khang trang hơn, đã có đủ các phương tiện
thông tin, máy ghi âm… Công tác bảo mật thì lại càng siết chặt: cửa phòng thường
xuyên đóng kín, ngay cả cán bộ trong Cục không có nhiệm vụ tác chiến cũng không
được vào. Ngày 30-3-1972, quân đội của Tướng Giáp mở đầu cuộc tấn công chiến lược
trên toàn miền Nam.
Theo Kissinger thì Tướng Abrams biết
trước cuộc phản công từ đầu tháng Giêng, và việc sử dụng B52 đã được tính tới.
Nhưng Nhà Trắng cho rằng có thể sẽ can thiệp bằng chuyến đi Bắc Kinh; Bộ Ngoại
giao lo B52 sẽ “thiêu rụi những triển vọng đàm phán với Hà Nội”; Bộ Quốc phòng
sợ phải đưa ra những gánh nặng ngân sách mới. “Mọi người đều lo sợ làn sóng phản
đối của nhân dân sẽ bùng lên không kiểm soát nổi nếu nối lại các cuộc ném bom
miền Bắc, ngay cả chỉ ở một phạm vi hạn chế”, Kissinger nói.
Nixon ngay sau đó đã gửi một bức thư
tới Brezhnev, một bức thư khác được chuyển tới Huang Chen, đại sứ Trung Quốc ở
Paris người có quan hệ gần gũi với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Kissinger nhận
định “Cả Bắc Kinh và Moscow đều đứng ngồi không yên. Cả hai bên đều không muốn
bị coi lơ là nhiệm vụ với đồng minh Bắc Việt Nam của mình. Tuy nhiên, cả hai đều
lo sợ rằng tình trạng bất trị của Hà Nội có thể phá vỡ những mục tiêu lớn với Mỹ”.
Bắc Kinh không đếm xỉa gì đến các cuộc đàm phán, họ chưa bao giờ yêu cầu Mỹ thực
hiện một cam kết nào đối với Việt Nam. Washington đánh giá sự ủng hộ thực tế của
Trung Quốc với Hà Nội là không đáng kể do nguồn lực hạn chế, do đó, Mỹ không cần
gây sức ép thêm với Trung Quốc nữa. Còn Moscow thì “đổ lỗi hoàn toàn cho Bắc Việt”
trong việc “không ủng hộ những đề nghị mới nhất” của Mỹ.
Trước chuyến đi Trung Quốc của Nixon,
ông Lê Đức Thọ đề nghị gặp Kissinger vào ngày 15-3, Kissinger đề nghị gặp vào
ngày 20-3-1971. Ngày 29-2-1971, khi Nixon đã rời Trung Quốc, ông Võ Văn Sung, đại
diện của Hà Nội tại Paris, mời tướng Walters đến để thông báo ông Lê Đức Thọ đồng
ý gặp nhau vào ngày mà Kissinger đề nghị.
Thoạt đầu Kissinger ngạc nhiên vì sao
Hà Nội lại muốn gặp vào thời điểm này, nhưng ngay sau đó, Kissinger nhận ra:
“Hà Nội sẽ phát động cuộc tấn công mà họ đã chuẩn bị rất điên cuồng và sau đó sẽ
sử dụng cuộc gặp của tôi với Lê Đức Thọ để ngăn cản các cuộc đáp lại quân sự của
chúng ta, họ nghĩ chúng ta sẽ e ngại tấn công trong khi đang diễn ra cuộc đàm
phán”.
Ở Quảng Trị, theo Tướng Lê Phi Long:
Lực lượng của miền Bắc rất mạnh, không kể địa phương quân, chỉ tính riêng chủ lực
có đến 5 vạn người, gồm 3 sư đoàn, nhiều trung đoàn độc lập và các đơn vị kỹ
thuật. Sau 6 ngày đêm chiến đấu, ngày 4-4-1972, tuyến phòng thủ trên hướng
chính của Quân đội Sài Gòn vị phá vỡ và bị buộc phải rút nhiều căn cứ và tháo
chạy về co cụm ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, Quảng Trị... Nhưng đến chiều 8-4-1972
thì tình hình ngược lại, các mũi đột kích đều không phát triển được; các đơn vị
đánh vào Đông Hà bị thiệt hại nặng. Trong khi Hà Nội vẫn không thống nhất được
mục tiêu của Chiến dịch.
Theo Tướng Lê Phi Long: “Vào lúc 5 giờ
sáng ngày 24-4-72, pháo binh ta bắn gần 3 vạn quả đạn vào các cụm quân địch ở
Đông Hà, Lai Phước, Ái Tử, La Vang. Lợi dụng lúc địch bị pháo ta chế áp, bộ
binh và xe tăng, đặc công nhanh chóng chiếm các điểm cao phía tây, thọc sâu vào
sân bay chiếm Đông Hà. Bị cánh vu hồi của quân ta phá cầu Lai Phước, địch hoảng
loạn rút chạy, bỏ lại tất cả xe cộ, vũ khí nặng và đến 18 giờ 28-4 ta làm chủ
hoàn toàn khu Đông Hà, Lai Phước. Trong khi đó, ta và địch quần nhau từng tấc đất
ở cụm Ái Tử và cầu Quảng Trị”.
Ngày 4-4-1972, Nixon ra lệnh “không
kích chiến thuật” ra đến Vinh bằng cách bổ sung 20 máy bay B 52, bốn phi đội
máy bay ném bom F-4, thêm tám tàu khu trục được gởi đến Đông Nam Á. Trước đó một
ngày, Kissinger gặp Dobrynin ở Phòng Bản đồ của Nhà Trắng, trách Liên Xô đã đồng
lõa với cuộc tấn công của Hà Nội, và dọa: “Nếu cuộc tấn công tiếp tục, Mỹ có thể
phải có biện pháp cho Moscow thấy những lựa chọn khó khăn trước cuộc họp thượng
đỉnh”. Ngày 4-4, người phát ngôn báo chí của Bộ Ngoại giao Mỹ nói khi họp báo:
“Cuộc xâm lược Miền Nam của Bắc Việt Nam đã được thực hiện bằng vũ khí của Liên
Xô”. Cùng lúc, Kissinger cử Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ
Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc để gửi một thông điệp bằng lời cho Trung Quốc: “Hải
quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng cách 12 dặm”. Trước đó, Hạm đội 7 của Mỹ
hoạt động trong vòng 3 dặm, tức là trong phạm vi bao gồm lãnh hải Hoàng Sa của
Việt Nam.
Một cuộc họp kín giữa Lê Đức Thọ và
Kissinger đã được đôi bên thỏa thuận vào ngày 2-5-1972. Tình hình chiến trường
đã giúp Lê Đức Thọ đến Paris với một tư thế hoàn toàn khác với những lần trước
đó.
Sáng 1-5-1972, Quân giải phóng chiếm
cầu Quảng Trị và sân bay. Ngày 2-5-1972, Quảng Trị rơi vào tay miền Bắc. Một tuần
trước đó, Quân Giải phóng đã triển khai một cuộc tấn công lớn đe dọa thủ phủ
Kontum và Pleiku; tiêu diệt khoảng một nửa Sư đoàn 22 của Sài Gòn. An Lộc, một
thị xã cách Sài Gòn hơn 100 km cũng gần như thất thủ. Gần sát cuộc gặp, Sư đoàn
3 của Việt Nam Cộng hòa bị tiêu diệt hoàn toàn. Ở Quảng Trị, chính quyền Sài
Gòn ước tính có khoảng 20.000 người miền Nam cả quân lẫn dân bị chết. Nhiều đơn
vị Việt Nam Cộng hòa bỏ chạy tán loạn.
Kissinger mô tả rằng cuộc họp kín
ngày 2 tháng 5 diễn ra rất thô bạo. Nhưng ông Thọ khi ấy không biết Nixon đã dặn
Kissinger rằng, cho dù kết quả đàm phán thế nào, ông vẫn ra lệnh cho ba máy bay
B52 công kích Hà Nội và Hải Phòng vào những ngày cuối tuần, từ 5 đến 7-5-1972.
Nixon nhấn mạnh với Kissinger ông chấp nhận hủy bỏ cuộc gặp thượng đỉnh ở
Moscow trừ khi tình hình được cải thiện. Tại một trang trại ở Texas, Nixon cảnh
báo: “Hà Nội đang chấp nhận nguy hiểm rất lớn nếu tiếp tục tấn công miền Nam”.
Nison đã nhận kết quả cuộc gặp ngày
2-5-1972 một cách lặng lẽ và cam chịu. Ông tỏ ra kiên quyết với lệnh ném bom
B52 hơn. Kissinger cho rằng trong ngày 2-5-1972, Lê Đức Thọ chỉ “giả vờ thương
thuyết” vì “tin chắc rằng họ đang tới rất gần chiến thắng”. Theo Kissinger,
“thái độ làm cao của Lê Đức Thọ” đã khiến cho Nixon trở nên “rất hùng hổ”. Thứ
Sáu, ngày 5-5-1972, B52 bắt đầu trút bom xuống Hải Phòng và Hà Nội, đồng thời
mìn ngư lôi được thả bao vây các cửa biển miền Bắc.
Sau khi nhận được thư của Brezenhev
trấn an thái độ bi quan của Mỹ về cuộc họp ngày 2-5 với Lê Đức Thọ là không hợp
lý, Washington trở nên quyết tâm hơn khi nhận thấy thư của Brezhnev “không đưa
ra lời đe dọa cụ thể nào”. Trong khoảng từ 25-4 đến 5-5-1972, Nixon đã đưa ra lệnh
ném bom xuống đê Sông Hồng, tăng cường ném bom các trung tâm thành phố và dự định
sử dụng cả “vũ khí hạt nhân”. Theo Kissinger: “Tôi kịch liệt phản đối các kế hoạch
này, và Nixon thì đã không kiên quyết”.
Washington cũng đồng thời nhận được
“tín hiệu” từ Trung Quốc qua bài Xã luận đăng trên Nhân dân nhật báo số ra ngày
11-5-1972. Đằng sau những ngôn từ to tát như: “Kiên quyết ủng hộ nhân dân Việt
Nam”; “Vô cùng phẫn nộ và mạnh mẽ lên án” đế quốc Mỹ, Washington nhận ra thông
điệp của Trung Quốc khi thấy “bài xã luận” xác định Bắc Kinh chỉ làm “hậu
phương” của Việt Nam. Bên cạnh bài xã luận “lên án Mỹ” đó, Nhân dân nhật báo đã
cho đăng nguyên văn diễn văn của Nixon công bố một ngày trước đó giải thích vì
sao mà ông ta đã phải ném bom miền Bắc.
Ở Quảng Trị, lúc bấy giờ, theo Tướng
Lê Phi Long, sau 2 đợt chiến đấu liên tục, sức khỏe của bộ đội miền Bắc đã giảm
sút, quân số bị hao hụt, các đơn vị binh chủng thì thiếu khí tài, sức kéo, đạn
dược. Nhưng không hiểu vì sao Lãnh đạo Bộ và Tư lệnh chiến trường lại chủ
trương mở tiếp đợt tấn công thứ ba nhằm giải phóng Thừa Thiên - Huế.
Ngày 4-5-1972, ba ngày sau khi chiếm
được Quảng Trị, Bộ có điện số 32 chỉ thị tiếp cho Bộ Tư lệnh chiến dịch: “Kịp
thời nắm lấy thời cơ phát triển tiến công với một tinh thần khẩn trương triệt để,
liên tục, kết hợp tiến công của bộ đội chủ lực với nổi dậy của quần chúng và
phong trào cách mạng Huế, tiêu diệt đại Bộ phận lực lượng quân sự Mỹ; giải phóng
hoàn toàn tỉnh Thừa Thiên, bao gồm cả thành phố Huế và căn cứ Phú Bài, sau đó
phát triển về Đà Nẵng”. Đây là một chỉ đạo mà theo Tướng Lê Phi Long: “Chủ quan
nặng!”
Sau Chỉ thị đó, dưới sự chủ trì của
Tướng Giáp, các cuộc họp nối tiếp cuộc họp để hoàn chỉnh kế hoạch. Cơ quan Tác
chiến làm việc tới 20 giờ/ngày. Vất vả nhất là khoảng từ 6 giờ tối đến 12 giờ
đêm vì, theo Tướng Lê Phi Long, lúc này chiến trường mới điện báo cáo tình hình
lên Bộ Tổng Tham mưu. Quảng Trị bắt đầu trở thành cối xay thịt khi Quân đội Sài
Gòn, dưới sự phối hợp của không quân và pháo hạm Mỹ bắt đầu phản công, gây thiệt
hại nặng nề cho quân miền Bắc.
Một tuần sau, huyện Hải Lăng và một
phần huyện Triệu Phong bị chiếm lại, quân đội Sài Gòn áp sát thị xã. Lực lượng
miền Nam khi ấy gồm 3 sư đoàn được yểm trợ bằng hoả lực mạnh của không quân và
pháo hạm Mỹ. Lực lượng miền Bắc, tuy có 5 đầu sư đoàn nhưng đã mất sức chiến đấu,
quân số của mỗi đại đội chỉ còn từ 20 đến 30 người mà phần lớn là cán bộ. Gạo,
đạn tiếp tế kiểu ăn đong.
Theo “Chủ nhiệm Hướng” Lê Phi Long:
“Ngày 30-6, mười ngày sau khi mở đợt 3 tấn công không thành công, Tướng Văn Tiến
Dũng trở ra Hà Nội vì lý do sức khỏe”. Ngày 20-7 Tướng Trần Quý Hai được cử vào
thay Tướng Lê Trọng Tấn; Tướng Song Hào thay Tướng Lê Quang Đạo. Các vị tướng
này sức khỏe đều giảm sút và mệt mỏi.
Tình hình phát triển ngày càng xấu
hơn, thế nhưng Bộ chỉ huy chiến dịch vẫn chủ trương tiếp tục phản công và tiến
công. Trong khi, theo Tướng Lê Phi Long, không đánh được một trận tiêu diệt nào
dù 1à phân đội nhỏ. Thời tiết thì hơn nửa tháng 1iền, không mấy ngày được nắng
ráo, nhiều trận mưa kéo dài, hầm hào lúc nào cũng ngập nước, trong khi B52,
pháo mặt đất, pháo hạm liên tục dội bom. Bộ đội phải chiến đấu liên tục không
có thời gian làm công sự. Thương vong ngày càng tăng.
Trong thời điểm nóng bỏng ấy, Văn Tiến
Dũng đang đi an dưỡng ở Tam Đảo, Lê Trọng Tấn vừa ở chiến trường ra đang trong
thời kì dưỡng bệnh, Tướng Giáp phải trực tiếp điều hành mọi công việc của Bộ Tổng
tham mưu. Ông đọc cho Tướng Lê Phi Long viết bức điện gửi thẳng xuống đơn vị
cho Nguyễn Hữu An, Sư trưởng Sư đoàn 308 và Hoàng Đan, Sư trưởng Sư đoàn 304. Bức
điện viết: “An, Đan/Báo cáo ngay tình hình, chờ/V”. Bức điện cho thấy Tổng Tư lệnh
rất sốt ruột.
Ngay ngày hôm sau, Nguyễn Hữu An gửi
cho vị Tướng mà ông tin cậy một bức điện dài 4 trang, nói rõ: “Tôi thấy không
nên tiến công, và nên chuyển vào phòng ngự. Ở đây công tác chỉ đạo chỉ huy vẫn
ham tấn công và phản công, trong tình thế địch mạnh hơn ta, ăn hiếp ta, lực lượng
ta đã suy giảm và đang rơi và bị động. Tôi nghĩ rằng sức ta yếu hơn địch, ta
chuyển vào phòng ngự 1à cần thiết. Nhưng ở đây hễ nói đến phòng ngự cấp trên lại
cho rằng đó 1à tư tưởng hèn nhát, thụ động. Đề nghị với Bộ quyết tâm dứt khoát
chuyển sang phòng ngự. Tình hình này ta muốn tiêu diệt gọn một tiểu đội, một
trung đội cũng khó”. Sư trưởng Hoàng Đan thì trả lời khéo léo hơn: “Theo kinh
nghiệm của tôi thì một trung đoàn chủ lực của ta chỉ đánh được 2 trận tập trung
là hết sức, nếu không được nghỉ ngơi củng cố thì không thể tiếp tục chiến đấu
thắng lợi. Còn quân ta ở đây đã chiến đấu liên miên 2 đến 4 tháng rồi còn sức
đâu mà đánh tiêu diệt”. Nhận được điện, Tướng Giáp rất lo lắng. Nhưng, lúc ấy
không những giữa chiến trường và Đại Bản doanh có ý kiến khác nhau mà trong nội
bộ Đại Bản doanh ý kiến cũng khác nhau.
Tướng Giáp thận trọng lập một “Tổ
Nghiên cứu” do Tướng Vương Thừa Vũ đích thân hướng dẫn. Trong cuộc họp kết luận,
Tướng Giáp sau khi giảng hòa mâu thuẫn giữa các sỹ quan tác chiến đã phải chỉ
vào đống sách do ông tự tay mang đến: “Các nhà 1ý luận quân sự của chúng ta
cũng đều nói có tiến công, có phòng ngự. Engels cũng đã nói điều đó. Thực tế
chiến trường đòi hỏi chúng ta phải chuyển qua phòng ngự. Cục tác chiến hãy điện
cho chiến trường tham khảo ý kiến của các đồng chí trong mặt trận xem sao”.
Cục Trưởng Tác chiến lúc ấy là Tướng
Vũ Lăng lệnh cho ông Long gửi một bức điện dài, theo Tướng Lê Phi Long: “Sau
khi phân tích lý luận và thực tế, Điện gợi ý mặt trận nên chuyển sang phòng ngự”.
Bức Điện ký tên Vũ Lăng phát đi 2 hôm thì Cục Tác chiến nhận được trả lời.
Trong điện trả lời, Tướng Trần Quý Hai dùng lời lẽ gay gắt phê phán Cục Tác chiến
không giữ vững quyết tâm, không quán triệt tư tưởng làm chủ và tiến công… Rồi Bộ
Tư lệnh Chiến dịch ra lệnh phản công mặc dầu đã trải qua 3 cuộc phản công không
kết quả.
Trước tình hình đó, theo ông Phi
Long, Tướng Giáp phải họp Thường trực Quân ủy Trung ương để thảo luận tiếp, và
cuối cùng xác định dứt khoát phải chuyển sang phòng ngự. Cùng thời gian ấy,
quân đội Sài Gòn tăng thêm lực lượng, hình thành thế bao vây, thường xuyên bắn
phá dữ dội các trận địa pháo của miền Bắc, đặc biệt là chung quanh thành cổ Quảng
Trị. Máy bay B52 rải thảm bờ bắc sông Bến Hải. Từ ngày 9 đến 16-9-1972, quân Giải
phóng đồng loạt tiến công trại La Vang, Tích Tường, Như Lệ, Bích Khê, Nại Cựu và
Thị xã. Nhiều trận phản kích đẫm máu của bộ đội sát chân thành cổ, giành giật
nhau từng mô đất, bờ tường. Mỗi ngày, quân miền Bắc trung bình mất một đại đội.
Đến đêm 16-9, một bộ phận nhỏ còn lại buộc phải rút khỏi thành cổ, sau 81 ngày
đêm khốc liệt.
Tướng Lê Phi Long kể: “Sáng 17-9, Cục
Tác chiến mới nhận được điện báo ‘Thành Cổ mất tối hôm qua’. Trong khi đó thì
trên phòng họp, Quân ủy Trung ương vẫn đang bàn về ‘phối hợp đấu tranh quân sự
chính trị và ngoại giao’ thông qua mặt trận Quảng Trị. Dự họp có Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng, Trần Quốc Hoàn, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh, Tố Hữu và các vị
trong thường trực Quân ủy. Lúc này Lê Đức Thọ đã có mặt ở Paris để hội đàm với
Kissinger. Được tin dữ, anh Văn rời cuộc họp xuống chỗ Cục tác chiến đích thân
nói điện thoại với mặt trận qua xe thông tin tiếp sức đậu trước sân Cục Tác chiến”.
Khác với thời làm Tư lệnh Chiến trường
Điện Biên Phủ, “Tướng quân tại ngoại”, có đầy đủ quyền bính để quyết định.
Trong cuộc chiến giành thống nhất, không phải lúc nào Tướng Giáp cũng có thể
đưa ra những quyết định quân sự mà ông tin là đúng đắn. Những người chỉ huy chiến
dịch Quảng Trị chịu rất nhiều áp lực từ các cuộc Hội đàm giữa Kissinger và Lê Đức
Thọ.
Theo Tướng Lê Phi Long, trong thời
gian diễn ra Chiến dịch Quảng Trị: “Ông Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường
nào, thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng
Tham mưu, vừa để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc! Chúng tôi, cơ
quan tham mưu, không đồng tình với cách làm này nhưng không biết than thở với
ai, hình như anh Văn cũng cảm nhận được điều đó nên có lần đã nói với chúng
tôi: Cần kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao,
nhưng mỗi lĩnh vực có quy luật riêng của nó, ví như về quân sự thì trước hết phải
bảo đảm chắc thắng, nếu không diệt được địch, không phát triển 1ực lượng thì
không phối hợp quân sự với ngoại giao được”. Tướng Lê Hữu Đức thừa nhận: “Cố
đánh Quảng Trị là do nhu cầu đàm phán”.
Thành cổ Quảng Trị thất thủ khi quân
miền Bắc đã gần như hoàn toàn kiệt sức. Theo tướng Lê Phi Long: “Lực lượng chiếm
giữ Thành Cổ khi đó nói là có mấy tiểu đoàn nhưng trên thực tế chỉ còn phiên hiệu,
mỗi tiểu đoàn chỉ còn ba bốn chục người. Việc bổ sung quân số tiếp tế qua sông
hết sức khó khăn. mặt người chỉ huy đã ngã xuống. Nhiều cán bộ chỉ huy ngày đêm
vất vả, râu tóc mọc kín mặt mà không có thời gian cắt cạo. Trong hầm phẫu ở
ngay dinh Tỉnh Trưởng cũ thường xuyên có trên dưới 200 thương binh, sặc mùi hôi
thối. Các lực lượng trong Thành Cổ thì chiến đấu một cách tuyệt vọng, còn các
đơn vị ở các hướng khác, tuy có cố gắng đánh vào cạnh sườn để hộ trợ cho lực lượng
ở trong Thành nhưng cũng không tạo được hiệu quả. Chiến dịch Quảng Trị kéo dài,
thương vong rất lớn, có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong
hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ lại tôi rất đau lòng. Ta đã tung hết lực lượng,
đã kiệt quệ. Có lúc tôi đã phải điều học viên trường Lục Quân về gần thủ đô lập
một lữ đoàn để bảo vệ Trung ương, vì hết cả quân”.
Cơ hội hòa bình
Nhưng việc Sài Gòn lấy lại Quảng Trị
lại giúp phá vỡ những bế tắc trong đàm phán. Dưới sự chủ tọa của Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, Hiệp định và một số Nghị định thư
cần thiết đã được soạn. Ngày 26-9-1972, Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Lưu Văn Lợi đã mang các dự thảo tới Paris.
Ngày 4-10-1972, sau khi Bộ chính
trị xem xét lại dự thảo Hiệp định, Hà Nội thông báo cho Lê Đức Thọ và
Xuân Thủy: “Ta cần tranh thủ khả năng chấm dứt chiến tranh trước ngày
bầu cử ở Mỹ, đánh bại âm mưu của Nixon kéo dài đàm phán để vượt
tuyển cử, tiếp tục Việt Nam hóa chiến tranh, thương lượng trên thế
mạnh… Yêu cầu lớn nhất của ta hiện nay là chấm dứt chiến tranh của
Mỹ ở miền Nam. Mỹ rút hết, chấm dứt sự dính líu quân sự của Mỹ ở
miền Nam và chấm dứt cuộc chiến tranh không quân, hải quân, thả mìn
chống miền Bắc… Chỉ ghi nguyên tắc về quyền tự quyết, tổng tuyền cử,
giữ gìn hòa bình, hòa hợp dân tộc và ghi một câu ngắn ‘thành lập
Chính quyền hòa hợp dân tộc các cấp gồm ba thành phần với nhiệm vụ
đôn đốc và giám sát các bên thi hành các Hiệp định ký kết”.
Ngày 8-10-1972 khi Lê Đức Thọ đưa ra
dự thảo các điều khoản hiệp định đề nghị ký kết, Kissinger viết: “Các đồng nghiệp
và tôi đều hiểu ngay tầm quan trọng của những điều mình vừa nghe. Ngay lúc nghỉ
giải lao, Winston Lord và tôi đã bắt tay và nói với nhau: ‘chúng ta đã thành công
rồi’. Haig, người đã từng phục vụ tại Việt Nam, thốt lên đầy xúc động rằng
chúng tôi đã bảo toàn được danh dự cho các chiến binh từng phục vụ, đã chịu đựng
và hy sinh ở Việt Nam”.
Điều quan trọng nhất mà miền Bắc muốn
- Mỹ rút quân mà Hà Nội không rút quân - thì ở trên bàn đàm phán, Kissinger đã
chấp nhận từ năm 1971. Trên thực tế, cho đến khi ký Hiệp định Paris, Nixon đã
đơn phương rút quân: từ 545.000 quân năm 1968 xuống còn 27.000 quân năm 1972.
Cuộc đàm phán tưởng như đã tới hồi kết
thúc, Kissinger dự kiến sẽ quay lại Paris vào ngày 17-10 gặp Xuân Thủy, thống
nhất nốt “hai tồn tại” về nhân viên dân sự bị giam giữ ở miền Nam và việc “thay
thế thiết bị quân sự”, được ngầm hiểu như là một viện trợ quân sự cho Sài Gòn.
Ngày 18-10, từ Paris, Kissinger sẽ bay đến Sài Gòn, và tối ngày 22, sẽ đến Hà Nội.
Hiệp định dự định công bố vào ngày 24 và được ký ngày 31-10-1972.
Khi bước lên máy bay, Kissinger đã nhận
được một bức thư tay của Nixon, dặn: “Thứ nhất, anh cứ làm cái gì cho là đúng
mà không cần chú ý đến bầu cử; thứ hai, chúng ta không thể để tuột mất cơ hội kết
thúc chiến tranh trong danh dự”. Nixon cũng gửi một bức thư cho Brezhnev, nhưng
theo Kissinger, những yêu cầu của Nixon đều bị bỏ qua. Trong khi đó, tuy không
trả lời gì, “viện trợ đạn dược của Bắc Kinh cho Hà Nội đã giảm tới mức ít ảnh
hưởng tới kết quả của cuộc chiến”.
Nhưng, kể từ ngày 14-10, khi Đại sứ
Bunker chuyển bản tóm tắt Hiệp định cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đến ngày
18-10, khi Kissinger đến Sài Gòn, ông Thiệu không hề trả lời. Ngày 19-10, khi đến
dinh Độc Lập, Kissinger đã phải đợi tới 15 phút, Hoàng Đức Nhã - trợ lý của Tổng
thống - mới ra đưa Đại sứ Bunker và Kissinger vào gặp ông Thiệu trao bức thư của
Nixon. Ông Thiệu hẹn 2 giờ chiều hôm sau sẽ trả lời. Vào ngày 19-10, Kissinger
nhận được phản hồi từ Lê Đức Thọ, theo ông: “Hà Nội đồng ý không chỉ với lập
trường của chúng tôi mà còn cả với câu chữ do chúng tôi đề ra: Với việc ngừng bắn,
tất cả tù nhân sẽ được trả tự do, trừ 10 nghìn cán bộ Việt Cộng trong nhà tù miền
Nam Việt Nam”.
Trong khi đó, không có cuộc điện thoại
nào từ văn phòng Tổng thống Thiệu gọi cho Đại sứ Bunker để xác nhận cuộc hẹn.
Mãi tới 2 giờ 30 phút, Bunker mới nhận được điện thoại của ông Nhã báo là cuộc
họp phải lùi tới 5 giờ. Năm giờ, đoàn xe hộ tống của Thiệu đi ngang qua sứ quán
Mỹ hụ còi hết cỡ và bỏ mặc Bunker giận dữ, không một lời xin lỗi. Đêm hôm đó,
Hoàng Đức Nhã mới báo với Bunker, Tổng thống sẽ làm việc với họ vào 8 giờ sáng
hôm sau. Cuộc gặp vào 9 giờ sáng 20-10, theo Kissinger, là chỉ để nghe “cơn thịnh
nộ” của ông Thiệu. Trong khi Kissinger cảm thấy bế tắc với Sài Gòn thì ông nhận
được tin vào tối 21-10 từ Hà Nội, theo đó, các yêu cầu của Mỹ về các vấn đề
liên quan đến Lào và Campuchia đều được chấp nhận.
Kissinger đang không biết sẽ ăn nói
như thế nào với ông Lê Đức Thọ thì Hà Nội mời nhà báo nổi tiếng, Arnaud De
Borchgrave, đến Việt Nam và được thu xếp để ông phỏng vấn Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Kissinger cho rằng: “Hà Nội đã phạm phải sai lầm khi đưa ra cớ để (cho
Washington) trì hoãn”.
Một Bức điện, nhân danh Tổng thống
Nixon được gửi tới phái đoàn của Hà Nội ở Paris cho rằng, Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã phá vỡ lòng tin và làm nảy sinh trách nhiệm đáng kể cho những mối quan hệ
ở Sài Gòn khi cho Arnaud De Borchgrave vào phỏng vấn. Bức thư nhấn mạnh rằng
phía Mỹ không thể hành động một cách đơn phương; những khó khăn ở Sài Gòn cho
thấy sự việc diễn biến phức tạp hơn dự đoán; trong hoàn cảnh đó, Tổng thống đã
phải triệu tiến sỹ Kissinger về Washington để cố vấn những bước đi tiếp theo.
Kissinger “dọa” Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu, nếu chiến sự còn tiếp diễn kiểu này trong 6 tháng nữa Thượng viện sẽ quyết
định cắt viện trợ. Nhưng ông Thiệu với sự cố vấn của Hoàng Đức Nhã vẫn không
lay chuyển. Trong khi đó, Hà Nội cáo buộc Washington “không thực sự nghiêm chỉnh”
và cảnh cáo rằng “cuộc chiến ở Việt Nam sẽ tiếp diễn và phía Hoa Kỳ phải chịu tất
cả trách nhiệm”. Mặc dù trong bức điện gửi tới Paris vài ngày trước, Nixon đã đề
nghị hai bên chưa công bố những điều trong dự thảo Hiệp định, nhưng ngày 26-10-1972,
Đài Tiếng nói Việt Nam đã cho công bố bản dự thảo này.
Ngày 27-10, người phát ngôn của miền
Bắc tại Paris, ông Nguyễn Thành Lê, nói với báo giới: “Nếu như ngày ký là ngày
31, và vào ngày 30 nếu Kissinger muốn gặp Lê Đức Thọ hoặc Xuân Thủy để uống sâm
banh trong khi chờ đợi việc ký kết, tôi nghĩ rằng sự hưởng ứng sẽ rất tích cực”.
Nhưng phía Mỹ lại đề nghị có một cuộc đàm phán cuối cùng và hứa ngừng ném bom
hoàn toàn trong vòng 48 giờ sau khi có một giải pháp. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
đã phản đối “bằng giọng văn bực tức của Nhã”.
Nixon viết thư cho Thiệu: “Nếu như
tình trạng bất đồng giữa hai chúng ta tiếp tục tiếp diễn theo một chiều hướng
khác, thì những ủng hộ cần thiết của phía Mỹ đối với ngài và với chính phủ của
ngài sẽ không còn nữa. Ngài không nên nuôi ảo tưởng rằng chính sách của tôi
liên quan đến ước muốn đạt được hiệp định hòa bình một cách sớm sủa sẽ thay đổi
sau khi cuộc bầu cử diễn ra”. Như Nixon dự đoán, cho dù Hiệp định Paris chưa
ký, ông vẫn tái đắc cử Tổng thống với số phiếu hơn 60% vào ngày 7-11-1972.
Vài cuộc họp giữa Kissinger và Lê Đức
Thọ đã được nối lại vào nửa cuối tháng 11-1972. Nếu như Chính phủ Lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam chỉ là cái bóng của miền Bắc, và bà Nguyễn Thị Bình chỉ
tuyên bố theo chỉ thị của Hà Nội như bà thừa nhận, thì Việt Nam Cộng hòa là một
thực thể chính trị mà người Mỹ không dễ khuất phục.
Do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phản
đối, Kissinger phải đưa ra 69 đề nghị mới của Việt Nam Cộng hòa. Trong đó có những
đòi hỏi mà Hà Nội không thể nào chấp nhận: Đòi xóa bỏ tên Chính phủ Cách
mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ghi trong Hiệp định; đòi rút
tất cả lực lượng không phải Nam Việt Nam ra khỏi miền Nam. Chính
Kissinger cũng thừa nhận đó là những đòi hỏi vô lý - để tăng thêm sức phản
kích, Lê Đức Thọ đòi lập hội đồng ba thành phần 15 ngày sau ngừng
bắn, đòi tổng tuyển cử ở miền Nam 6 tháng, đòi Thiệu phải từ chức
hai tháng trước tuyển cử.
Cho dù xác nhận sự đồng ý của Sài Gòn
sẽ ảnh hưởng rất lớn tới Hiệp định, Kissinger vẫn chấp nhận đưa ra khỏi Hiệp định
điều kiện “rút quân đội không phải của Nam Việt Nam ra khỏi miền Nam”; có giải
pháp thỏa đáng xác nhận vị trí của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam… nhưng Lê Đức Thọ thấy Mỹ vẫn đòi sửa đổi nhiều với ta,
nên lại phê phán Mỹ lại có ý đồ chia cắt Việt Nam, kéo dài đàm
phán”.
Theo Kissinger: “Tổng thống rất thất
vọng về tinh thần cũng như thực chất của cuộc họp cuối cùng với Lê Đức Thọ”.
Nixon gửi điện cho Kissinger: “Nếu đối phương không thể hiện thiện chí phù hợp
tương tự như chúng ta đang thể hiện, tôi chỉ thị cho anh phải ngừng đàm phán và
rồi chúng ta sẽ nối lại các hoạt động quân sự cho đến khi đối phương sẵn sàng
đàm phán. Phải làm cho họ tỉnh ngộ trước ý nghĩ cho rằng dường như chúng ta
không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc giải quyết theo hướng những điều khoản
mà họ đưa ra”.
Ngày 23-11, sau cuộc đàm phán dài 6
tiếng đồng hồ, nhân dịp lễ tạ ơn, đoàn miền Bắc mời đoàn Mỹ dùng một bữa trưa thịnh
soạn với thịt bò và thịt gà nướng. Ngay trong bữa ăn, Kissinger viết: “Tôi đưa
ra hai lựa chọn cho Tổng thống: hoặc chấm dứt đàm phán và ném bom trở lại miền
Bắc từ vỹ tuyến 20 trở lại (trên thực tế, trước đó 24 giờ tổng thống đã yêu cầu
tôi đặt vấn đề đó cho ông Lê Đức Thọ suy nghĩ); hoặc có giải pháp cho những vấn
đề nêu trong bản dự thảo cụ thể là các điều khoản về khu phi quân sự và vũ khí
kèm theo một số thay đổi trong phần về chính trị như là việc giữ thể diện cho
chính quyền Sài Gòn”.
Giáng Sinh B52
Các cuộc đàm phán được đôi bên thỏa
thuận là sẽ nối lại. Trong bức điện gửi tới Hà Nội vào ngày 27-11, Washington
cho biết là Tổng thống ra lệnh giảm 25% các đợt ném bom. Theo Kissinger: “Đó là
một sai lầm. Có vẻ như Bắc Việt Nam xem hành động đó như thể là chúng tôi buộc
phải làm do yếu thế”.
Kissinger nói Nixon đã muốn ra lệnh tấn
công bằng B-52 xuống Hà Nội-Hải Phòng ngay trước khi các cuộc đàm phán được bắt
đầu lại vào ngày 6-12. Trong cuộc gặp vào ngày 7-12, theo Kissinger: “Chúng tôi
bị dồn vào chân tường một cách tuyệt vọng. Điều mà Lê Đức Thọ muốn ở chúng tôi
là tiến tới hiệp định, đủ gần để ngăn ngừa chúng tôi sử dụng sức mạnh quân sự,
nhưng cũng đủ xa để duy trì sức ép sao cho vào những phút cuối có thể hoàn
thành những mục tiêu của Hà Nội trong việc làm tan vỡ cấu trúc chính trị của
Sài Gòn”.
Trên thực tế, theo ông Lưu Văn Lợi,
những tranh chấp còn lại là không quan trọng, phần lớn thuộc về kỹ thuật hoặc về
cách dùng từ khác nhau do dịch ra tiếng Anh, tiếng Việt. Theo người phiên dịch
của ông Lê Đức Thọ, ông Nguyễn Đình Phương: “Đến ngày 13-12-1972, chỉ còn hai vấn
đề tồn tại (khu phi quân sự và cách ký Hiệp định), hai bên quyết định về nước hỏi
ý kiến chính phủ, trong khi các chuyên viên tiếp tục rà soát lại văn bản. Ngày
15-12-1972 anh Sáu rời Pari”.
Kissinger cho rằng: “Nếu hồi tháng Mười
Hà Nội chịu đưa ra một hoặc hai đề nghị thỏa hiệp về khu phi quân sự hay kỹ thuật
viên quân sự thì Nixon có lẽ đã chấp nhận. ông không hào hứng với việc ném bom
trở lại. Ông đã trải qua nỗi kinh hoàng khi xuất hiện trên truyền hình để thông
báo bắt đầu một nhiệm kỳ mới với việc một lần nữa mở rộng chiến tranh… Nhưng Hà
Nội đã trở nên quá tự tin. Được khuyến khích bởi sự bất đồng công khai giữa
Washington và Sài Gòn, thêm vào đó, Quốc hội mới sẽ cắt ngân sách vào tháng
Giêng tới, Bắc Việt Nam nghĩ rằng họ có thể buộc chúng ta nhượng bộ và làm Sài
Gòn mất tinh thần. Bắc Việt Nam đã phạm một lỗi căn bản khi thương lượng với
Nixon, họ đã dồn ông vào chân tường. Nixon nguy hiểm hơn bao giờ hết khi ông dường
như không còn lựa chọn”.
Ngày 14-12-1972, từ Paris, Kissinger
trở lại phòng Oval, nơi các cộng sự và ông trở nên “diều hâu” hơn. Trong cuộc họp
đó Nixon quyết định “ném bom dày đặc và lần đầu tiên sử dụng liên tục B-52 trên
miền Bắc”. Ngày 16-12, Đại sứ W. Porter, Trưởng đoàn Đàm phán của Mỹ tại Paris,
đã gặp ông Xuân Thủy. Theo Kissinger, ông Xuân Thủy “đã đẩy sự kiêu căng của Lê
Đức Thọ lên một mức nữa. Thay vì dừng lại ở những vấn đề cụ thể, ông đã lịch sự
từ chối thảo luận về bất cứ vấn đề gì”. Cùng ngày, tại phòng Báo chí của Nhà Trắng,
Kissinger giải thích về các cuộc đàm phán đang bế tắc.
Sáng 18-12, Kissinger gửi thông điệp
cho Hà Nội, một mặt, buộc tội miền Bắc đã cố ý trì hoãn đàm phán, mặt khác đề
xuất nối lại đàm phán bằng cách quay lại các thỏa thuận đã đạt được vào cuối
vòng đàm phán đầu tiên được nối lại ngày 23 tháng 11, bao gồm cả những thay đổi
mà Lê Đức Thọ đã đồng ý. Kissinger ngỏ ý sẽ gặp Lê Đức Thọ bất kỳ lúc nào sau
ngày 26-12. Tướng Giáp gọi đây là một “tối hậu thư”.
Cũng trong chiều 18-12-1972, vào lúc
4 giờ 45 phút giờ Hà Nội, chiếc chuyên cơ vốn sử dụng để chở Hồ Chí Minh mang
ký hiệu BH195 đưa Lê Đức Thọ từ Hội nghị Paris về tới sân bay Gia Lâm. Hơn hai
giờ đồng hồ sau, khi Lê Đức Thọ đang ở trong nhà tắm, Tướng Giáp nhận được điện
thoại Trực ban báo tin có nhiều tốp B52 bắt đầu rời Guam và U-tapao. Liền đó là
những hồi còi báo động phá vỡ sự tĩnh lặng đợi chờ của Hà Nội. Ngay trong đêm
hôm đó, tất cả các sân bay quân sự xung quanh Hà Nội như Kép, Phúc Yên, Hòa Lạc…
đều bị phá hủy. Chiếc chuyên cơ BH 195 đậu ở Gia Lâm cũng bị bom B 52 phá hỏng
hoàn toàn. Đài tiếng nói Việt Nam bị ném bom.
Theo Tướng Giáp, vào lúc 20 giờ 20
phút ngày 18-12-1972, ông nhận được tin 4 phút trước đó, Tiểu đoàn tên lửa 59
đã bắn cháy chiếc B52 đầu tiên, xác chiếc B52G này rơi xuống xã Phù Lỗ, Đông
Anh, ngoại thành Hà Nội. Tướng Giáp mô tả: “Tin thắng trận xé toang bầu không
khí căng thẳng. Tổng Hành dinh náo nức được thấy con ngoáo ộp B52 không còn ‘bất
khả xâm phạm nữa’ trước những con ‘rồng lửa Thăng Long”. Lúc 4 giờ
39 phút sáng hôm sau, 19-12-1973, Tiểu đoàn tên lửa 77 bắn rơi chiếc máy bay thứ
hai.
Mỹ bắt đầu sử dụng B52 trong chiến
tranh Việt Nam từ giữa năm 1965. Phi vụ B52 đầu tiên ném bom miền Bắc diễn ra
ngày 12-4-1966 ở đèo Mụ Giạ, Quảng Bình. Tháng 5-1966, Trung đoàn tên lửa 238
được điều vào Vĩnh Linh để nghiên cứu đánh B52 và theo Tướng Giáp, 238 đã bắn
rơi chiếc B52 đầu tiên vào ngày 17-9-1967.
Chiếc B52 thứ hai, theo công bố của Bộ
Quốc phòng Việt Nam, bị dính tên lửa của Trung đoàn 263 ở Nghệ An, và sau đó
rơi xuống đất Nakhomphanom ngày 22-11-1972, cách Utapao 64 km. Đây cũng là chiếc
B52 đầu tiên mà người Mỹ công nhận có tổn thất. Theo Tướng Giáp: Từ năm 1969,
Liên Xô không viện trợ thêm một quả tên lửa nào650; khí tài cũng xuống cấp, buộc
bộ đội phòng không phải cải tiến rất nhiều mới đánh được. Đêm 20-12-1972, bộ đội
tên lửa hạ thêm “7 máy bay B52, 7 máy bay chiến thuật và một máy bay không người
lái”. Hà Nội càng tự tin.
Nhưng Tướng Giáp không chỉ nhận được
“tin chiến thắng”. Vào thời điểm ấy, ở khu vực Đông Nam Á, người Mỹ có tới 207
chiếc B-52 đang ở tư thế sẵn sàng ném bom: 54 B-52D đậu ở U-Tapao RTAFB,
Thailand; trong khi 153 chiếc khác gồm 55 B-52D và 98 B-52G đang ở căn cứ không
quân Andersen ở Guam.
Đêm 18-12-1972, Mỹ sử dụng tới 129
máy bay ném bom, được hộ tống bởi các máy bay chiến đấu F-4, F-105, máy bay
đánh chặn tên lửa SAM, máy bay làm nhiễu sóng rada… Người Mỹ quả đã chịu tổn thất
nặng nề khi ngay trong phi vụ đầu tiên, ba máy bay bị bắn rơi ngay bởi 68 quả
tên lửa SAM: hai B-52G và một B-52D. Hai B-52D khác bị trúng đạn hư hỏng nặng
phải đưa về sửa tại U-Tapao. Cũng trong đêm đó, một chiếc F-111 bị bắn hạ.
Trong đêm thứ hai, 93 chiếc B-52 khác
lại được đưa tới vùng trời miền Bắc, các cơ sở công nghiệp ở Thái Nguyên, Yên Viên
và ga Kinh Nỗ trở thành mục tiêu và nhanh chóng bị phá hủy. Hàng chục tên lửa
SAM được bắn lên nhưng chỉ làm hư hỏng một số máy bay. Các mục tiêu khác ở Yên
Viên, Ái Mỗ, Thái Nguyên, Bắc Giang và Hà Nội, tiếp tục bị B-52 cày nát trong
đêm thứ ba, ngày 20-12-1972, nhưng 4 B-52 đã bị bắn hạ với khoảng trên 30 quả
tên lửa SAM trong đó có một chiếc đã rơi tại Lào trên đường bay về Thailand.
Ngày 20-12, tại Paris, trong cuộc gặp đại diện Mỹ, Heyward Isham, ông Nguyễn Cơ
Thạch đã mạnh mẽ phản đối hành động của Nixon.
Những tổn thất này đã khiến cho Ban
tham mưu liên quân và Bộ tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ nao núng. Có những tiếng
nói muốn dừng cuộc “tàn sát” lại. Nhưng Nixon ra lệnh cho Đô đốc Moorer tiếp tục
cường độ oanh tạc và bắt vị tham mưu trưởng liên quân này phải đích thân chịu
trách nhiệm về kết quả của chiến dịch oanh tạc.
Đêm thứ Tư, 21-12-1972, 30 B-52 từ
U-Tapao vẫn được đưa vào vùng trời Hà Nội. Nhiều mục tiêu khác lại bị phá hủy
trong đó có kho Văn Điển và sân bay Quảng Tế. Nhưng, thêm hai B-52 bị bắn hạ bởi
SAM. Tên lửa SAM dường như chỉ có thể tập trung bảo vệ vùng trời Hà Nội. Những
ngày sau đó, các cuộc oanh kích chuyển sang đánh phá Hải Phòng. Không có một
chiếc máy bay nào bị bắn hạ thêm ở đây ngoại trừ một chiếc F-111 bị bắn rơi
trên bầu trời Kinh Nỗ.
Ngày 22-12, Mỹ đề xuất một cuộc gặp
giữa Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Tiến sĩ Kissinger vào ngày 3-1-1973. Nếu Hà
Nội đồng ý những điều khoản do phía Mỹ đưa ra, việc ném bom từ vĩ tuyến 20 sẽ
chấm dứt vào nửa đêm ngày 31-12. Nhưng ngày 23-12, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Cơ Thạch lại đọc một bài phản đối khác.
Ngày 22-12-1975, một cuộc ném bom được
nói là nhắm vào sân bay Bạch Mai và căn cứ Bộ chỉ huy của lực lượng không quân
Bắc Việt Nam, nhưng toàn bộ lượng bom trên một chiếc B-52 đã rơi vào bệnh viện
Bạch Mai và khu dân cách đó hơn một cây số. Ngày 23-12-1975 và các ngày sau đó,
các oanh tạc cơ tiếp tục chiến thuật tránh Hà Nội để bảo toàn lực lượng. Cho đến
đêm 26-12-1972, 120 máy bay ném bom gần như đồng thời oanh tạc khu vực Thái Nguyên,
Hà Nội và cả Hải Phòng: 78 B-52 bay từ căn cứ Andersen; 42 chiếc khác bay từ
U-Tapao, theo sau chúng là 113 máy bay hộ tống các loại, cùng lúc tràn ngập
vùng trời miền Bắc.
Khoảng 250 tên lửa SAM đã được bắn. Một
B-52 bị bắn hạ gần Hà Nội, một chiếc khác bị bắn hỏng cố bay về U-Tapao nhưng
đã bị rơi ngay gần đường băng. Tướng Giáp kể: “Có lúc căn hầm kiên cố của Tổng
Hành dinh rung chuyển như động đất”. Đêm ấy, vào lúc 22 giờ 47 phút, B52 đã rải
bom xuống Khâm Thiên và hơn 100 điểm dân cư ở Hà Nội, Hải Phòng và nhiều nơi
khác trên miền Bắc.
Trong ngày 26-12-1972, ngày mà lượng
bom B52 được thả xuống miền Bắc ác liệt nhất, Kissinger nhận được “thông điệp”
từ Lê Đức Thọ. Tuy bác bỏ “ngôn ngữ tối hậu thư” của Washington nhưng Hà Nội đã
đồng ý với các điều khoản đưa ra từ phía Mỹ: nếu Mỹ ngừng ném bom, các cuộc họp
cấp chuyên gia có thể nối lại trong khoảng thời gian sớm nhất; vì lý do sức khỏe
Lê Đức Thọ không thể tham dự cuộc họp nào trước ngày 8 tháng Giêng.
Ngày 27-12, Mỹ đồng ý nối lại các cuộc
gặp cấp chuyên gia vào ngày 2-1-1973; Lê Đức Thọ và Kissinger sẽ gặp nhau ngày
8-1; Mỹ sẽ ngừng ném bom trong vòng 36 giờ khi nhận được lời khẳng định cuối
cùng về các bước thủ tục này. Theo Kissinger: “Hà Nội trả lời ngay trong vòng
24 tiếng - một kỳ tích về thời gian cần thiết để chuyển tin từ Paris; chuyển đến
Paris và sự khác nhau về múi giờ”. Kissinger nói: “Chúng tôi đã thắng cược”.
B-52 tiếp tục oanh tạc cho tới đêm
29-12-1972. Trong suốt “12 ngày đêm” ấy, người Mỹ đã huy động 741 lượt B-52 ném
bom miền Bắc Việt Nam, 729 phi vụ được coi là thành công, 15.237 tấn bom đã được
dội xuống 18 mục tiêu kinh tế và 14 mục tiêu quân sự; các loại phi cơ khác cũng
đã dội xuống đầu người dân Việt Nam thêm 5.000 bom. Cũng trong thời gian đó,
212 phi vụ B-52 đánh phá các căn cứ Quân Giải phóng miền Nam. Mười máy bay B-52
bị bắn hạ trên vùng trời Việt Nam, 5 chiếc khác bị bắn hỏng sau đó bị rơi ở Lào
và Thái Lan.
Những hình ảnh tang thương, đặc biệt
là cảnh hủy diệt khu dân cư Khâm Thiên và bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội đã làm cho
thế giới giận dữ. Nixon bị nguyền rủa từ trong nước cho tới khắp nơi trên Thế
giới. Chính phủ Thuỵ Điển so sánh chính quyền Nixon với bọn phát xít. Chính phủ
Đan Mạch, Phần Lan, Hà Lan và Bỉ cũng lên án các vụ ném bom. B52 đã giết chết
hơn 1.600 thường dân Việt Nam trong khi cả hai phía đều tuyên bố là chiến thắng.
Đêm 28-12-1972, Tướng Giáp duyệt bản
Thông cáo Chiến thắng do Cục Tuyên huấn dự thảo, theo đó: “Chỉ trong 12 ngày
đêm, quân và dân ta đã bắn rơi 77 máy bay hiện đại, trong đó có 33 máy bay B52;
5 F111; 24 phản lực; 3 máy bay trinh sát; 1 máy bay lên thẳng; tiêu diệt và bắt
sống hàng trăm giặc lái Mỹ”. Sáng 29-12-1972, các đài báo cho
phát bản Thông cáo nói trên và Báo Quân Đội Nhân Dân đăng xã luận gọi “chiến
công vĩ đại” này là “trận Điện Biên Phủ trên không”.
Tướng Giáp cho rằng chiến thắng B52
đã làm cho “hy vọng thương lượng trên thế mạnh của Mỹ sụp đổ theo”.
Ông dẫn chứng bằng bức thư Nixon gửi cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thúc ép phải
ký Hiệp định Paris. Tuy nhiên, bức thư mà Tướng Giáp trích dẫn trong cuốn sách
của ông đã được Nixon viết một ngày trước khi cuộc ném bom Hà Nội diễn ra.
Hiệp Định Paris 1973
Việc Nixon thúc ép Sài Gòn chấp nhận
bản Hiệp định của Kissinger diễn ra từ nửa cuối tháng 10-1972. Trong bức thư do
Tướng Haig mang tới Sài Gòn vào ngày 19-12-1972 này, theo Kissinger, đích thân
Nixon viết thêm vào cuối thư: “ Cho phép
tôi nhấn mạnh lần cuối rằng Tướng Haig không đến Sài Gòn để thương lượng với
Ngài. Đã đến lúc chúng ta cần thể hiện sự đoàn kết trong đàm phán với kẻ thù của
chúng ta, và bây giờ Ngài cần phải quyết định xem Ngài muốn tiếp tục giữ mối
quan hệ đồng minh của chúng ta hay Ngài muốn tôi tìm kiếm một giải pháp với kẻ
thù chỉ để phục vụ lợi ích của Mỹ mà thôi”.
Thái độ can đảm của Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu đã làm cho những sứ giả của Nixon khâm phục. Ngày 20-12-1972, ông Thiệu
mới trao cho Haig bức thư mà Kissinger coi như "một lời từ chối đề nghị của
Nixon”. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rút lại sự phản đối đối với các điều khoản
chính trị, nhưng không chấp nhận các lực lượng Bắc Việt Nam tiếp tục có mặt ở
miền Nam. Sự “can đảm” đã khiến ông phải trả giá. Ngày 2-1-1973, trong một cuộc
họp kín, với tỷ lệ 154/75, khối nghị sĩ Dân Chủ tại Hạ viện đã thông qua việc cắt
toàn bộ quỹ dành cho hoạt động quân sự ở Đông Dương; tỷ lệ này trong nhóm nghị
sĩ Dân chủ tại Thượng viện là 36/12.
Ngày 8-1-1973, khi Kissinger gặp Lê Đức
Thọ ở Gif-sur-yvette, các nhà báo có mặt khắp nơi, theo mô tả của Kissinger:
“Lê Đức Thọ luôn từ chối bắt tay tôi trước mặt công chúng. Bề ngoài, có vẻ
không có người Việt Nam nào mở cửa chào đón tôi. Cánh cửa đàm phán chỉ đơn giản
được mở bởi một người nào đó bên trong. Điều đó đã tạo ra nhiều câu chuyện trên
các phương tiện truyền thông về một không khí lạnh nhạt sau các cuộc ném bom của
chúng ta. Trên thực tế, mối quan hệ bên trong, ngoài con mắt theo dõi của báo
giới, lại khá tốt đẹp. Tất cả người Bắc Việt đều xếp hàng chào đón chúng tôi.
Lê Đức Thọ rất nhanh nhẹn, hệt như phong cách một doanh nhân trong ngày đầu
tiên, đẩy mạnh sự thân mật đó khi chúng tôi bắt đầu đạt tới thỏa hiệp”.
Ngày 9-1-1973, Lê Đức Thọ chấp nhận đề
xuất ngày 18-12-1973 của phía Mỹ. Kissinger viết: “Ông ta đồng ý với bản thảo
khi nó giữ đúng với lập trường ngày 23-11-1973 tại cuối phiên họp đầu tiên sau
bầu cử, trong đó có cả 12 điểm thay đổi ông ta đã thừa nhận. ông ta đồng ý việc
chúng tôi thành lập khu vực phi quân sự, điều mà vào tháng 12-1972, ông ta đã cứng
rắn bác bỏ”. Ngày 13-1-1973, các nhà đàm phán Mỹ và Việt Nam ngồi xen kẽ với
nhau, ăn cơm; Lê Đức Thọ và Kissinger nâng cốc.
Tướng Haig được phái đi Sài Gòn vào tối
hôm sau, 14-1 với tối hậu thư nhấn mạnh Mỹ sẽ ký Hiệp định mà không có Thiệu nếu
cần thiết. Nhưng Kissinger viết: “Chúng tôi vẫn không nhận được sự đồng ý của
con người nhỏ bé nhưng gan góc ở Sài Gòn - Tổng thống Thiệu. Nixon quyết định
thuyết phục”. Mãi cho đến ngày 20-1-1973, sau khi có thêm áp lực của hai thượng
nghị sỹ từng ủng hộ Sài Gòn, ông Thiệu mới đồng ý ký vào Hiệp định.
Ngày 15-1-1973, Nhà Trắng tuyên bố ngừng
ném bom. Ngày 23-1, Kissinger và Lê Đức Thọ gặp lại ở Paris để “hoàn tất Hiệp định”.
Cuộc họp bắt đầu lúc 9 giờ 35 phút, ông Lê Đức Thọ đưa ra “điều khoản cuối
cùng”, yêu cầu phía Mỹ đảm bảo một cách chắc chắn về việc sẽ viện trợ kinh tế cho
miền Bắc. Kissinger cho rằng điều đó chỉ được thảo luận thêm khi Hiệp định đã
được ký kết. Lúc 12 giờ 45 phút ngày 23-1-1973, cả hai ký tắt vào các văn bản rồi
rời phòng họp, ra ngoài bắt tay nhau trước ống kính phóng viên.
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Chấm dứt
Chiến tranh Việt Nam chính thức được 4 bên ký kết ở Paris. Nhưng hòa bình đã
không thực sự diễn ra sau đó.
*********************************************************************************************
Tác giả Huy Đức - Trương Huy San sinh
năm 1962 tại Hà Tĩnh nhập ngũ tháng 3-1979 học viên trường Sỹ quan Hoá Học
(1980-1983) chuyên gia quân sự ở Campuchia (1984-1987) phóng viên báo Tuổi Trẻ,
Thanh Niên, Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, và Sài Gòn Tiếp Thị (1988-2009) blogger của
trang Osinblog (2006-2010) Humphrey Fellow về phân tích chính sách tại Đại học
Maryland (2005-2006) Nieman Fellow về phân tích chính trị tại Đại học Harvard
(2012-2013) Liên hệ tác giả qua thư điện tử osinbook@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét