Phần III : Dấu ấn Nguyễn Văn Linh
Chương XV : Tướng Giáp
Mưu lược và quyết liệt không chỉ
trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi
Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh
thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân
danh Đảng, Tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với
tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông.
Vụ Án “Năm Châu - Sáu Sứ”
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Trung ương chỉ định về ứng cử đại biểu đi dự
Đại hội tại Đảng bộ Nghệ Tĩnh.Cuối tháng 4-1991, ông vào Vinh dự họp với Đoàn đại
biểu Tỉnh. Tới nơi thì đã quá trưa. Đợi vị tướng già cơm nước xong, Bí thư Tỉnh
ủy Nghệ Tĩnh Nguyễn Bá mới trao tận tay bức điện “khẩn tuyệt mật” của Ban Bí
thư do ông Nguyễn Thanh Bình ký. Không được phép họp với Đoàn, Tướng Giáp bị
yêu cầu phải trở ra Hà Nội ngay trong chiều hôm đó.
Năm ấy Tướng Giáp đã 80 tuổi. Đoạn đường
Vinh - Hà Nội tuy chỉ hơn 300km nhưng bụi bặm và dằn xóc. Tướng Giáp trở về
phòng, viết mấy dòng cáo lỗi gửi Đoàn đại biểu Nghệ Tĩnh rồi lại lên xe về Hà Nội,
nơi ông sẽ phải ra trước Hội nghị Trung ương 12, đối diện với những cáo buộc
chính trị mà về sau được gọi là vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”.
Tại Hội nghị Trung ương 12, Khóa VI,
ông Nguyễn Đức Tâm, Trưởng Ban Tổ chức, thay mặt Bộ Chính trị báo cáo với Ban
Chấp hành Trung ương một văn bản tuyệt mật nói rằng: Một vụ bè phái vi phạm
nguyên tắc Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao đang diễn ra. Những
người tham gia bao gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà, cùng một số cán bộ cao cấp
khác.
Thứ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách an
ninh, Trung tướng Võ Viết Thanh, nhớ lại: “Nghe ông Tâm nói, có cảm giác như
đang có một âm mưu đảo chính để đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên làm chủ tịch
nước sau đó thay ông Linh làm tổng Bí thư; đưa Trần Văn Trà lên làm bộ trưởng Bộ
Quốc phòng. Thời gian trước Hội nghị Trung ương 12, ông Trà bị triệu tập ra Hà
Nội và bị giữ lại ở Nhà khách số 8 Chu Văn An. Văn bản tuyệt mật này được phổ
biến tới thường vụ các tỉnh, thành, bằng cách cho đọc nguyên văn nhưng bị cấm
sao chép”.
Tướng Đồng Sỹ Nguyên, ủy viên Bộ
Chính trị Khóa VI, nói: “Lật đổ là một câu chuyện bịa đặt. Ông Giáp không chỉ
là một đại tướng mà xứng đáng là một đại nguyên soái. Một người không chỉ coi
trọng sinh mạng binh sỹ mà còn đặt danh dự của tổ quốc lên trên. Ông là một người
thận trọng. Nhân vụ Sáu Sứ, họ còn lật lại hồ sơ vụ ‘chống Đảng năm 1967’, đưa
ra tài liệu cũ của Lê Đức Thọ, đây cũng là một vụ án được dựng lên”. Ông Võ Viết
Thanh kể thêm: “Tại hai Hội nghị 12 và 13 của Ban Chấp hành Trung ương, nhiều vị
tướng trong Quân đội hết sức bức xúc, đứng lên phát biểu bảo vệ Tướng Giáp. Cụ
Võ Nguyên Giáp cay đắng: Đến một vị tướng đã đánh thắng Điện Biên Phủ mà người
ta vẫn vu cho là con nuôi của mật thám Pháp”.
Gần tới ngày Đại hội, một hôm vào khoảng
9 giờ đêm, Bộ trưởng Nội vụ Mai Chí Thọ triệu tập một cuộc họp kín gồm có các
thứ trưởng: Cao Đăng Chiếm, Phạm Tâm Long, Bùi Thiện Ngộ, Võ Viết Thanh. Ông
Mai Chí Thọ nói: “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh giao nhiệm vụ cho Bộ Công an làm
rõ sai phạm của anh Giáp và anh Trà để xử lý cả về mặt Đảng và Nhà nước. Bộ chỉ
đạo anh Võ Viết Thanh đảm nhiệm việc này”. Cả bốn vị thứ trưởng nghe đều phân
vân, lo lắng. Ông Võ Viết Thanh nói: “Đề nghị Bộ trưởng trình bày lại với Tổng
Bí thư đây là những người có công với nước, nếu có sai thì Ủy ban Kiểm tra
Trung ương xác minh làm rõ còn khi đã chuyển công an thì phải có dấu hiệu phạm
tội”. Mai Chí Thọ dứt khoát: “Chúng ta phải thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư”.
Ông Võ Viết Thanh nói tiếp: “Nếu phải
điều tra, tôi đề nghị nên giao cho anh Cao Đăng Chiếm hoặc anh Bùi Thiện Ngộ vì
hai anh có kinh nghiệm trong ngành hơn tôi. Tôi không từ chối, nhưng tôi biết bản
báo cáo của đồng chí Nguyễn Đức Tâm lấy nguồn tin từ một số người không tốt
trong Cục II, Bộ Quốc phòng. Tôi cũng biết người đẩy ra vụ này là Đoàn Khuê. Cá
nhân tôi với Cục trưởng Quân báo Tư Văn và Cục phó Vũ Chính có ý kiến khác nhau
trong một số việc như: lợi dụng nghiệp vụ đi buôn lậu; tổ chức cài đặc tình vào
nội bộ… Bây giờ nếu tôi làm vụ này nữa thì rất căng với Cục II”. Mai Chí Thọ gắt:
“Ông phụ trách an ninh, không làm thì ai làm”. Võ Viết Thành đành phải: “Tôi
xin chấp hành”.
Ông Võ Viết Thanh kể: “Tôi bay vào
Sài Gòn. Anh em an ninh đã có đủ tư liệu, vấn đề là tình hình nội bộ rất căng
vì có tác động từ cấp cao. Nhiều người khuyên tôi khi điều tra không nên làm
khác báo cáo của Nguyễn Đức Tâm. Người gần gũi nhất là Thiếu tướng Trần Văn
Danh cũng nói là có người khuyên như vậy. Ông Danh gọi tôi tới, tôi hỏi: ‘Lời
khuyên này xuất phát từ đâu anh Ba?’. Ba Trần, tên thường gọi của Tướng Trần
Văn Danh, nói: ‘Ở cấp rất cao’. Tôi nói: ‘Tôi đề nghị anh Ba trả lời họ, tôi
đang được giao một công việc mà tôi không thể nào làm trái đạo đức và pháp luật’.
Ba Trần nghe bắt tay, không ngờ anh chỉ hỏi thế để thăm dò nhưng anh là người ủng
hộ tôi làm đúng”.
Ông Võ Viết Thanh kể tiếp: “Ngày
14-5-1991, tôi ra lệnh bắt khẩn cấp Nguyễn Thị Sứ. Anh em thi hành không bắt tại
nhà vì sợ động mà bắt bí mật, đưa về 258 Nguyễn Trãi. Vừa vào trại, Sáu Sứ hỏi:
‘Các anh ở phía nào?’. Anh em dằn mặt: ‘Chị không được phép hỏi như thế, chúng
tôi là cơ quan an ninh, yêu cầu chị nói hết’. Sáu Sứ trả lời: ‘Tôi là người Cục
II, yêu cầu được nói chuyện điện thoại với Tư Văn, Vũ Chính’. Anh em An ninh
nói: ‘Chị là người phạm pháp, chị không được phép gặp ai cả’. Trong một ngày
Sáu Sứ khai hết”.
Không hề có một tổ chức nào do cụ
Giáp đứng đầu như báo cáo của Nguyễn Đức Tâm đề cập. Theo ông Võ Viết Thanh,
Sáu Sứ khai bà được Vũ Chính cấp tiền, cấp xe và đi gặp vị tướng nào, nói gì là
đều theo chỉ đạo của Cục II. Thông qua một người tên là Năm Châu, từng công tác
chung với ông Thanh Quảng, nguyên là thư ký của Tướng Giáp, Sáu Sứ được đưa tới
nhà Võ Nguyên Giáp cùng một số cựu chiến binh. Hôm Sáu Sứ đến, cụ Giáp đang ăn,
nghe có đoàn Cựu chiến binh, cụ dừng bữa cơm để tiếp. Sáu Sứ mang theo một giỏ
trái cây vào tặng rồi xin cụ Giáp cùng chụp ảnh với Đoàn. Toàn bộ cuộc gặp chỉ
có vậy nhưng Sáu Sứ báo cáo: “Cụ Giáp đã đồng ý với kế hoạch”. Rồi theo ông Võ
Viết Thanh: “Băng ghi âm cuộc nói chuyện của Sáu Sứ ở nhà Tướng Giáp nghe không
rõ nhưng Cục II vẫn xào nấu thành một bản báo cáo, theo đó: Đang có một vụ đảo
chính, một vụ bè phái trong Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao
trước Đại hội VII do Tướng Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà cùng một số cán bộ cao
cấp khác tiến hành. Bản báo cáo này trở thành cơ sở để Trưởng Ban Tổ chức Nguyễn
Đức Tâm báo cáo trước Hội nghị Trung ương 12 về Tướng Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, Chánh
Văn phòng Tướng Giáp, từ Hội nghị Trung ương 12 về nhà nghỉ trưa, Tướng Giáp hỏi:
“Cậu có nhớ ai tên là Năm Châu từng ở Nam Bộ ra đây gặp mình không?”. Ông Huyên
nhắc lại sự việc xong, Tướng Giáp ăn cơm rồi đi ngủ. Đến cận giờ họp buổi chiều,
ông Huyên vào phòng thấy Tướng Giáp vẫn ngáy khò khò, ông Huyên hỏi: “Việc đang
thế này mà anh cũng ngủ được à?”. Tướng Giáp cười: “Cây ngay không sợ chết đứng”.
Trong khi đó, ngay sau khi Sáu Sứ bị
bắt vào ngày 15-5-1991, theo ông Võ Viết Thanh: Cục II rúng động, Cục trưởng Tư
Văn đổ bệnh. Trong ngày ông Võ Viết Thanh cầm bản cung của Sáu Sứ bay ra Hà Nội,
17-5-1991, Tướng Lê Đức Anh viết một bức thư cực ngắn: “Kính gửi: Bộ Chính trị.
Tôi xin không ứng cử vào Quốc hội khóa IX. Xin cám ơn Bộ Chính trị. Kính! Lê Đức
Anh”. Do căng thẳng, Tướng Lê Đức Anh ngay sau đó bị đột quỵ. Bác sỹ Vũ Bằng Đình,
người trực tiếp cấp cứu, nói: “Ông Lê Đức Anh bị xuất huyết dạ dày, huyết áp tụt
xuống bằng 0, hồng cầu chỉ còn một triệu. May mà cấp cứu kịp”.
Theo ông Võ Viết Thanh: “Ra Hà Nội,
tôi làm báo cáo đưa ông Mai Chí Thọ đề nghị Bộ trưởng ký. Ông Mai Chí Thọ nói:
‘Cậu ký luôn, gửi và trực tiếp báo cáo anh Linh’. Ngay chiều hôm đó, Chánh Văn
phòng Trung ương Hồng Hà xếp lịch gặp Tổng Bí thư. Nghe tôi báo cáo xong, ông
Linh không nói gì. Nhưng, sáng hôm sau thì nhận được ‘điện mật’ của Văn phòng
yêu cầu các nơi ngưng phổ biến và gửi trả văn bản do Nguyễn Đức Tâm ký về Văn
phòng Trung ương. Sau đó, Trung ương không có một lời nào nói lại với Tướng
Giáp, còn Tướng Trần Văn Trà thì vẫn bị giữ lại ở số 8 Chu Văn An”. Theo ông Võ
Viết Thanh: “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã không đưa kết luận về vụ Sáu Sứ ra
báo cáo trước Hội nghị Trung ương và ngay cả các ủy viên Bộ Chính trị cũng
không mấy ai biết”. Thái độ của Tổng Bí thư như một tín hiệu để ngay lập tức
ông Võ Viết Thanh nhận được đòn “đánh dưới thắt lưng” của Cục II.
Theo ông Võ Viết Thanh, ngày
23-6-1991, khi đại biểu đã được triệu tập về Hà Nội: “Trước phiên họp cuối cùng
của Hội nghị trù bị, Hồng Hà, Chánh Văn phòng Trung ương đưa tôi miếng giấy,
ghi: ‘Đề nghị đồng chí Võ Viết Thanh đến giờ giải lao ra gặp Bộ Chính trị và
Ban Bí thư có việc riêng’. Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy
Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ.
Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi
thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung. Trước hết, xin
chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí là một cán bộ cao cấp
còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được
một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một, ngay sau giải phóng, đồng chí có
cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích;
hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết.
Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung
ương khóa VII”.
Ông Võ Viết Thanh nói: “Tôi hết sức bất
ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được.
Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khóa, rút súng ra bắn
chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại
hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận”. Cho dù giữ mình để bảo vệ Đại hội,
tương lai chính trị của ông Thanh đã coi như khép lại. Ông Võ Viết Thanh nói:
“Nếu tôi cứ nghe lời khuyên, kết luận giống như bản báo cáo của Nguyễn Đức Tâm,
thì tôi sẽ được thăng chức, đề bạt nhưng rồi tôi lại phải dấn vào bước thứ hai
là ra lệnh bắt oan Tướng Trà và Tướng Giáp. Làm thế, thì lương tâm sẽ giết dần,
giết mòn tôi”.
Năm ấy, Tướng Giáp vừa tròn 80 tuổi.
Ông không nằm trong bất cứ cơ cấu nhân sự nào, vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”, nếu
thành, chỉ có thể hạ bệ uy tín của ông trong Đảng. Khi Võ Nguyên Giáp đã là Đại
tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, Lê Đức Anh chỉ mới là một cán bộ ở cấp tiểu đoàn.
Sự mặc cảm trước uy danh của Tướng Giáp chỉ có thể được tích tụ thông qua hai
người đã cất nhắc Lê Đức Anh: Lê Duẩn và, đặc biệt là, Lê Đức Thọ.
“Cách mạng miền Nam”
Mối quan hệ giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên
Giáp thoạt đầu được mô tả là khá thân thiện. Tướng Giáp kể: “Lúc mới ra Bắc,
anh Lê Duẩn thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc. Anh đã nhiều
lần nói với tôi, năm 1940 nhờ có chị Thái nên anh thoát khỏi án tử hình”.
Câu chuyện về “chị Thái” mà ông Lê Duẩn
đề cập trên đây xảy ra năm 1940, trong phiên tòa xử những người lãnh đạo “Nam Kỳ
khởi nghĩa”, ông Lê Duẩn và Nguyễn Thị Minh Khai đứng đối diện trong song sắt
trước tòa. Minh Khai viết một bức thư nhỏ, gấp lại rồi ném cho Lê Duẩn, chẳng
may thư rơi xuống gần người lính canh ngục. Nguyễn Thị Quang Thái đứng gần đó,
nhanh chóng nhặt và nuốt ngay lá thư.
Khi phân công trong Đảng, Hồ Chí Minh
nói: “Việc quân sự giao cho chú Giáp”. Cụ Hồ cũng đã từng cử Võ Nguyên Giáp
sang Trung Quốc học quân sự. Nhưng trên đường đi, Chiến tranh Thế giới II đưa
người Pháp ở chính quốc vào thế thua, Hồ Chí Minh thấy thời cơ tới nên gọi ông
trở lại. Tướng Giáp vì thế chưa từng qua bất cứ một trường lớp nhà binh nào. Có
lẽ, tư duy quân sự của ông hình thành trong những năm dạy sử.
Ngày 22-12-1944, tại Việt Bắc, Võ
Nguyên Giáp đứng ra thành lập Đội Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam với ba
mươi bốn chiến sỹ trong đó có ba nữ. Ngay sau khi thành lập, Đội
Tuyên truyền Giải phóng quân đã đánh thắng hai trận ở Nà Ngần và Phai Khắt, thuộc
tỉnh Cao Bằng. Khi Nhật đảo chính Pháp, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
đã mở rộng hoạt động quân sự từ Cao Bằng tới Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày
15-5-1945, tại Chợ Chu, Thái Nguyên, lực lượng này đã hợp nhất với Cứu Quốc
quân, lập ra Việt Nam Giải phóng quân.
Mãi tới tháng 5-1940, Võ Nguyên Giáp
mới sang Trung Quốc gặp Hồ Chí Minh và tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương trong
khi năm 1939 Lê Duẩn đã được bổ sung vào Thường vụ Trung ương Đảng. Tuy nhiên,
trong thời gian Lê Duẩn gần như mờ nhạt ở miền Nam thì Võ Nguyên Giáp đã “lừng
lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Theo ông Hoàng Tùng: “Khi mới từ miền Nam
ra, cả Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đều không thấy thoải mái khi ngồi cùng Tướng
Giáp”. Cho dù lịch sử gắn bó giữa Lê Đức Thọ và Lê Duẩn bắt đầu bằng một cuộc đụng
độ. Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, Lê Đức Thọ đã đóng một vai trò quan
trọng trong quy trình cán bộ đưa Lê Duẩn đạt đến đỉnh cao quyền lực.
Về phía mình, ông Giáp cũng đã rất giữ
gìn, đặc biệt, với ông Lê Duẩn. Năm 1956, Trung ương Đảng thừa nhận sai lầm
trong cải cách ruộng đất, Trường Chinh xin từ chức, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là
chủ tịch Đảng kiêm thêm chức vụ tổng bí thư. Theo Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, lúc
đó đang là trợ lý về Đảng của Hồ Chí Minh: “Tháng 7-1956, tôi đề nghị Bộ Chính
trị cử anh Ba làm phó tổng bí thư để dễ làm việc, nhưng anh đã từ chối và nói,
nên chờ đại hội quyết định. Tại hội nghị Bộ Chính trị bàn việc chuẩn bị đại hội,
khi được đề nghị làm trưởng ban chuẩn bị Báo cáo Chính trị, anh cũng từ chối và
nói, ‘đã mười năm không ở miền Bắc, chủ trì chuẩn bị báo cáo e khó khăn, vì vậy
đề nghị hai đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp tham gia’. Cuối cùng Bộ
Chính trị đề nghị Bác làm trưởng ban, anh Ba làm phó”.
Ông Hoàng Tùng, khi đó là chánh Văn
phòng Trung ương Đảng, kể: “Trong khoảng từ tháng 10-1956 đến tháng 7-1957, tôi
được phân công giúp ông Giáp chủ trì hội nghị sửa sai. Khi Bác kiêm tổng bí thư
thay Trường Chinh, ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Võ Nguyên Giáp được cử giúp
Bác giải quyết các công việc thường vụ”. Thời gian ấy, theo ông Hoàng Tùng,
không khí sinh hoạt trong Bộ Chính trị diễn ra khá tế nhị, người cố gắng che giấu
ý muốn được Hồ Chí Minh chọn trao chức tổng bí thư, người hoạt động khá rốt ráo
cho tham vọng ấy. Ông Hoàng Tùng kể: “Lê Đức Thọ gặp không ít đàn em gợi ý thẳng,
‘giờ đến lượt tao’. Những năm 1945, 1946, thế Lê Đức Thọ lớn lắm, chỉ sau Hồ
Chí Minh, Trường Chinh. Bác cử Lê Đức Thọ vào Nam cũng có ý không để hai ‘con hổ’
Trường Chinh, Lê Đức Thọ gần nhau. Nhưng khi Bác lấy phiếu thăm dò, không ai đề
cử Lê Đức Thọ cả. Trong bốn ứng cử viên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,
Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn cao phiếu hơn hẳn”.
Nhưng, đấy là những gì diễn ra trong
năm 1960 tại Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam, sau khi “đường lối cách mạng
miền Nam” ngã ngũ.
Ngày 6-7-1956, hai tuần trước hạn thống
nhất hai miền Nam Bắc theo Hiệp định Geneva, Hồ Chí Minh có thư “gửi đồng bào cả
nước”, chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của chúng ta là kiên quyết tiếp tục đấu
tranh thi hành Hiệp định Geneva, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập
và dân chủ bằng phương pháp hòa bình”. Ngày 9-7-1956, trong một
cuộc mít tinh tổ chức tại Hà Nội, Tướng Giáp có bài phát biểu dài diễn giải
tinh thần bức thư ngày 6-7-1956 của Hồ Chí Minh, cho rằng: “Chủ
trương của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình, và chúng
ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống
nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hòa bình”.
Cũng trong thư đề ngày 6-7-1956, Hồ
Chí Minh còn đưa ra sáng kiến: “Lập lại quan hệ bình thường và quyền tự do đi lại
giữa hai miền, tạo điều kiện cho các đoàn thể chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội
ở miền Bắc và miền Nam được liên lạc với nhau. Mở hội nghị hiệp thương gồm đại
biểu của hai miền để bàn về vấn đề tổng tuyển cử tự do nhằm thống nhất nước nhà
trên cơ sở Hiệp nghị Geneva”.
Đây không chỉ là quan điểm của Tướng
Giáp hay của Hồ Chí Minh mà là sách lược hòa hoãn của phe xã hội chủ nghĩa đứng
đầu là Liên Xô nhằm giải quyết các vấn đề nội bộ sau khi Khrushchev thay thế
Stalin chết ba năm trước đó. Thời gian đó, khi soạn Đề Cương Cách
Mạng Miền Nam ở Sài Gòn, Lê Duẩn cũng cho rằng: “Đường lối tranh đấu của chúng
ta cũng không thể ra ngoài đường lối hòa bình được. Chính đường lối tranh đấu
hòa bình ấy mới tạo được lực lượng chính trị mạnh mẽ để chiến thắng âm mưu gây
chiến và chính sách tàn bạo của Mỹ-Diệm”. Theo ông, thì hòa bình
chính là “nguyện vọng thiết tha của nhân dân miền Nam”.
Trong khi Tướng Giáp phân tích:
“Chúng ta phải nhớ rằng: thế giới ngày nay chiến tranh có khả năng tránh khỏi
nhưng nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại vì chủ nghĩa đế quốc vẫn tồn tại… đế quốc
Mỹ đã vào miền Nam cho nên nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại ngay trên đất nước
ta”. Thì quan điểm của ông Lê Duẩn vẫn là: “Việc thống nhất nước
Việt Nam ta bằng phương pháp hòa bình có thể thực hiện được… Không có lý do gì
mà gây chiến tranh… Nhân dân cả hai miền chống lại âm mưu chia xẻ và gây chiến
của Mỹ-Diệm, đi đến hiệp thương, thương lượng giữa hai miền để hòa bình, thống
nhất đất nước”.
Tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương 8
khẳng định: “Kẻ thù cụ thể trước mắt của chúng ta hiện nay là đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai”. Hội nghị nhấn mạnh: “Muốn thống nhất nước nhà điều cốt yếu là phải
ra sức bảo vệ miền Bắc đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam”. Tháng 6-1956, Bộ Chính trị cũng đã họp và ra nghị quyết xác định
nhiệm vụ cách mạng miền Nam là chống đế quốc Mỹ với phương châm: “Đấu tranh
chính trị không có nghĩa là không dùng hình thức vũ trang tự vệ trong hoàn cảnh
nhất định”.
Từ tháng 3-1957, sau Nghị quyết 12 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân đội miền Bắc bắt đầu “thời kỳ xây dựng
chính quy hiện đại”. Chủ trương “giải trừ quân bị” bắt đầu được thực hiện. Nhiều
tướng lĩnh quân đội đã được chuyển sang làm kinh tế. Ngay cả Đại tướng Nguyễn
Chí Thanh cũng được cử vô Quảng Bình để làm “gió Đại Phong”. Bút Tre đã làm
thơ: “Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh/ Anh về phân bắc, phân xanh đầy đồng”.
Ngày 4-6-1957, máy bay chở ông Lê Duẩn
đáp xuống sân bay Gia Lâm sau một hành trình dài. Thời gian đầu, Lê Duẩn “chưa
nhận một chức vụ công khai gì”, ông ở chung nhà khách với ông Phan Văn Đáng,
cũng vừa từ Xứ ủy Nam Bộ ra. Hai người vẫn thường “qua mặt” bảo vệ, lấy xe đạp
đi chơi. Bảo vệ biết mà không dám ngăn, đành phải tháo van xì hơi và có lần vội
quá châm kim cho thủng lốp. Hai người cũng đã từng chen chúc lấy “vé hạng chót”
ở rạp Hồng Hà, đứng bám cột kèo nhà hát, coi cải lương.
Trước khi ông Lê Duẩn ra Hà Nội, đấu
tranh vũ trang đã được những người soạn thảo Nghị quyết 15 coi như là con đường
không thể tránh. Ông Hoàng Tùng kể: “Suốt mùa xuân năm 1957, tôi cùng Trần
Quang Huy đi Đồ Sơn chuẩn bị Đề Cương Cách Mạng Miền Nam. Chúng tôi nêu lên
phương hướng: không thể hòa bình mà phải đương đầu đấu tranh giải phóng Miền
Nam”. Tuy nhiên, ông Hoàng Tùng thừa nhận: “Nhờ có thời gian lăn lộn ở chiến
trường, Lê Duẩn là người phát triển, hoàn chỉnh Nghị quyết 15”.
Theo ông Hoàng Tùng: “Khi ấy, Bộ
Chính trị không có ảo tưởng hòa bình, nhưng phát biểu công khai thì phải thế.
Bác cũng không nghĩ thế, nhưng nếu để lộ ra, Trung Quốc và Liên Xô sẽ rầy rà
mình”. Nhưng, theo ông Hoàng Tùng, khi Lê Duẩn vừa ra Bắc, ông chưa quen với
cách mà các nhà lãnh đạo ở Hà Nội phải đối phó với “hai ông anh” của mình, thấy
tranh cãi về Nghị quyết 15 như thế, đến giờ giải lao, ông nói với tôi: “Hòa
bình vui vẻ rồi, họ muốn miền Nam chết, họ bỏ rồi”. Hòa hoãn không chỉ thể hiện
trên ngôn ngữ như ông Hoàng Tùng nói vì năm 1958, Sư đoàn 332 vẫn bị giải thể,
hai mươi vạn quân thường trực được chuyển đi làm kinh tế.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Khi từ
miền Nam ra Trung ương, anh (Lê Duẩn) nói, ‘điều vui mừng nhất là biết Trung
ương đã sớm xác định Mỹ là kẻ thù chính’ và ‘ra đây mới thấy hết tình hình khó
khăn phức tạp chưa thể phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam sớm hơn”.
Tướng Lê Đức Anh xác nhận, cuối năm 1957, khi gặp Lê Duẩn ở Bộ Quốc Phòng, ông
đã nói: “Ra Bắc mới được vài tháng mà tôi thấy tình hình quốc tế, tình hình
trong nước phức tạp quá”.
Trong thời gian chủ trương chưa dứt
khoát đó, hàng vạn đảng viên Cộng sản đã bị bắt, bị giết bởi những chiến dịch tố
cộng của Chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngược lại, từ đó cho đến năm 1960, “mỗi năm
có khoảng 2.500 quan chức miền Nam Việt Nam bị ám sát”. Trên thực
tế, các hoạt động du kích là chưa bao giờ ngưng cả, nhưng, tới năm 1959 thì hoạt
động này chuyển lên mạnh hơn.
Theo Kissinger, “đến cuối nhiệm kỳ của
Chính quyền Eisenhower, chính quyền Nam Việt Nam đã nhận được từ Mỹ hơn một tỷ
đôla viện trợ; có 1.500 người Mỹ ở miền nam Việt Nam với 692 thành viên nằm trong
nhóm cố vấn quân sự; đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trở thành một trong những phái
đoàn lớn nhất của Mỹ trên thế giới”.
Trận “đánh Mỹ” đầu tiên diễn ra ngày
2-1-1963 ở một ấp chiến đấu cách thị xã Mỹ Tho 14 km có tên là Ấp Bắc.
Nhưng cũng trong năm 1963, khi được giao soạn thảo bản báo cáo chính trị cho Hội
nghị Trung ương 9, ông Hoàng Minh Chính 1963, Bí thư thứ nhất Lê
Duẩn triệu tập Hội nghị Trung ương 9, đưa ra dự thảo nghị quyết về “các vấn đề
quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Hoàng Minh Chính bảo lưu ý kiến bằng
cách phân phát cho một số uỷ viên Trung ương dự Hội nghị một bài viết của ông
có tên Về Chủ Nghĩa Giáo Điều Ở Việt Nam. Một số uỷ viên Trung ương đã hưởng ứng
lập trường này như Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm.
Từ năm 1964, nghị quyết về “các vấn đề
quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại” đã làm cho khoảng bốn mươi người
đang học và đang công tác ở Liên Xô xin “tị nạn”, trong đó có những người từng
gần gũi với Tướng Giáp như Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội Nguyễn Minh Cần;
Chính ủy Sư đoàn 308, Phó Chính ủy Quân khu III, Đại tá Lê Vinh Quốc; nguyên Tổng
Biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, Thượng Tá Ðỗ Văn Doãn,…
Sau Hội nghị Trung ương 9, vấn đề của
“cách mạng miền Nam” không còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi thái độ của Trung Quốc
hay Liên Xô. Trong Đảng cũng đạt được một đường lối chung: “Xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam”. Từ tháng 9-1963, một phó tổng tham
mưu trưởng được đưa vào Nam và ngay trong thời gian ông Lê Duẩn
đang chủ trì Hội nghị Trung ương 9, hàng trăm sỹ quan cấp chiến thuật bắt đầu
được đưa về các trung tâm huấn luyện.
Tuy nhiên, ở Hà Nội, theo Cục trưởng
Tình báo Quân đội Lê Trọng Nghĩa: “Đầu năm 1964 khi viết Nghị quyết 9 thành
văn, họp Trung ương vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, Nghị quyết 9 dừng lại
ở mức độ: đánh thắng Mỹ nhưng giữ nó ở mức độ chiến tranh đặc biệt, tránh để
chiến tranh mở rộng ra miền Bắc”.
Những năm đầu thập niên 1960, ở miền
Nam, “Ngô Chí Sỹ” bắt đầu được mô tả như là một “độc tài gia đình trị”.
Ngày 24-8-1963, Henry Cabot Lodge, người vừa sang Sài Gòn làm đại sứ nhận được
chỉ thị từ Washington yêu cầu cách chức Nhu và cảnh báo Diệm rằng, nếu ông ta từ
chối, Hoa Kỳ sẽ phải “đối diện với khả năng chính bản thân ông Diệm không thể
được bảo toàn”. Ngày 1-11-1963, các tướng lĩnh Sài Gòn đã đảo
chính. Hai anh em ông Diệm phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam và sau đó bị bắn
chết.
Ba tuần sau, ngày 22-11-1963, tại
Dallas, Texas, Tổng thống Kennedy bị ám sát. Vị tổng thống mới, Lyndon Baines
Johnson, bắt đầu coi sự xuất hiện của quân đội chính quy miền Bắc ở miền Nam là
“xâm lược”. Ngày 21-12-1963, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara báo với Johnson rằng,
nước Mỹ phải đối mặt với sự lựa chọn: leo thang can thiệp quân sự hoặc để cho
miền Nam sụp đổ.
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Một tháng sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo
chính, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lại nhóm họp, đẩy cách mạng miền Nam lên một
tầm mức rõ ràng hơn: “Đã đến lúc miền Bắc cần tăng viện trợ cho miền Nam, miền
Bắc phải phát huy hơn nữa vai trò là căn cứ cách mạng cho toàn đất nước”. Không
lâu sau đó, Sư đoàn 325 được đưa vào “Chiến trường B”.
Người Mỹ không ngồi yên khi nhịp độ
chi viện quân sự từ miền Bắc vào Nam ngày càng tăng cao. Mỹ chủ trương đánh mạnh
vùng Hạ Lào và ngoài Biển Đông, Hạm đội Bảy dịch chuyển dần lên rồi đưa tàu USS
Maddox vào vịnh Bắc Bộ. Trực Ban Tác chiến Quân ủy Trung ương tuần lễ đầu tháng
8-1964, Cục trưởng Quân báo, Đại tá Lê Trọng Nghĩa, kể: “Nguồn tin của chúng
tôi cho biết, sau khi tàu Maddox di chuyển hỗ trợ cho các máy bay của hải quân
Mỹ ném bom Nậm Căn, nhằm quấy rối, chặn đường chi viện miền Nam sẽ quay về Hạm
đội Bảy. Quân ủy cũng nhận định không có dấu hiệu Mỹ dùng tàu Maddox đánh ra miền
Bắc”.
Ngày 2-8-1964, khi chiếc tàu USS
Maddox di chuyển từ phía Bắc Việt Nam vào vùng biển Hòn Mê, thuộc địa phận
Thanh Hóa, nó đã bị một đơn vị hải quân miền Bắc dùng tàu phóng ngư lôi bắn
trúng mũi. Thương vong không đáng kể, nhưng “Capitol Hill đã náo loạn”. Ngày
4-8-1964 hệ thống ra đa của USS Maddox nhận được tín hiệu sẽ có một cuộc tấn
công thứ hai. Mặc dù, về phía Việt Nam, “nhật ký chiến sự không ghi nhận bất cứ
sự kiện gì vào ngày 4-8 cả”.
Vụ tàu USS Maddox đã khiến cho lòng
kiêu hãnh của những người Mỹ ở Washington bị thách thức. Ngày 5-8-1964, máy bay
Mỹ lần đầu tiên thi hành một số phi vụ bắn phá trên miền Bắc. Ngày 7-8-1964,
100% nghị sỹ ở Hạ viện và sau đó 98/100 thượng nghị sỹ bỏ phiếu thông qua “Nghị
quyết Vịnh Bắc Bộ”; theo đó, cho phép tổng thống toàn quyền hành động quân sự với
miền Bắc cộng sản. Một tuần sau, từ Thanh Hóa, 160 sỹ quan chính quy kết thúc sớm
lớp huấn luyện, bắt đầu hành trình vượt Trường Sơn.
Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Khi ‘sự
kiện Vịnh Bắc Bộ’ xảy ra, cả Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh đều đi vắng.
Trung Quốc và Liên Xô cùng làm ầm lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải chủ trì họp kiểm
điểm. Vào họp Hồ Chí Minh đặt vấn đề rất nghiêm: Ai ra lệnh? Hôm xảy ra vụ tàu
Maddox, trực Quân ủy Trung ương là Tướng Trần Quý Hai, tôi là trực ban tác chiến
chịu trách nhiệm nắm tình hình địch. Trần Quý Hai nói là đã báo cáo Bộ Chính trị
trước khi ra lệnh nhưng kiên quyết không nói cụ thể báo cáo ai. Võ Nguyên Giáp
yêu cầu phải kỷ luật. Trong khi, Văn Tiến Dũng nói, ‘mình không đánh nó thì nó
cũng sẽ đánh mình, bản chất đế quốc là thế’. Cuối cùng Trần Quý Hai nhận kỷ luật
cho dù ai cũng biết phía sau lệnh này là ai”.
“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” trở thành lý do
để những người chủ chiến ở cả phía Mỹ và Việt Nam đẩy nhịp độ chiến tranh lên mức
cao hơn. Từ miền Bắc, viên tướng đứng đầu xu hướng đánh thắng Mỹ bằng quân sự,
Nguyễn Chí Thanh, được cử vào Nam trực tiếp làm bí thư Trung ương Cục. Cùng đi
có các tướng Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hòa, Hoàng Cầm và Trần Độ.
Chỉ ít lâu sau, tháng 2-1965, Bộ Chỉ
huy Miền Nam quyết định mở Chiến dịch Đồng Xoài. Đồng thời, ở Cao Nguyên, một
cuộc tấn công lớn đã được nhắm vào khu ở của cố vấn Mỹ ở thành phố Pleiku. Người
Mỹ trả đũa bằng cách mở một đợt tấn công bằng không quân vào miền Bắc. Cuộc tấn
công này nhanh chóng biến thành một chiến dịch ném bom có hệ thống với mật danh
“chiến dịch sấm sét”. Sự kiện này đã đặt miền Bắc vào tình thế chấp nhận để cho
một lực lượng quân nhân của các nước xã hội chủ nghĩa bí mật có mặt trên miền Bắc.
Năm 1964, ông Lê Duẩn từng dự định
“giành chính quyền Sài Gòn” trong năm 1965 bằng cuộc đảo chính của Đại tá Phạm
Ngọc Thảo kết hợp với một cuộc tổng tiến công, nhân khi “chiến tranh đặc biệt”
của Mỹ được coi là “phá sản” còn quân Mỹ thì chưa được đưa vào tham chiến. Đại
tá Thảo được ông Lê Duẩn “đánh vào” chính quyền Ngô Đình Diệm với vỏ bọc “người
trí thức tham gia kháng chiến trở về với chính nghĩa quốc gia”. Còn cuộc tổng
tiến công thì theo ông Võ Văn Kiệt, năm 1964, chỉ riêng Khu ủy Sài Gòn-Gia Định
đã cho thành lập năm “phân khu”. Cũng trong năm 1964, từ Hà Nội, ông Lê Duẩn đã
cử một “bộ khung” vào Nam.
Một thành viên trong “bộ khung” này,
ông Kiều Xuân Long, kể: “Chúng tôi bắt đầu đi B cuối năm 1964, đích thân Lê Duẩn
và Tố Hữu tiễn đưa. Đầu năm 1965, chúng tôi tới Tây Ninh, gặp cán bộ Trung ương
Cục, họ thúc, ráng đi lẹ lên coi chừng không kịp”. Đồng tiền “miền Nam Việt
Nam” cũng được in và chuyển vào Trung ương Cục với mật danh: “Hàng 65”. Nhưng
cuộc đảo chính do Phạm Ngọc Thảo cầm đầu thất bại. Giai đoạn khốc liệt nhất của
cuộc chiến bắt đầu.
Ngày 8-3-1965, lính Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng
và tháng 7 năm ấy bắt đầu tham chiến tại miền Nam. Đáp lại, trong tháng 9-1965,
hai đơn vị chủ lực cơ động của Nam Bộ, Sư đoàn 9 và Sư đoàn 5, lần lượt được
thành lập; tháng 6-1966, Miền cho lập thêm Sư đoàn 7. Từ đó, quân đội Mỹ tiếp tục
được ồ ạt đưa sang cho đến khi đạt con số 543.000 người vào năm 1968.
Mậu Thân và tham vọng của
Lê Đức Thọ
Cuối năm 1966, khi trả lời phỏng vấn
Harrison Salisbury, phóng viên tờ New York Times, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rằng,
Hoa Kỳ đúng là “mạnh hơn rất nhiều về quân sự”, nhưng, theo ông: “Cuối cùng sẽ
thất bại vì có nhiều người Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho Việt Nam hơn người Mỹ”.
Sức chịu đựng của nền chính trị Mỹ bắt
đầu bị thách thức khi số lính Mỹ chết ở chiến trường Việt Nam lên tới con số
hàng trăm mỗi tuần. Từ năm 1961 cho tới đầu năm 1968, có 31.000 người Mỹ bị chết
và mất tích ở Việt Nam. Cảnh chết chóc của binh lính và đặc biệt là dân thường
được chiếu mỗi tối trên máy truyền hình bắt đầu có trong phòng ngủ của các gia
đình Mỹ.
Theo mô tả của Henry Kissinger,
“McNamara mong muốn kết thúc chiến tranh một cách tuyệt vọng, và nhiều lần khẩn
khoản tôi moi bất cứ dấu hiệu lờ mờ nào, cho dù là gián tiếp, có thể giúp ông
thúc đẩy công cuộc đi tới một kết cục bằng thương lượng”. Ngày
7-4-1965, Tổng thống Johnson tuyên bố tại Baltimore: “Mỹ sẵn sàng thương
lượng không điều kiện”. Cuối tháng 12-1965, người Mỹ cử Harriman, một nhà
ngoại giao, tới Ba Lan để nhờ Ba Lan làm trung gian thương lượng với Hà Nội.
Ngày 2-1-1966, J. Mikhalowski, thứ
trưởng kiêm tổng thư ký Bộ Ngoại giao Ba Lan, tới Hà Nội và thông báo với
Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mỹ rất linh hoạt. Họ sẵn
sàng tìm mọi cách để thương lượng. Mikhalowski nài nỉ: “Cần phải có
một sáng kiến. Phải tiến lại với những ý kiến chứng tỏ chúng ta
muốn hòa bình, và qua đó các đồng chí sẽ tranh thủ được dư luận
thế giới về mình”. Nhưng cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đều cự tuyệt.
Ngày 14-6-1966, một nhà ngoại giao
người Canada được gửi tới Hà Nội, nhưng chuyến đi của ông cũng thất bại. Tiếp
đó, ông Jean Sainteny, người từng ký với Hồ Chí Minh bản Hiệp định Sơ bộ ngày
6-3-1946, đã được Tổng thống Pháp cử tới Việt Nam.
Ngày 1-7-1966, tại Hà Nội, Sainteny
cho biết: “Mỹ đang tìm một giải pháp để khỏi mất thể diện và chính
Việt Nam mới ở thế thắng. Mỹ đã bị đánh bại. Đối với một nước
nhỏ mà làm cho Mỹ không thực hiện ý đồ là đã ở trong thế thắng
rồi”. Rồi Sainteny thuyết phục Phạm Văn Đồng: “Cần nghĩ đến
chiến tranh nhưng cũng cần nghĩ đến hòa bình. Một ngày nào đó sẽ phải
thương lượng”.
Đúng lúc ấy, Hồ Chí Minh được mô tả
là đã bước vào phòng, cắt ngang cuộc gặp giữa Sainteny và Phạm Văn Đồng: “Nếu
ông có gặp người Mỹ, ông hãy nói cho họ rằng chúng tôi không sợ Mỹ,
chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, dù có phải hy sinh tất cả”.
Hôm sau, ngày 5-7-1966, trong cuộc tiếp chính thức, Hồ Chí Minh nói với
Sainteny: “Chúng tôi hiểu đế quốc Mỹ. Chúng tôi biết sức mạnh của
họ. Họ có thể san bằng Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh và
các thành phố khác. Điều đó không hề làm yếu quyết tâm chiến đấu
đến cùng của chúng tôi”.
Từ năm 1967, người Mỹ bắt đầu thiết
lập một kênh liên lạc với Việt Nam qua người Pháp. Giữa tháng 7-1967,
Henry Kissinger trở thành người trung gian khởi động tiến trình thương
lượng. Cho đến lúc ấy, người Mỹ không hề biết rằng, ông Lê Duẩn đang có trong
tay một kế hoạch đầy tham vọng mà về sau được các nhà báo Mỹ gọi là “Tet
Offensive” và các văn kiện chính thức của Hà Nội gọi là “Cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Mậu Thân-1968”.
Trong “chiến tranh giải phóng miền
Nam”, cho dù Tướng Giáp vẫn là bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tổng tư lệnh, bí thư Tổng
Quân ủy, nhưng theo ông Lê Trọng Nghĩa: “Thay vì ông Giáp là người quyết định,
ông Lê Đức Thọ có sáng kiến lập ra Tổ năm người giúp Trung ương chỉ đạo tác chiến
miền Nam gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng và Lê Đức Thọ.
Trong tổ này, ông Giáp chỉ còn một phiếu”.
Chiến dịch Mậu Thân được lên kế hoạch
sau “những cuộc họp liên miên” mà các bên tham gia đã phải “tranh cãi gay gắt”.
Đại tá Lê Trọng Nghĩa, người dự hầu hết những cuộc họp này, nói: “Trong Quân ủy
xuất hiện hai xu hướng khác nhau: Một xu hướng cho rằng phải đánh bằng quân sự
thì mới giải quyết được cách mạng miền Nam, xu hướng này do Nguyễn Chí Thanh
phát ngôn và phía sau là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Một xu hướng đồng ý đánh, nhưng
vừa đánh vừa cân nhắc tình hình chính trị, nếu khi nào khả năng chính trị xuất
hiện thì nắm lấy cơ hội đàm phán hòa bình, người đứng đầu xu hướng này là Võ
Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Vịnh. Tuy nhiên, tới tháng 6-1967 thì đôi bên đi đến thống
nhất: đánh; một ý đồ chiến lược được hình thành gọi là Kế hoạch 67-68”.
Chiều 5-7-1967, Bộ Chính trị làm cơm
tiễn đưa Nguyễn Chí Thanh trở lại miền Nam, cùng dự có Hồ Chí Minh. Sau bữa
cơm, Tướng Thanh có ngồi lại khá lâu với Tướng Giáp. Người thân của ông kể lại
rằng: Sau một đêm trằn trọc bên người vợ tại nhà riêng ở số 34 Lý Nam Đế, Đại
tướng Nguyễn Chí Thanh bị choáng mệt. Lúc gần sáng, ông được đưa đi cấp cứu tại
Bệnh viện Quân y 108, nhưng khi vừa được đặt nằm xuống giường bệnh thì từ ông
“phát ra tiếng kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”. Khoảng chín giờ sáng
ngày 6-7-1967, Nguyễn Chí Thanh mất với kết luận của bệnh viện là do “nhồi máu
cơ tim”.
Vị tướng đại diện cho xu hướng “giành
chiến thắng hoàn toàn bằng quân sự” vừa ra đi thì có hai sứ giả mang thông điệp
hòa hoãn từ Washington tới: ông Raymond Aubrac và Herbert Marcovich. Aubrac là
người quen cũ của Hồ Chí Minh trong thời kỳ ông tới Paris dự Hội nghị
Fontainebleau. Sự ra đi đột ngột của Tướng Thanh cũng làm cho ông
Giáp bị sốc, ngay sau tang lễ Nguyễn Chí Thanh, Tướng Giáp được đưa đi Hungary
dưỡng bệnh. Hồ Chí Minh tiếp các sứ giả Washington khi bên mình không còn hai đại
tướng. Ông bắt đầu nói về đàm phán.
Ngày 24-7-1967, “Aubrac cảm thấy có dấu
hiệu mới mẻ” khi gặp Hồ Chí Minh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng gần như
đã bàn chi tiết phương thức tiến hành đàm phán với điều kiện Mỹ
ngưng ném bom miền Bắc.
Ngày 25-8-1967, Aubrac và Marcovich
chuyển tới tổng đại diện Việt Nam tại Paris thông điệp thương lượng đầu tiên của
Chính phủ Mỹ gửi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Hoa Kỳ sẵn
sàng chấm dứt ném bom bắn phá bằng không quân và hải quân ở miền
Bắc Việt Nam với sự hiểu biết rằng việc đó sẽ nhanh chóng đưa tới
những cuộc thảo luận có hiệu quả giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa để tiến tới giải quyết những vấn đề đang làm hai nước
chống đối nhau”.
Không ai biết rõ thông điệp trên đây
của Washington có được miền Bắc chuyển đến lãnh tụ tối cao hay không. Khi miền
Bắc trả lời thì Hồ Chí Minh đã không còn ở Hà Nội nữa. Theo Đại tá Lê Trọng
Nghĩa: “Ngày 5-9-1967, Hồ Chí Minh được đưa đi nghỉ ở Bắc Kinh. Chúng tôi nhận
được thông báo từ Ban Tổ chức Trung ương của Lê Đức Thọ: Bác mệt, phải đi nghỉ
đông, từ nay, những ai trước trực tiếp làm việc với Bác thì làm việc với đồng
chí Lê Duẩn”.
Ngày 11-9-1967, Mai Văn Bộ trao cho
Aubrac và Marcovich trả lời của Hà Nội: “Thông điệp của Mỹ đã được
trao sau một cuộc leo thang đánh phá Hà Nội và với sự đe dọa liên
tục đánh phá Hà Nội. Rõ ràng đó là một tối hậu thư đối với nhân
dân Việt Nam. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết bác
bỏ những đề nghị trên đây của Mỹ”. Một kế hoạch mang tên
San Antonio, theo đó, Mỹ sẽ “chấm dứt hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam
- để đổi lấy các cuộc đối thoại, miễn là Hà Nội không lợi dụng việc ngừng ném
bom”, vẫn được người Mỹ đưa ra. Ngày 29-9-1967, Johnson đồng ý
“Kế hoạch San Antonio”, nhưng theo Kissinger, Hà Nội đã bác bỏ nó.
Theo ông Trần Việt Phương, thư ký Thủ
tướng Phạm Văn Đồng: “Lê Đức Thọ và Lê Duẩn không thể đưa hai con người đang nắm
quyền và có nhiều uy tín đó đi đâu nếu hai người không đồng ý. Việc Hồ Chí Minh
và Võ Nguyên Giáp đi ra nước ngoài được giải thích là để nghi binh. Để thế giới
tin rằng, miền Bắc không thể triển khai một kế hoạch to nếu hai nhân vật quan
trọng vào bậc nhất đó không có mặt ở Hà Nội”.
Những diễn biến sau đó cho thấy câu
chuyện không đơn giản là một cuộc nghi binh. Đại tá Lê Trọng Nghĩa nói: “Hai
mươi ngày sau khi Nguyễn Chí Thanh mất, ngày 27-7-1967, Hoàng Minh Chính bị bắt.
Hơn một tháng sau khi Hồ Chí Minh được đưa tới Bắc Kinh, ngày 18-10-1967, người
thư ký thân cận nhất của ông là Vũ Đình Huỳnh cũng bị bắt”. Một vụ án được nói
là “Chống Đảng” do Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công
an Trần Quốc Hoàn, trực tiếp chỉ đạo, bắt đầu khởi động.
Cái chết của Tướng Nguyễn Chí Thanh
không làm thay đổi quyết tâm dứt điểm chiến trường miền Nam của ông Lê Duẩn.
Theo Tướng Giáp: “Anh Thanh mất khi chỉ mới có ý đồ chiến lược đánh vào thành
phố chứ chưa hề có kế hoạch tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu
Thân”. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian Võ Nguyên Giáp ở Hungary và Hồ Chí
Minh ở Bắc Kinh, một kế hoạch được đặt tên là “Chiến dịch Quang Trung” được gấp
rút xây dựng. Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh, một kế hoạch được đặt tên là “Chiến dịch
Quang Trung” được gấp rút xây dựng.
12-1967, Văn phòng Trung ương điện “mời
Bác về dự họp Bộ Chính trị”. Ngày 23-12-1967, chuyên cơ chở Hồ Chí Minh về tới
Gia Lâm. Ông Vũ Kỳ viết: “Máy bay lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được vì đèn chỉ
huy trên sân bay chệch mười lăm độ. Đồng chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ
cánh không theo đèn. Rất may là an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng,
Lê Đức Thọ ra đón Bác tại sân bay, đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác”.
Ngay sau khi khách khứa rút lui, việc
đầu tiên mà Hồ Chí Minh làm là gọi điện tới Quân ủy Trung ương để hỏi thăm sức
khỏe Tướng Giáp. Theo ông Vũ Kỳ, khi nghe Quân ủy nói Đại tướng đang ở nước
ngoài, Hồ Chí Minh nhắc gửi quà và thiệp cho vợ chồng “chú Văn”. Ông nói:
“Nô-en và Tết dương lịch bên ấy cũng như Tết ta của mình. Tâm lý của những người
xa quê hương rất mong có một món quà của tổ quốc”. Không chỉ hiểu
tâm trạng của vị tướng đang bị đặt ra ngoài thời cuộc, theo Đại tá Lê Trọng
Nghĩa: “Hồ Chí Minh lo cho sự an toàn của Tướng Giáp”.
Từ Hungary, ngày 20-9-1967 Tướng Giáp
gửi thư cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu: “Cậu Hiếu, bọn mình còn ở lại đây ít hôm nữa.
Chắc Hoàng đã có thư. Rất mong thư nhà. Nhớ liên lạc với anh Thạch, anh Tiến,
khi nào có đoàn sang thì gửi mình”. Theo Đại tá Hiếu, “anh Thạch” và “anh Tiến”
trong bức thư này là Nguyễn Cơ Thạch và Hoàng Văn Tiến, cựu thư ký của Tướng
Giáp, lúc đó đang công tác tại Bộ Ngoại giao. Bức thư Tướng Giáp cho thấy ông
đã bắt đầu “đói thông tin” và, thay vì được báo cáo qua con đường chính thức,
phải tìm hiểu tình hình trong nước qua những người tin cẩn.
Ngày 11-11-1967, Tướng Giáp gửi cho Đại
tá Nguyễn Văn Hiếu lá thư thứ hai từ Hungary: “Hiếu, đã nhận được thư của Hiếu
gửi cho đoàn, sau đó nhận được thư dài hơn viết từ trước. Sức khỏe tôi khá hồi
phục nhưng chưa khỏi hẳn. Hoàng sẽ nói rõ. Hiếu xem, lúc về sẽ bố trí ăn ở làm
việc thế nào để có thể chuẩn bị trước. Thăm các cậu ở báo Quân Đội Nhân Dân, Cục
I, Cục II và các cục khác. Nghe nói bài báo của ta có chỗ lộ bí mật (Hoàng Tùng
nói), như thế là không đúng. Ta đã cân nhắc rất kỹ”.
Theo Đại tá Hiếu, đọc lá thư viết
trên postcard này, ông rất lo lắng. Tại sao tổng tư lệnh đương chức lại băn
khoăn “lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào?” Đại tá Hiếu kể: “Khi anh Văn ở
Hungary, ở nhà họp Quân ủy tôi đã nhiều lần phải chịu đựng những lời nói xấu
anh Văn một cách công khai. Trước đó, Quân ủy rất đoàn kết nhưng, có thời gian
Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng lôi kéo một số cán bộ cô lập anh Văn. Trước khi
vào Nam, có thời gian Nguyễn Chí Thanh hay bóng gió: ‘Ở nhiều nước tổng tham
mưu trưởng mới là tướng, còn bộ trưởng quốc phòng chỉ là anh dân sự’. Khi đó,
Văn Tiến Dũng đã thay Hoàng Văn Thái làm tổng tham mưu trưởng. Tuy nhiên, khi
Nguyễn Chí Thanh mất, anh Văn vẫn bị sốc vì cuộc chiến cần tướng tài. Xét về
năng lực, Nguyễn Chí Thanh sắc sảo hơn nhiều so với Văn Tiến Dũng”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, thư ký
Tướng Giáp, ông không có điều kiện để xác minh điều mà Trần Quỳnh nói, trước giờ
dự định vào Nam, Nguyễn Chí Thanh nhắc Hồ Chí Minh phải chú ý vấn đề nội bộ.
Nhưng, ông Huyên xác nhận, ở thời điểm ấy cũng có người nói Tướng Giáp chống Đảng
và muốn thay Tướng Giáp. Theo ông Huyên: “Có người đề nghị, Bác nói: thông thường
ở cấp ấy con người có thể hành động như vậy nhưng chú Giáp thì không, hơn nữa
ta đang đánh Mỹ và đang thắng Mỹ không thể thay bộ trưởng quốc phòng”.
Theo ông Vũ Kỳ, ngày 28-12-1967, Bộ
Chính trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà của Hồ Chí Minh, có bản đồ to kê trên
bục trong phòng họp và có nhiều tướng lĩnh đến báo cáo. Tại cuộc họp đó, theo
ông Vũ Kỳ: “Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ… đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta
lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi
nghĩa để giành thắng lợi quyết định. Chiều tối, sau phiên họp Bộ Chính trị kéo
dài và căng thẳng, Bác trở về nhà sàn, chân bước chậm rãi, có lẽ có một điều gì
đó khiến Bác chưa thật an tâm. Cuộc họp hôm nay Bác chủ trì, ngồi ở ghế đầu
bàn, đồng chí Lê Duẩn báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận”.
Ngày 1-1-1968, sau khi thăm một số
nơi bị máy bay bắn phá ở Hà Nội, vào lúc 2 giờ 30 chiều, sau khi tiếp “Bộ Chính
trị đến làm việc”, Hồ Chí Minh tiếp tục “sang Bắc Kinh dưỡng bệnh”.
Ở Hà Nội, bàn tay của Lê Đức Thọ bắt đầu siết mạnh hơn.
Tại Tổng Hành dinh, sáng 6-1-1968, Đại
tá Lê Trọng Nghĩa đang họp với Văn Tiến Dũng để làm kế hoạch bảo đảm cho chiến
dịch thì ông Dũng nói: “Anh sang Tổng cục Chính trị gặp Song Hào”. Ông Lê Trọng
Nghĩa kể: “Tôi sang, người tiếp tôi không phải là Song Hào mà là Phạm Ngọc Mậu,
cục trưởng Tổ chức kiêm phụ trách Bảo vệ Nội bộ. Mậu bảo: ‘Anh để cặp, vũ khí,
bản đồ lại đây rồi đi ngay, có nhiệm vụ Trung ương giao’. Tôi lần lượt tháo ra
khỏi người những thứ bất ly thân, và tôi chỉ phải đi sang một phòng ở gần đó.
Hôm đó, vợ tôi từ nơi tản cư ở Vĩnh Yên về đang chờ tôi về ăn cơm để tối lại về
nơi tản cư tiếp. Nhưng tôi không chỉ bị giữ lại trong ngày, và cũng không chỉ
có một mình. Từ các nhà bên: Lê Minh Nghĩa, phó Văn phòng Quân ủy, kiêm chánh
Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu, Đỗ Đức Kiên, cục trưởng Cục Tác chiến… cũng cùng bị
bắt. Lo lắng cho một chiến dịch sắp bắt đầu, một tuần sau, lấy tư cách là bí
thư Đảng Quân ủy Bộ Tổng Tham mưu, tôi viết thư gửi cho Bí thư Tổng Quân ủy Võ
Nguyên Giáp đặt vấn đề vì sao có việc giữ người này. Một thời gian sau, khi tôi
đã bị di lý đi nơi khác, một cục phó Cục Bảo vệ tới nơi tôi bị giữ, thông báo:
Anh Giáp đang nghỉ, tất cả những chuyện của các anh và những chuyện trong Quân ủy
bây giờ thuộc quyền giải quyết của anh Lê Đức Thọ”.
Sau khi “điều Lê Trọng Nghĩa” về trại
giam, Cục trưởng Cục Cán bộ Phạm Ngọc Mậu cho mời Chánh Văn phòng Quân ủy Nguyễn
Văn Hiếu. Theo ông Hiếu: “Ông Mậu nói: ‘Học viện quân sự đang thiếu người, anh
phải lên thay Hoàng Minh Thảo làm phó giám đốc. Anh nên đi ngay'. Tôi hiểu là
người ta cần tống mình đi. Đến Tam Đảo biết thêm, người ta chỉ thị cho Học viện
là tôi không được tham gia cấp ủy”. Như vậy, theo Cục trưởng Quân báo Lê Trọng
Nghĩa: “Trước giờ nổ súng, phần lớn tác giả của Kế hoạch Mậu Thân, kể cả tác giả
chính là Cục trưởng Tác chiến Đỗ Đức Kiên, đều bị loại ra khỏi vòng chiến đấu”.
Để đảm bảo hoàn toàn bí mật, chỉ trước
khi nổ súng một tuần, Lê Duẩn mới triệu tập các ủy viên Trung ương về Kim Bôi họp
Hội nghị Trung ương lần 14. Tại hội nghị, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thông báo với
Trung ương rằng trong cuộc họp quan trọng này “có nhiều đồng chí vắng mặt”. Bí
thư Lê Duẩn nói: “Trước hết, tôi xin báo cáo với các đồng chí, lần này hội nghị
Trung ương chúng ta họp, có một số đồng chí Trung ương bị ốm không đến được, có
một số đồng chí bận việc không đến được. Trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí bận
việc không đến được, một số đồng chí sẽ đến, mai có đồng chí Thọ (Lê Đức Thọ),
đồng chí Dũng (Văn Tiến Dũng) sẽ đến báo cáo”.
Sau Hội nghị Trung ương 14, chiều 20-1-1968,
Lê Đức Thọ có đến Bắc Kinh để “báo cáo Bác Hồ”. Tướng Giáp nhớ lại: “Sắp nổ
súng thì Bác cũng đang ở Bắc Kinh. Bác điện cho tôi: chú thu xếp về càng sớm,
càng tốt”. Từ Hungary, Tướng Giáp bay tới Bắc Kinh. Theo ông Vũ Kỳ, sáng
25-1-1968, Hồ Chí Minh gặp riêng Võ Nguyên Giáp. Trong khi, cả “Cha già Dân tộc”
và “Anh cả của Quân đội” vẫn đang “an trí” ở Bắc Kinh thì những binh đoàn chủ lực
miền Bắc bí mật áp sát các đô thị miền Nam. “Ngày 29 tháng Chạp ta”, vào lúc
sáu giờ chiều, Hồ Chí Minh “nhận được điện của Bộ Chính trị và Trung ương chúc
mừng Bác Hồ năm mới”.
Cái đêm mà cả miền Nam chìm trong
khói lửa của Tổng tiến công ấy, Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh, “trong căn phòng vắng”
chỉ có ông và thư ký Vũ Kỳ, “Bác” mỉm cười nghe một em bé hát “Bé bé bồng bông…
em đi sơ tán, mai về phố Đông” và lời chúc Tết của chính mình: “Xuân này hơn hẳn
mấy xuân qua/ Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà/ Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/ Tiến
lên!/ Toàn thắng ắt về ta!”.
Máy bay Trung Quốc đưa Tướng Giáp về
tới Hà Nội ngay trong ngày 29 Tết. Hôm sau ông mới được Tướng Vũ Lăng, cục trưởng
Cục Tác chiến báo cáo “Kế hoạch Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”. Vũ Lăng nói:
“Anh Văn Tiến Dũng bảo bây giờ thì có thể báo cáo toàn bộ với anh Văn”. Tướng
Giáp cố giữ vẻ mặt bình thản để giấu niềm cay đắng. Ông, vị tổng tư lệnh, đã
không được biết một kế hoạch lớn như vậy cho đến trước khi nổ súng một ngày.
Bốn ngày sau khi Chiến dịch Mậu Thân
bắt đầu, một trong những nhân vật quan trọng nhất của chiến dịch, Tướng Nguyễn
Văn Vịnh, bị vô hiệu hóa. Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, ủy viên Thường trực Tổng
Quân ủy, được cử vào Trung ương Cục trao đổi Kế hoạch Mậu Thân chỉ mười ngày
sau khi Tướng Nguyễn Chí Thanh mất. Tướng Vịnh trở lại Hà Nội vào đầu tháng
1-1968, và chính ông là người báo cáo tình hình chiến trường miền Nam với Quân ủy,
là người trực tiếp soạn thảo Nghị quyết Trung ương 14.
Theo thư ký riêng của ông, ông Phạm
Văn Hùng: Chiều mồng 5 Tết Mậu Thân, ông Vịnh được Lê Đức Thọ mời tới nhà riêng
gặp vào lúc 15 giờ. Cuộc gặp kéo dài tới chập tối nên ông Hùng không thể chờ.
Sáng hôm sau khi ông Phạm Văn Hùng quay lại nhà riêng và là nơi làm việc của
ông Vịnh, 34 Cao Bá Quát, thì được ông Vịnh cho biết, ông bị ngưng tất cả các
chức vụ: ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, ủy viên thường trực Quân ủy, thứ
trưởng Bộ Quốc phòng.
Khoảng ba mươi nhân vật cao cấp đã bị
bắt, phần lớn là những người thân cận với Tướng Giáp như: Thiếu tướng Đặng Kim
Giang, Cục trưởng Cục II Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng Bộ
Quốc phòng Đại tá Lê Minh Nghĩa, Cục trưởng Cục Tác chiến Đại tá Đỗ Đức Kiên, Tổng
Biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, Phó Giám đốc Nhà Xuất bản Sự thật,
nguyên tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Quảng Bình, Nguyễn Kiến Giang, Giám đốc Nhà Xuất bản
Sự thật Minh Tranh,… Trừ một số người bị bức cung để phải khai ra “vai trò cầm
đầu của Tướng Giáp” lờ mờ nhận thấy mục tiêu chính trị của “vụ án”, phần đông
cho đến tận cuối đời không hiểu vì sao lại có vụ án này.
Theo Trần Quỳnh, trợ lý Lê Duẩn thì,
thành phần bị bắt thời gian này gồm: “Những người không tán thành đường lối chống
xét lại của Đảng ta, một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng
cao cấp Liên Xô và trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường
lối của Đảng. Họ lập một nhóm vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi
Bộ Chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng tình với Nghị quyết
9, trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những ủy viên trong
Trung ương”. Các văn bản do Lê Đức Thọ ký cũng nói tới Nghị quyết 9 và quan điểm
xét lại. Nhưng, trên thực tế, Nghị quyết 9 đã được quán triệt từ
năm 1964. Người chủ trương xét lại ở Liên Xô, Khrushchev, khi đó cũng đã bị phế
truất và bị thay bởi Brezhnev. Mặc dù mở đầu vụ án bằng việc bắt Hoàng Minh
Chính, hầu hết những nhân vật quan trọng bị bắt đều là thư ký của Hồ Chí Minh
hoặc là những trợ thủ đắc lực của Tướng Giáp.
Theo thư ký của Tướng Vịnh, ông Phạm
Văn Hùng: “Ông Vịnh và ông Giang đều đã cùng ở trong Quân ủy, biết
nhau rất rõ. Ông Vịnh ở nhà 34 Cao Bá Quát, ông Giang ở nhà đối diện. Từ khi
ông Giang ra khỏi quân đội, thỉnh thoảng vẫn qua lại nhà ông Vịnh trò chuyện.
Nhiều cán bộ cao cấp khác thỉnh thoảng vẫn sang nhà ông Vịnh trò chuyện. Ông Vịnh
là người cởi mở nhưng bí mật quân sự thì không bao giờ ông ấy tiết lộ”.
Tướng Giáp trở lại Tổng hành dinh khi
không còn những cộng sự ăn ý nhất. “Cuộc Tổng tấn công Mậu Thân” diễn ra ngay
trong đêm 30 Tết, thời điểm hai miền có thỏa thuận ngừng bắn để người dân đón
Xuân. Tuy có gặp trục trặc về giờ ngay trong đêm 30 Tết, thời điểm hai miền có
thỏa thuận ngừng bắn để người dân đón Xuân. Tuy có gặp trục trặc về giờ 1968, lẫn
trong tiếng pháo mừng xuân của thường dân, Quân Giải phóng đồng loạt nổ súng
vào 5/6 thành phố, 36/44 thị xã, 36/242 huyện lỵ, 25 sân bay,… Đặc biệt, cuộc tấn
công đã gây rúng động với những gì mà “Việt Cộng” đã làm ở Sài Gòn và Huế.
Tướng Giáp cho rằng: “Tổng tiến công
vào một thời điểm bất ngờ là một chủ trương sáng tạo, nhưng đề ra tổng khởi
nghĩa là không phù hợp”. Tướng Giáp không coi Mậu Thân là chiến
thắng vì theo ông: “Lúc đầu mục tiêu đề ra rất cao, tổng công kích, tổng khởi
nghĩa, giành trọn vẹn chính quyền về tay nhân dân. Giấy bạc đã được in và đã được
chuyển vào Nam. Đồng phục cho công an vào tiếp quản thành phố
cũng đã được chuẩn bị. Đồng chí Đàm Quang Trung ở Quân khu IV đã chuẩn bị một
đoàn xe chở quân và quân trang vào tiếp quản thành phố. Sau này giải thích tổng
công kích, tổng khởi nghĩa xảy ra là một quá trình là không đúng với thực tế”.
Trong Chiến dịch Mậu Thân, người Mỹ bắt
được một tài liệu của tỉnh Bình Định gửi cán bộ, nói rằng: “Tổng tấn công 1.000
năm mới có một lần, sẽ quyết định số phận của đất nước, sẽ chấm dứt chiến
tranh”. Chính ông Lê Duẩn, trước chiến dịch cũng tiên đoán: “Cuộc khởi nghĩa ta
nói đây là một giai đoạn cuối cùng”. Ông Duẩn tin, khi quân chủ lực tiến vào
thì Sài Gòn sẽ nổi dậy. Ngay sau khi chiến dịch bắt đầu, Lê Đức
Thọ đã đi thẳng vào miền Nam nắm vai trò phó bí thư Trung ương Cục. Ông ở lại
cho tới tháng 5-1968, khi tình hình chiến trường không còn dấu hiệu chiến thắng
nào.
Đợt “tổng tiến công” lần thứ nhất
trong Chiến dịch Mậu Thân đã tạo ra được yếu tố bất ngờ; tuy nhiên, Sài Gòn đã
không “bị sập một cái” và không có “nửa triệu người cầm súng cho ta” như dự
đoán của Bí thư Lê Duẩn. Ngay trong đợt đầu, theo Đại tá Tư Chu,
chỉ huy Biệt động Sài Gòn, đã “có những hy sinh, tổn thất lẽ ra có thể tránh được”.
Nhưng, không chỉ tấn công đợt đầu, theo Tướng Giáp: “Khi yếu tố bất ngờ đã
không còn vẫn kéo dài tiến công vào đô thị; chậm chuyển hướng về củng cố, mở rộng,
giữ vững vùng giải phóng và làm chủ ở nông thôn do đó đã gây cho ta nhiều khó
khăn, tổn thất rất nặng nề”. Từ chỗ đang giữ thế thượng phong
trên chiến trường miền Nam, Quân Giải phóng đã phải trải qua những ngày chống đỡ
trong tuyệt vọng.
Nhưng, không phải những căn cứ “Việt
Cộng” bị biến thành đất trắng được đặc tả trên truyền thông Mỹ mà là: cảnh Việt
Cộng bắn nhau trong sân Tòa Đại sứ; cảnh những xác lính Mỹ bị giết trên đường
phố Sài Gòn; cảnh Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn vào đầu một tù binh trong khi hai
tay anh ta bị trói.
Tuần lễ đầu tiên của tháng 2-1968, số
thương vong của lính Mỹ trong vòng một tuần đạt kỷ lục: 543 chết; 2.547 bị
thương. Ngày 27-2-1968, người dẫn chương trình truyền hình có ảnh hưởng lớn khi
đó, Walter Cronkite, “đã truyền những làn sóng gây sốc cho toàn Nhà Trắng bằng
cách dự báo sự thất bại”. Wall Street, một tờ báo được coi là
đang ủng hộ Washington cũng lo sợ Mậu Thân sẽ “làm hỏng các mục tiêu đáng ca ngợi
ban đầu” 1968 bình luận: “Đến lúc chúng ta phải xác định liệu việc
phá hủy Việt Nam để cứu Việt Nam có phải là điều vô nghĩa”.
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson
quyết định “ngừng ném bom đơn phương một phần trong khu vực bắc vĩ tuyến 20” và
sẽ “ngừng ném bom hoàn toàn ngay khi các cuộc thương lượng quan trọng bắt đầu”.
Johnson tuyên bố “sẽ không có thêm lực lượng quân sự tăng cường lớn nào được
phái sang Việt Nam”. Cũng trong ngày hôm ấy Johnson nói rằng ông sẽ không ra
tái ứng cử. Phản ứng của Washington là cơ sở để Hà Nội coi Chiến dịch Mậu Thân
là: “Một chiến thắng đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc
chúng phải bắt đầu xuống thang”.
“Nghị quyết 21”
Phải mất năm năm. Phải sau khi hàng vạn
sinh linh của cả hai miền đã bị bom đạn nghiền nát suốt gần ba tháng ở Quảng Trị
trong mùa hè năm 1972. Phải sau khi “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố
khác” bị tàn phá, hàng nghìn người bị chết bởi B52 trong mùa Giáng sinh 1972.
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris mới được ký kết.
Điều quan trọng nhất mà ông Lê Duẩn
chờ đợi trong hiệp định này là quân Mỹ rút mà quân miền Bắc không rút thì, ở
trên bàn đàm phán, Kissinger đã chấp nhận từ năm 1971. Trên thực tế, ngay trong
những tháng đầu nhậm chức, Nixon đã đơn phương rút quân: từ 545.000 quân năm
1968, xuống còn 27.000 quân, năm 1972. Hiệp định Paris 1973 chỉ giúp cho sự ra
đi của Mỹ có một tên gọi khác.
Sau Hiệp định Paris, theo Tướng Giáp,
ở Hà Nội: “Có nhiều ý kiến muốn giữ vững hòa bình, thực hiện hòa hợp, tạo thế ổn
định 5-10 năm… Cũng có một kế hoạch sử dụng 3,5 tỷ đôla mà phía Mỹ hứa bồi thường
chiến tranh để làm vốn tích lũy ban đầu. Ngay ở Tổng Hành dinh cũng có ý kiến
không muốn đánh trả e vi phạm hiệp định”.
Sáng 27-3-1973, tại phiên họp mở rộng
của Bộ Chính trị, sau khi nghe báo cáo tình hình, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Duy Trinh đề nghị “cần tranh thủ tạo thế mạnh cho ta và có đối sách cụ thể với
Mỹ”. Bí thư thứ nhất Lê Duẩn kết luận: “Ta cần tranh thủ xây dựng
lực lượng mọi mặt ở miền Nam, miền Bắc, quy trách nhiệm của Mỹ, buộc đối phương
phải thi hành hiệp định”.
Ngày 28-3-1973, khi chủ trì họp Quân ủy
Trung ương để triển khai Nghị quyết ngày 27-3-1973 của Bộ Chính trị, Tướng Giáp
vẫn xác định phương châm tác chiến ở miền Nam là “kết hợp đánh chính quy và du
kích, tác chiến với binh vận, chiến đấu với xây dựng lực lượng, tiêu diệt địch
gắn với giành dân”. Ngày 29-3-1973, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài
Gòn làm lễ cuốn cờ. Tướng Giáp xác định trong Hội nghị Quân ủy: “Đối tượng tác
chiến lúc này là quân ngụy” 1973, Bí thư Quân ủy Võ Nguyên Giáp gửi
điện cho các chiến trường, giải thích: “Tiến công quân sự bằng phản công của ta
là chủ động tiến công, không phòng ngự đơn thuần”.
Nhưng, sau Hội nghị Bộ Chính trị ngày
27-3-1973, Tố Hữu cùng các đặc phái viên Nguyễn Thọ Chân, Đinh Đức Thiện, được
cử vào Trung ương Cục phổ biến chủ trương của Bộ Chính trị theo hướng “đấu
tranh chính trị là chủ yếu”, các chiến trường phải tranh thủ thời cơ để “gò
cương vỗ béo” nhằm thực hiện “hòa hợp dân tộc và thi đua hòa bình”. Cùng thời
gian này, tại các cơ quan của Miền, theo ông Lữ Phương, ông Trần Bạch Đằng triển
khai tinh thần một bức “Thư Vào Nam” của Bí thư Lê Duẩn, theo đó, “hòa hợp, hòa
giải dân tộc” là nhiệm vụ ưu tiên của thời kỳ sau hiệp định. Cuối năm 1972, ông
Lê Duẩn đã bố trí cán bộ nghiên cứu việc hình thành và tham gia “chính phủ liên
hiệp ba thành phần”. Ông Phan Văn Khải, khi đó là vụ phó ở Ủy ban Kế hoạch Nhà
nước là một trong những cán bộ được chọn. Đoàn của ông Khải đã vào Trung ương Cục
chỉ vài tuần sau đoàn của ông Tố Hữu.
Sau khi nghe Bí thư Tố Hữu vào truyền
đạt tinh thần thi hành Hiệp định Paris của Bộ Chính trị, Hội nghị Binh vận Miền
tháng 4-1973 triển khai “năm cấm chỉ”: cấm tấn công địch, cấm đánh địch đi càn
quét, cấm bắn pháo vào đồn địch, cấm bao vây đồn bót, cấm xây dựng ấp xã chiến
đấu. Ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt và Thường vụ Khu ủy ra lệnh Binh vận Khu không
phổ biến chủ trương này của Binh vận Miền.
Ông Võ Văn Kiệt kể, nhận được điện của
Trung ương Cục, ông liền trao đổi ngay với Đại tá Lê Đức Anh và Thường vụ Khu ủy,
triệu tập các tỉnh đội và đơn vị. Theo ông Kiệt, bản thân các đơn vị khi nghe nội
dung chủ trương này đã cảm thấy rằng, “chắc chắn Khu ủy sẽ có chỉ đạo khác”.
Trước đó, ngày 2-2-1973, ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt triệu tập Hội nghị Thường vụ
Khu ủy, “quán triệt” cấp dưới rằng không được “mơ hồ ảo tưởng” về hòa bình.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn
toàn không “mơ hồ” khi ngầm triển khai một chiến dịch gọi là “tràn ngập lãnh thổ”
nhằm chiếm 85% đất đai và kiểm soát 95% dân chúng miền Nam bốn mươi lăm giờ trước
khi Hiệp định Paris có hiệu lực. Ngày 3-3-1973, ba mươi tiểu đoàn của Việt Nam
Cộng hòa đã ồ ạt đánh vào Chương Thiện, dự kiến trong bảy ngày sẽ chiếm xong
các mục tiêu, bịt cửa ngõ U Minh. Nhưng, các mũi tiến công đều bị chặn đứng,
Khu IX tổ chức tấn công trên toàn địa bàn Quân khu.
Trước các nhà lãnh đạo Khu ủy và Quân
khu, ông Kiệt khi ấy vừa trở thành ủy viên chính thức Trung ương Đảng, tuyên bố:
“Mệnh lệnh tối cao lúc này là phải giữ đất, giữ dân”. Ông Kiệt nhớ lại: “Chưa
có cuộc họp nào mà tất cả các nơi về nhanh thế. Hội nghị chỉ kéo dài một buổi rồi
tất cả lại phấn khởi đòi về ngay để giữ đất”. Nhưng, nhiều nơi cho rằng “Khu ủy
Tây Nam Bộ xé Hiệp định Paris”. Trung ương Cục điện yêu cầu “Khu IX phải thấy
tình hình mới”.
Bộ Tư lệnh Miền phê bình và thông báo
toàn Miền, đồng thời ra lệnh cho Đại tá Anh rút hai trung đoàn chủ lực về phía
sau rèn luyện nếu không sẽ “đưa Đại tá Lê Đức Anh ra Toà án binh”. Đại tá Anh
sau khi trao đổi với ông Kiệt trả lời Bộ Tư lệnh: “Cho phép Quân khu IX thi
hành chủ trương của Thường vụ Khu ủy”. Ông Võ Văn Kiệt điện cho Trung ương Cục
và Bộ Chính trị: “Nếu không chống địch lấn chiếm, để mất đất, mất dân lúc này
là mất tất cả”.
Sau khi nhận được điện của ông Kiệt,
Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cho triệu tập đại diện các khu, đại diện Trung ương Cục,
đại diện Bộ Tư lệnh Miền ra Hà Nội. Ngày 19-4-1973, các đại diện miền Nam, Phó
Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh, Tư lệnh miền Nam Hoàng Văn Thái, Bí thư
Khu IX Võ Văn Kiệt đã có mặt ở Hà Nội, báo cáo với Bộ Chính trị tại nhà khách Hồ
Tây.
Ông Lê Duẩn có một phương pháp làm việc
được Võ Văn Kiệt gọi là “bỏ túi nghị quyết”. Nghĩa là, khi xuống cơ sở để triển
khai nghị quyết thay vì bắt buộc cơ sở phải chấp hành những gì cấp ủy đã ban
hành, phải lắng nghe xem, nghị quyết đề ra như vậy đã phù hợp chưa, nếu không
phù hợp thì phải điều chỉnh nghị quyết chứ không phải điều chỉnh cuộc sống. Ông
Kiệt gọi cách là đó là “đưa cuộc sống vào nghị quyết”.
Khi những cán bộ chiến trường như ông
Kiệt ra tới Hà Nội, ông Lê Duẩn yêu cầu các ủy viên Bộ Chính trị, các bộ, ngành
phải dành đủ thời gian để nghe tình hình từng chiến trường. Ông Duẩn cũng chỉ
thị cho những cán bộ từ chiến trường ra: “Bất cứ ủy viên trung ương nào cần
nghe là phải báo cáo”. Bản thân ông Lê Duẩn cũng cần tìm kiếm sự nhất trí cao
trong Trung ương. Theo ông Kiệt thì khi ông mới ra Bắc, ông Tố Hữu vẫn còn gặp
nhiều lần để “thuyết phục Khu IX thi hành nghị quyết gò cương vỗ béo”.
Đó là lần đầu tiên ông Võ Văn Kiệt ra
Hà Nội, lần đầu tiên làm việc nhiều với Bộ Quốc phòng, trong đó có Đại tướng Võ
Nguyên Giáp. Tướng Lê Hai chỉ vào “lõm Tây Nam Bộ” trên bản đồ rồi hỏi: “Giữ được
không?”. Ông Kiệt nói: “Sẽ mất nếu rút lui. T3 cũng tùy thuộc vào
cái thế chung của chiến trường. Nếu cả chiến trường tiếp tục tiến công, T3 sẽ
giữ được. Nếu chiến trường rút, T3 mất”. Không như các tướng Lê Hai, Văn Tiến
Dũng, bộc lộ khá rõ chính kiến, Tướng Giáp nghe rất kỹ và hỏi rất cặn kẽ, nhưng
gần như không bộc lộ quan điểm của ông và của Bộ Chính trị về việc thi hành Hiệp
định. Chỉ một lần, ông nói: “Hoàn toàn ẩn cũng có lợi cho dân, nhưng, đánh lại
như T3 là tích cực”.
Khi ấy ông Võ Văn Kiệt chưa biết,
trong vị thế khó khăn của mình, Tướng Giáp phải rất giữ gìn, tuy nhiên không phải
tự nhiên mà ông đánh giá “T3 tích cực”. Từ giữa tháng 4-1973, Tướng Giáp đã cho
lập “Tổ Trung tâm” để xây dựng “đề cương kế hoạch chiến lược” mang bí số “305
TG1”. Tổ do một vị tướng tâm phúc của ông phụ trách: Phó Tổng Tham mưu trưởng
Lê Trọng Tấn.
Mùa hè năm 1973, Bí thư thứ nhất Lê
Duẩn cho gọi Tướng Lê Hữu Đức lên và trước khi ra về, ông hỏi: “Bộ Tổng Tham
mưu đang làm gì?”. Ông Đức: “Dạ đang dự thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền
Nam”. Lê Duẩn: “Thế tôi nghe được không?”. Theo Tướng Đức thì sau khi nghe, Lê
Duẩn lệnh cho cả Tổ Trung tâm sang trình bày kế hoạch cho ông nghe. Buổi chiều,
Lê Trọng Tấn, Vũ Lăng cùng Lê Hữu Đức quay lại trình bày chi tiết. Lê Duẩn nói:
“Tôi đang suy nghĩ như vậy. Hôm nay nghe xong, Tổ Trung tâm lại củng cố suy
nghĩ đó của tôi. Tôi sẽ báo cáo Bộ Chính trị”.
Việc báo ra Bộ Chính trị một “vấn đề
tuyệt mật” đã làm cho các sỹ quan tác chiến lo lắng, Tướng Lê Trọng Tấn sau đó
đã phải đi báo cáo xin ý kiến Văn Tiến Dũng và Tướng Giáp. Ông Hồ Ngọc Đại, con
rể và là người sống cùng ông Lê Duẩn trong dinh thự số 6 Hoàng Diệu kể: Một lần
khi vừa chạy xe suốt nửa ngày từ Hà Nội xuống Đồ Sơn thì ông Duẩn nhận được điện
thoại của Tướng Lê Trọng Tấn đề nghị được báo cáo tình hình cho tổng bí thư. Lê
Duẩn định kêu Tướng Tấn xuống Đồ Sơn nhưng ông Tấn không chịu vì theo nguyên tắc,
bí mật quân sự chỉ có thể được nói trong tổng hành dinh. Thế là Lê Duẩn lại phải
quay xe về Hà Nội dù khi ấy đường rất xấu.
Cũng trong thời gian từ tháng 3 đến
tháng 8-1973, khi Trung ương đang nghe các chỉ huy chiến trường báo cáo và xác
định hướng chiến lược sau Hiệp định Paris, ở Khu IX, Quân lực Việt Nam Cộng hòa
liên tiếp mở các trận càn vào Chương Thiện với lực lượng lên tới bảy mươi lăm
tiểu đoàn. Khu IX đã ngăn chặn thành công nỗ lực này của Sài Gòn. Theo Tướng Lê
Đức Anh thì Trung đoàn 1, khi ấy do ông Phạm Văn Trà chỉ huy, đã đóng vai trò
tích cực. Tháng 5-1973, khi Bộ Chính trị quyết định họp mở rộng ở Đồ Sơn, theo
Tướng Giáp: “Không còn ai nghĩ tới nghỉ ngơi, hòa hoãn nữa”.
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Hội nghị
Trung ương 21 không còn phê phán Khu IX và quyết định sửa đổi chủ trương”. Hội
nghị Trung ương 21, khai mạc tháng 6-1973 và thông qua lần cuối vào ngày
4-10-1973, xác định: con đường cách mạng ở miền Nam là con đường bạo lực”. Tướng
Trần Văn Trà cho rằng: “Nếu như từ năm 1973, chúng ta tin bằng cách này hay
cách khác, Hiệp định Paris sẽ được thi hành giống như chúng ta đã tin hai năm sẽ
có tổng tuyển cử hồi Hiệp định Geneva… thì tình hình đã không như bây giờ”.
“Bây giờ” mà Tướng Trà đề cập là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, trận đánh cuối cùng
của Quân Giải phóng.
Khoảng một tháng sau khi ông Lê Đức
Anh từ Hà Nội quay lại Bộ Tư lệnh Miền, Hà Nội công bố quyết định phong quân
hàm vượt cấp lên trung tướng cho hai đại tá: Lê Đức Anh và Đồng Sỹ Nguyên, tư lệnh
Bộ đội Trường Sơn.
Chiến dịch Hồ Chí Minh
Điều mà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn lúc ấy
băn khoăn là người Mỹ sẽ phản ứng thế nào khi vẫn “bạo lực” sau Hiệp định. Có lẽ
như lời một bài hát lúc đó: “Vận nước đã tới rồi”. Ngay trong năm 1973, Nixon bị
cuốn vào vụ bê bối Watergate khiến ông phải từ chức. Ngày 1-9-1974, Gerald Ford
lên thay Richard Nixon. Theo Kissinger, người tiếp tục được Tổng thống Ford giữ
lại làm ngoại trưởng: “Quyết định đầu tiên của tổng thống là phản ứng như thế
nào đối với khoản viện trợ không tương xứng cho Việt Nam”.
Ngân sách dành cho Sài Gòn đã giảm từ
2,1 tỷ đôla năm 1973 xuống còn 1,4 tỷ đôla năm 1974 và chỉ còn 700 triệu cho
năm tài khóa 1975. Cho dù mức mà Nixon trước đó đề nghị vẫn là 1,4 tỷ đôla.
Theo “bản ghi nhớ” ngày 12-9-1974 Kissinger chuyển cho Ford thì ngay cả khi Quốc
hội Mỹ chuẩn thuận mức viện trợ quân sự 700 triệu đôla, thì Quân lực Việt Nam Cộng
hòa khó có khả năng kháng cự. Tính tới tháng 9-1974, 26.000 binh
sĩ Việt Nam Cộng hòa đã bị tử trận kể từ khi ký Hiệp định Paris. Thế nhưng, Thượng
viện Mỹ không những không tăng viện trợ theo đề nghị của tổng thống mà còn cắt
đi 300 triệu.
Đầu năm 1974, khi tình hình bắt đầu
“nước sôi lửa bỏng”, trong một chuyến công tác, Tướng Giáp bị đau bụng dữ dội rồi
ngất đột ngột. Ông kể, “khi tỉnh lại tôi thấy mình đang nằm trong máy bay trực
thăng cấp cứu”. Do Viện Quân y 108 không chẩn đoán ra bệnh, Bộ
Chính trị quyết định đưa Tướng Giáp sang Liên Xô bằng một chuyến chuyên cơ. Tại
Moscow có lúc tim ông đã ngưng đập trong mấy giây và trước khi chấp nhận một cuộc
đại phẫu thuật bệnh sỏi mật, ông đã viết “mấy điều dặn dò để lại”. Tháng
4-1974, sau khi Tướng Giáp hồi phục, Liên Xô đã bố trí một máy bay để đưa ông
trở về Hà Nội. Khi ấy, Văn Tiến Dũng cũng bị ốm phải đưa đi chữa bệnh ở nước
ngoài.
Theo Tướng Giáp: Mùa hè năm 1974, khi
cùng đi nghỉ ở Đồ Sơn, Lê Duẩn đã bàn với ông một loạt các vấn đề chiến lược và
khi thấy sức khỏe của Tướng Giáp đã ổn sau khi mổ sỏi mật ở Liên Xô về, Lê Duẩn
nói với Tướng Giáp: “Công việc rất quan trọng, khẩn trương. Anh nắm lấy mà
làm”. Ở Đồ Sơn, Tướng Giáp vừa an dưỡng, vừa hoàn thành dự thảo lần thứ sáu “kế
hoạch chiến lược giành thắng lợi ở miền Nam”. Ông vừa đi bộ quanh bán đảo Đồ
Sơn, khi ấy là một khu chỉ dành riêng cho Trung ương, vừa trao đổi với những
cán bộ đi cùng. Tuy nhiên, theo ông, kế hoạch chiến lược được giữ tuyệt mật,
ông chỉ đọc ra cho Đại tá Võ Quang Hồ, cục phó Cục Tác chiến viết từng phần.
Khi Bộ Chính trị bàn “kế hoạch giải
phóng miền Nam”, theo Trung tướng Lê Hữu Đức: Hai hội nghị đầu suôn sẻ, nhưng từ
hội nghị thứ 3 cho đến hội nghị thứ 6, sau khi Lê Duẩn gợi ý thảo luận phương
án tổng khởi nghĩa, tức là dùng chủ lực đánh vào đầu não như hồi Mậu Thân rồi
phát động nhân dân nổi dậy. Bộ Chính trị chuyển sang sôi nổi bàn về phương án tổng
khởi nghĩa. 7/11 ủy viên Bộ Chính trị ủng hộ ý kiến này của Lê Duẩn. Tướng Giáp
chỉ còn có hai ủy viên ủng hộ phương án tổng công kích.
Theo Tướng Lê Hữu Đức: “Kể từ khi Lê
Duẩn ra Bắc, Tướng Giáp thường rất đơn độc, những tướng lĩnh trong Quân ủy như
Văn Tiến Dũng, Song Hào, Lê Quang Đạo, Trần Quý Hai thường ngả theo ý kiến của
ông Lê Duẩn. Lê Trọng Tấn là một vị tướng tài và trung thành với Tướng Giáp
nhưng khi ấy ông chưa là uỷ viên Trung ương”. Tuy nhiên, theo Tướng Lê Hữu Đức,
“rất may là Bộ Chính trị đã không buộc thiểu số phục tùng đa số” và Tướng Giáp
thì đã kiên trì thuyết phục.
Từ Hội nghị lần thứ 7, Bộ Chính trị bắt
đầu chấp nhận phương án “tổng công kích” của Tướng Giáp. Tướng Lê Hữu Đức, thời
gian ấy là cục trưởng Cục Tác chiến, thường xuyên phải làm việc với Lê Duẩn và
trực tiếp ghi chép các ý kiến khác nhau trong Bộ Chính trị, kể: “Anh Lê Duẩn cứ
cằn nhằn tôi: sao Cục Tác chiến không thích tổng khởi nghĩa. Khi phương án ‘tổng
công kích’ được chọn rồi, ông lại nói: đã tổng công kích sao không công kích thẳng
vào Sài Gòn mà lại chọn Buôn Mê Thuột?”.
Kế hoạch đánh Buôn Mê Thuột được Tướng
Giáp trao đổi với Tướng Dũng chi tiết trong một cuộc gặp có mặt Tướng Hoàng Văn
Thái ngay trước khi Văn Tiến Dũng vào miền Nam. Theo Tướng Giáp: từ giữa năm
1973, Tổ Trung tâm đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên và trong một buổi làm
việc, Tướng Hoàng Minh Thảo cho rằng, khi đã chọn hướng Tây Nguyên thì trước hết
nên đánh Buôn Ma Thuột. Tướng Giáp, Tướng Dũng đều nhất trí với lựa chọn
này.
Theo Tướng Lê Hữu Đức: “Tháng 1-1975,
ngay sau khi Lê Duẩn tán thành mở đầu cuộc tổng tiến công vào Buôn Mê Thuột Tướng
Giáp ra lệnh cho Tướng Lê Trọng Tấn: kiên quyết phải làm đường vào sát Buôn Mê
Thuột, phải có xe tăng, pháo lớn mới đánh đòn quyết định được. Khi ta làm chủ
Buôn Mê Thuột, Tướng Giáp nói với chúng tôi: tình hình này không loại trừ địch
rút khỏi Tây Nguyên. Hôm đó là ngày 11-3-1975, ngày 26-3-1975, đúng như dự đoán
của anh, Ngụy rút”.
Sáng 11-3-1975, ngay sau khi có tin
Tướng Văn Tiến Dũng làm chủ hoàn toàn Buôn Ma Thuột, bao vây Kon Tum, Pleiku, Bộ
Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương nhóm họp, nhất trí đánh giá: “Ta có
khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến và đồng ý kế hoạch
tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu”. Trong một không khí rất hào hứng, gần cuối buổi
họp, Lê Duẩn nói: “Trước ta dự định hai năm giải phóng miền Nam, nay tiếp theo
Phước Long có Buôn Ma Thuột, ta có thể đẩy mạnh hơn không? Đề nghị Bộ Chính trị
và các anh bên Quân ủy suy nghĩ xem ta đã có thể chuyển sang tổng tiến công chiến
lược trên toàn miền Nam chưa?”. Theo Tướng Lê Hữu Đức: “Anh Văn là người đầu
tiên nhất trí với đề xuất của anh Ba. Tiếp đó, các đồng chí trong Bộ Chính trị
đều tán thành”.
Từ ngày 11-3-1975 cho đến khi quân đội
Sài Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hầu như làm việc tại
Cục Tác chiến. Ông trực tiếp đọc hết các điện chiến trường gửi về. Cục trưởng
Tác chiến Lê Hữu Đức có trách nhiệm hằng ngày vào lúc 19 giờ, tới nhà riêng ông
Lê Duẩn báo cáo diễn tiến chiến trường và các kế hoạch tác chiến. Với tư cách
là tổng tư lệnh trong chiến dịch, Tướng Giáp nắm vấn đề bao quát và đặc biệt
liên hệ chặt chẽ với các tư lệnh chiến trường.
Theo Tướng Lê Hữu Đức, sau khi quân đội
Sài Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, Tướng Giáp và Thường trực Quân ủy nhất trí
nên tác chiến phát triển về phía Đông, bố trí cụ thể sẽ do Tướng Văn Tiến Dũng
quyết định. Tướng Lê Hữu Đức nói: “Anh Văn chỉ thị tôi sang báo cáo xin ý kiến
chỉ đạo của anh Ba. Nghe xong, anh Ba tỏ ý phân vân. Từ năm 1972, anh Ba vẫn muốn
tập trung lực lượng chủ lực, để khi có điều kiện, đánh uy hiếp Sài Gòn, giành
thắng lợi quyết định. Ý anh là khi Tây Nguyên giải phóng, việc tiêu diệt địch
và giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung nên giao cho Quân khu V, lực lượng
còn lại của Tây Nguyên nên tiến về Lộc Ninh, đánh vào Sài Gòn càng sớm càng
hay. Nhưng, khi ấy các mặt chuẩn bị chiến trường, hiệp đồng tác chiến quy mô lớn
chưa được chuẩn bị. May mà lúc ấy, anh Dũng cũng điện ra đề nghị cho phát triển
về hướng Đông, phù hợp với Quân ủy Trung ương. Chúng tôi báo cáo lần nữa và được
anh Ba đồng ý”.
Nhận được tin, Tư lệnh chiến trường
Văn Tiến Dũng gửi Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp bức điện số 107: “Đêm qua tôi
không ngủ được về ý định của tôi với chỉ thị phải tập trung Sư 10 về. May quá
hai mươi lăm phút sau thì nhận được điện của anh. Tôi mừng quá về sự tâm đầu ý
hợp của lãnh đạo và người ở chiến trường”.
Tướng Giáp dự định đi ngay vào Vĩnh
Linh. Trực thăng đã sẵn sàng. Nhưng ông quyết định ở lại vì “tình hình chiến
trường phát triển quá nhanh”, Tổng Tư lệnh không thể rời Tổng Hành dinh. Sau
ngày 18-3-1975, khi Bộ Chính trị họp tại Nhà Con Rồng, nhất trí đề nghị của
Quân ủy, “giải phóng miền Nam trong năm 1975”, Tướng Giáp đi vào Ninh Bình, ông
quyết định đưa vào Nam Quân đoàn I, Quân đoàn cuối cùng ở miền Bắc. Khi ấy Quân
đoàn I đang giúp dân đắp đê ở Ninh Bình theo kế hoạch nghi binh, nhận lệnh báo
động, nhanh chóng theo trục Quốc lộ l hành quân vào Nam, chỉ để lại Sư đoàn 308
ở khu vực Hà Tây làm nhiệm vụ dự bị và bảo vệ Hà Nội.
Trước đó, từ ngày 17-3, Tướng Giáp
liên tiếp gửi các “điện” đến Bộ Tư lệnh Trị Thiên và Bộ Tư lệnh Quân đoàn II
đôn đốc đưa lực lượng xuống đồng bằng, chia cắt chiến lược giữa Huế và Đà Nẵng,
cho phép sử dụng xe tăng và pháo lớn để tăng thêm sức đột kích, nâng cao tốc độ
tấn công. Tướng Giáp phê bình Tướng Lê Trọng Tấn khi ông định lập kế hoạch
trong vòng năm ngày, trong khi theo Tướng Giáp, khả năng quân đội Sài Gòn rút
chạy là cao và Tướng Tấn chỉ có ba ngày để giải quyết chiến trường Đà Nẵng.
Ngày 24-3, Bộ Chính trị và Quân ủy họp,
hạ quyết tâm: “Hành động nhanh chóng táo bạo, bất ngờ đánh cho địch không kịp
trở tay, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa 1975”. Bộ Chính trị cũng thông qua kế
hoạch lập Mặt trận Quảng Đà, lấy mật danh là “Mặt trận 475” do Trung tướng Lê
Trọng Tấn làm tư lệnh, Thượng tướng Chu Huy Mân làm chính ủy, Trung tá Lê Phi
Long được cử làm trưởng Phòng Tác chiến cánh quân này.
Sáng 25-3, Tướng Lê Trọng Tấn nhận những
chỉ thị cuối cùng của Tướng Giáp và ngay chiều hôm đó, ông cùng bộ phận chủ yếu
của cơ quan chiến dịch đi máy bay vào sân bay Quảng Bình, sau đó được chuyển tiếp
bằng trực thăng vào Quảng Trị. Bộ Tư lệnh 475 đến vùng núi Tây Huế và chuyển
theo đường 72 ra Động Truồi, định để chỉ huy đánh Huế, Đà Nẵng, nhưng theo ông
Lê Phi Long: “Giữa đường thì được tin quân ta đã giải phóng Huế vào chiều
25-3”. Không còn phải đánh nhau ở Huế, Quân đoàn I được lệnh quay lại Quảng Trị,
chuyển trục hành quân từ Quốc lộ l sang đường Trường Sơn. Ba vạn người cùng với
l.053 xe pháo các loại, rầm rộ tham gia cuộc hành quân thần tốc, ngày 16-4 thì
vào đến Đồng Xoài.
Thấy tình hình “chắc ăn”, ngay sau Hội
nghị Bộ Chính trị, Lê Đức Thọ “xung phong” vào chiến trường, ông rời Hà Nội vào
ngày 28-3-1975. Như vậy, tại Bộ Chỉ huy Chiến dịch “giải phóng miền Nam” có tới
ba ủy viên Bộ Chính trị: Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Ngày
14-4-1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch điện ra Hà Nội đề nghị đặt tên chiến dịch: Hồ
Chí Minh. Một tuần trước đó, ngày 7-4, Tướng Giáp đã lệnh cho “Cánh quân Duyên
Hải” phải “thần tốc và táo bạo” còn Tướng Lê Trọng
Tấn thì khi ấy cũng đã chuẩn bị mọi mặt để thắng trong “trận cuối cùng”.
Theo kế hoạch, ngày 27-4-1975 các hướng
sẽ bắt đầu tiến đánh để ngày 29-4-1975, cả “Năm cánh quân” đồng loạt đánh vào
Sài Gòn. Tuy nhiên, theo Tướng Lê Hữu Đức, tối 24-4, Tư lệnh Cánh
quân Duyên Hải, Tướng Lê Trọng Tấn đã điện ra xin cho Quân đoàn II và Quân đoàn
IV tiến công vào lúc 17 giờ ngày 26-4, vì nếu ngày 27 mới bắt đầu như các cánh
quân khác thì sẽ không kịp “cùng lúc nổ súng”. Cánh quân Duyên Hải lúc đó còn
phải vượt qua hai con sông lớn: sông Đồng Nai và sông Sài Gòn.
Đọc bức điện khi đêm đã khuya vì vừa
phải lần lượt đến tận nhà riêng của các vị Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng
báo cáo, nhưng thấy tình hình khẩn cấp, Tướng Đức quyết định đánh thức Tướng
Giáp. Xem xong bức điện, Tướng Giáp đồng ý ngay với Tướng Tấn. Tuy nhiên, rất
thận trọng, ông đã cùng với cục trưởng Tác chiến mang bản đồ đến nhà Bí thư thứ
nhất Lê Duẩn.
Sau khi để Tướng Đức đọc bức điện của
Tướng Tấn xong, Võ Nguyên Giáp nói: “Đề nghị anh Ba cho đánh theo điện báo cáo
của Tấn”. Theo ông Lê Hữu Đức: Anh Ba nói ngay: “Đánh, đánh, cứ đánh ngay anh ạ!
Bây giờ không chờ nhau nữa. Lúc này cánh quân nào thuận lợi thì cứ phát triển”.
Anh Văn hỏi thêm anh Ba: “Điện trả lời ký tên anh chứ?”. Anh Ba
nói: “Không, anh là tổng tư lệnh, cứ ký tên anh thôi”. Sau một thoáng suy nghĩ,
anh Ba nói thêm: “Nếu cần thì để cả tên tôi cũng được, hoặc nói rõ đã trao đổi
với anh Ba và anh Ba hoàn toàn đồng ý”. Cũng trong ngày 24-4, Tướng
Tấn cử Trưởng phòng Tác chiến Cánh quân phía Đông Lê Phi Long trực tiếp đến Sở
Chỉ huy Chiến dịch và Tướng Dũng cũng đồng ý để Cánh quân phía Đông đánh trước.
Ngày 30-4-1975, 10 giờ 50, Cục II báo
cáo Tổng Hành dinh: “Quân ta đã vào dinh Tổng thống Ngụy”; 11 giờ 30, cục phó
Cơ yếu mang vào phòng họp bức điện của Tướng Lê Trọng Tấn báo cáo, “một đơn vị
thuộc Cánh quân phía Đông đã cắm cờ trên Dinh Độc Lập”. Chiều hôm ấy, Tướng
Giáp kể: “Tôi lên xe đi một vòng quanh Hà Nội. Cả một rừng cờ hoa dậy lên tự
lúc nào. Người đi chật phố, chật đường như trẩy hội”.
“Thống chế đi đặt vòng”
Tháng 12-1976, tại Đại hội IV, tuy vẫn
còn là bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nhưng theo thứ bậc mới trong Bộ Chính trị, Tướng
Giáp bị xếp sau Lê Đức Thọ. Năm 1977, Tướng Giáp thôi chức bí thư Quân ủy Trung
ương, theo Điều lệ mới, chức vụ này sẽ thuộc về tổng bí thư. Năm 1980, ông phải
giao chức bộ trưởng Quốc phòng cho Đại tướng Văn Tiến Dũng. Trước
Đại hội Đảng lần thứ V, “Vụ án chống Đảng” tưởng đã khép lại từ năm 1967, lại
được ông Lê Đức Thọ đưa ra bàn trong Bộ Chính trị.
Trong buổi Bộ Chính trị họp nghe “Vụ
án chống Đảng”, theo ông Võ Văn Kiệt: “Anh Thọ cũng đưa ra những
thông tin như Trần Quỳnh kể nhưng anh Giáp bác bỏ. Tuy nhiên, anh
Thọ vẫn kết luận. Bộ Chính trị không có cơ sở gì để quyết khác với những điều
anh Thọ nói. Anh Lê Duẩn không nói gì, anh Phạm Văn Đồng không nói gì. Có thể
có những ủy viên Bộ Chính trị biết vấn đề anh Giáp nhưng tôi thì không biết”.
Về sau ông Kiệt chất vấn ông Phạm Văn
Đồng: “Anh hiểu anh Giáp, anh có tiếng nói trong Bộ Chính trị, đó là cái gì?”.
Ông Đồng chỉ nói: “Tôi cũng biết uy tín anh Giáp trong dân”, rồi cười. Ông Kiệt
nói: “Uy tín trong dân của một con người là không thể xem thường. Nếu khai thác
được uy tín đó của anh Giáp thì sẽ có lợi cho dân cho nước. Tôi không đồng tình
với cách cư xử của một số anh với anh Giáp. Tôi kính trọng sức kiềm chế của
anh. Đó cũng là bản lĩnh, nghị lực của một nhân vật lớn”.
Theo Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông
Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông
Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm
rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp
nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về vấn đề của Tướng Giáp. Tối tôi đưa
thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi sang
nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng
vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông Giáp
một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp
trên cổ là đã may lắm”.
Tại Đại hội V, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn
Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Lê Văn Lương và Nguyễn Văn Linh được đưa ra khỏi Bộ
Chính trị. Ông Hoàng Tùng cho rằng: “Lê Đức Thọ phải đưa cùng lúc năm người ra
khỏi Bộ Chính trị để khỏi mang tiếng nhưng thực chất của việc thay đổi này là
nhằm vào ông Giáp”. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng: “Trước đó, cả ông Thọ và
ông Lê Duẩn đều nhiều lần công khai đánh giá thấp khả năng, kể cả khả năng cầm
quân, của Tướng Giáp”.
Năm 1983, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được
giao kiêm nhiệm chức chủ tịch Ủy ban Quốc gia về sinh đẻ có kế hoạch trong khi
Tố Hữu vào Bộ Chính trị giữ chức phó thủ tướng thường trực. Dân gian truyền
nhau: “Nhà thơ làm kinh tế/Thống chế đi đặt vòng”.
Năm 1984, Nhà nước tổ chức nhiều hoạt
động kỷ niệm “30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ”, báo chí đăng hàng loạt hồi ký,
bài viết của cả người Việt và người Pháp. Các bài viết đăng trên báo Nhân Dân từ
tháng 3 đến tháng 5-1984, trong khi nói rất kỹ về Henri Navarre và Christian de
Castries, đã không hề nhắc tên Võ Nguyên Giáp, vị tư lệnh chiến dịch đã đánh bại
hai viên tướng Pháp này.
Ngày 7-5-1984, đúng ngày kỷ niệm chiến
thắng, báo Nhân Dân đăng trên trang nhất bức ảnh chụp Hồ Chí Minh, Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp, nhưng thay vì nêu tên từng cá nhân, Nhân Dân chỉ chú
thích: “Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định chủ trương tác chiến Đông-Xuân
1953-1954”. Các bài viết trên tờ Quân Đội Nhân Dân cũng không có tên “Võ Nguyên
Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, khi Đại
tướng Hoàng Văn Thái công bố hồi ký Điện Biên Phủ-Chiến Dịch Lịch Sử, đăng nhiều
kỳ trên báo Quân Đội Nhân Dân, trong mấy kỳ đầu, tờ báo này đã tự ý cắt bỏ tên
của Tướng Giáp. Khi có sự kiện bắt buộc phải nhắc đến vai trò của ông, báo Quân
Đội Nhân Dân bèn gọi theo chức vụ “tổng tư lệnh” hoặc “bí thư Tổng Quân ủy”
thay vì gọi “Đại tướng Võ Nguyên Giáp” hoặc “anh Văn” thân mật. Tướng Hoàng Văn
Thái nổi giận đòi ngưng, tên của Tướng Giáp thỉnh thoảng mới xuất hiện trở lại
trên tờ Quân Đội Nhân Dân trong hồi ký của ông Hoàng Văn Thái.
Tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân
trong hai ngày 7 và 8-5-1984 đã dành gần như toàn bộ 4 trang A3 để nói về Điện
Biên. Nhưng, trong xã luận, trong các bài diễn văn đã không hề có tên Tướng
Giáp. Trên số báo ra ngày 8-5-1985, hai tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân cùng
đưa tin về lễ “Mít tinh trọng thể kỷ niệm lần thứ 30 chiến thắng Điện Biên Phủ”
tổ chức tại Hà Nội vào chiều 7-5, cùng nhắc tới Võ Nguyên Giáp trong danh sách
“Đoàn Chủ tịch cuộc mít tinh”, nhưng chỉ bằng một cái tên trống không - xếp sau
Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Nguyễn Hữu Thọ - không “đại tướng” và
không nói gì tới vai trò của ông trong “chiến thắng” mà “cả nước” đang “nức
lòng ca ngợi” ấy.
Trong khi đó, báo chí đầu thập niên
1980 lại đăng dồn dập nhiều loạt bài mô tả vai trò của Bí thư Lê Duẩn như là một
“tổng tư lệnh trên thực tế” của cuộc “kháng chiến chống Mỹ”.
Trong loạt bài Thời Thắng Mỹ, Thép Mới dẫn lời Lê Đức Thọ kể chuyện năm 1955,
Lê Duẩn đã tiên tri cuộc chia tay Bắc-Nam sẽ kéo dài hai mươi năm.
Cũng trong loạt bài này, Lê Duẩn được mô tả như là một người đề xuất hầu hết
các chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. “Bác là người đầu tiên tán đồng
những ý kiến đề xuất của anh Ba trước Bộ Chính trị, ngay sau khi anh ra Bắc”.
Theo Thép Mới thì: “Sự vĩ đại của Bác Hồ là lắng nghe” anh Ba và sau khi nghe,
Bác bảo với anh: “Chú nói đúng”.
Tháng 3-1985, Tướng Giáp, lúc này đã
không còn chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vào Huế dự lễ mừng “10 năm giải phóng”.
Cùng đi với ông có Tướng Lê Trọng Tấn, tổng tham mưu trưởng và Tướng Lê Phi
Long. Họ được đón tiếp khá nồng hậu và được bố trí nghỉ tại khu nhà nghỉ xưa
kia của Ngô Đình Cẩn.
Tướng Lê Phi Long kể: “Anh Văn gọi
tôi tới cùng đi dạo chơi quanh vườn và nói: ‘Lâu nay các cậu có nghe người ta
nói gì không?’. Tôi trả lời. Anh bảo: ‘Sao không thấy nói lại! Trong tình hình
phức tạp hiện nay, con người ta có thể bị phân hóa thành ba thái độ: một là thẳng
thắn đấu tranh bảo vệ sự thật, chân lý; hai là trong khi chưa có điều kiện nói
ra sự thật thì ngồi yên kiên trì chờ đợi; ba là cơ hội, xuyên tạc, sẵn sàng đổi
trắng thay đen, bóp méo sự thật. Các cậu có đủ dũng khí thì theo cách một, chưa
có điều kiện thì chọn cách hai, còn cách ba, thì phải tuyệt đối tránh”.
Hôm sau, đoàn của Tướng Giáp vào Đà Nẵng
bằng đường bộ. Trên đèo Hải Vân, khác với không khí nồng hậu mà Huế dành cho Đại
tướng, Đà Nẵng chỉ cử một tỉnh ủy viên trẻ măng, vô danh ra đón, không có đại
diện Quân khu, Tỉnh đội. Tướng Lê Phi Long nhớ lại: “Chúng tôi rất bực mình,
nhưng anh Văn vẫn bình thản”.
Đêm ấy, đoàn nghỉ ở nhà khách Mỹ Khê,
sáng hôm sau, theo chương trình, sẽ đến đặt vòng hoa tại đài liệt sỹ trước khi
dự lễ mừng chiến thắng. Nhưng đợi mãi, không thấy ai phát thư mời và phù hiệu
cho đoàn của “anh Văn”. Các sỹ quan đi cùng hỏi thì được trả lời: “Ai không có
giấy thì coi như không được mời”.
Lễ mừng Chiến thắng Đà Nẵng năm ấy được
tổ chức trọng thể vì có Tổng Bí thư Lê Duẩn tới dự. Tướng Lê Phi Long kể:
“Chúng tôi rất băn khoăn, liền xin ý kiến của anh Tấn và anh Văn”. Trong đoàn
có ý kiến đề nghị thôi không dự lễ nữa. Tướng Giáp suy nghĩ rất lâu rồi nhẹ
nhàng nói: “Chúng ta vào đây không phải vì lễ lạt mà còn để viếng những đồng đội,
đồng chí đã ngã xuống trên mảnh đất này. Đã tổ chức viếng thì phải tổ chức
trang trọng, chu đáo theo đúng nghi thức quân đội”.
Lập tức, Tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh
cho Bộ Tư lệnh Quân khu V tổ chức một lễ viếng riêng có đủ tiêu binh, quân nhạc
và đích thân một vị trong Bộ Tư lệnh phải tháp tùng. Sáng hôm sau, xung quanh
đài liệt sỹ, dân chúng kéo đến rất đông. Những người dân ấy không phải đến vì
được triệu tập mà đến để nhìn Tướng Giáp.
Trong lễ “kỷ niệm 10 năm giải phóng
miền Nam” tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30-4-1985. Võ Nguyễn Giáp vẫn được ngồi
trên “Đoàn Chủ tịch”, nhưng trong danh sách mà báo Nhân Dân ngày 1-5-1985 đăng,
ông được xếp đứng sau chín người, trong đó có nhiều người từng là cấp dưới của
ông trong chiến tranh như Văn Tiến Dũng, Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Đỗ Mười,
Nguyễn Cơ Thạch,… Đây là thứ bậc dựa trên chức vụ trong Đảng mà ông nắm giữ
trong thời điểm 1985. Tên ông chỉ được đặt bên cạnh hai chức danh: ủy viên
Trung ương Đảng, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Từ sau khi Tướng Giáp rời khỏi Bộ Quốc
phòng, báo chí nhà nước không bao giờ gọi ông là “đại tướng”. Nhưng, cũng trong
suốt thời gian ấy, Võ Nguyên Giáp gần như rất ít khi rời khỏi bộ quân phục của
mình. Trong những chuyến công du hiếm hoi mà ông được cử, Võ Nguyên Giáp luôn mặc
bộ lễ phục cấp tướng sang trọng màu trắng.
Ông vẫn sống trong biệt thự 30 Hoàng
Diệu. Quân đội, ngay cả trong thời kỳ Lê Đức Anh làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vẫn
giữ lực lượng vệ binh gác nhà ông. Nhưng, cao hơn cả mọi nghi lễ là sự ngưỡng mộ
mà các tướng lĩnh, quân đội, dân chúng dành cho ông. Tên tuổi Tướng Giáp càng bị
biên tập khỏi các trang báo Nhân Dân thì nhân dân lại càng nhắc đến ông trong đời
thường của họ. Là một ông thầy dạy sử, có lẽ Tướng Giáp biết được vị trí trong
lịch sử của mình. Ông đã đi qua những tháng ngày bị xếp xuống hàng cuối cùng
trên những khán đài, lặng lẽ và sừng sững.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, năm
1991, Tướng Giáp chính thức rời khỏi chính trường. Cho dù vụ “Năm Châu-Sáu Sứ”,
theo ông Võ Viết Thanh, chỉ là một vụ án được dựng lên, Bộ Chính trị đã chưa một
lần minh oan như ông đề nghị. Mãi tới năm 1994, trong lễ “kỷ niệm 40 năm Chiến
thắng Điện Biên Phủ”, tên tuổi của ông mới chính thức được nhắc lại trong một
“diễn văn nhà nước”.
Đó là bài diễn văn của Thủ tướng Võ
Văn Kiệt đọc vào tối 6-5-1994: “Xin chào mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thời đó
là tổng tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ, người đã chấp hành triệt để và sáng tạo
quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch,
chỉ đạo trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành toàn thắng”. Ông Võ Văn
Kiệt nhớ lại: “Trước đó, khi Bộ trưởng Quốc phòng Đoàn Khuê lên Điện Biên Phủ kỷ
niệm 40 năm, diễn văn của Đoàn Khuê không hề nhắc một câu tới anh Giáp”.
Cho dù trong bài diễn văn được viết
công thức và rào đón của ông Kiệt, phần nói về Tướng Giáp vỏn vẹn chỉ có năm
mươi chín từ, nhưng chỉ cần cái tên Tướng Giáp được xướng lên cũng đủ làm cho
Cung Văn hóa Việt-Xô òa vỡ. Thật khó biết điều gì đang diễn ra trong lòng Tướng
Giáp, từ lâu ông đã có một gương mặt rất ít biểu lộ. Nhưng những giọt nước mắt
của những người có mặt hôm ấy thì không thể kềm chế, chúng lăn rất nhanh trên
má họ; trong khi, tiếng vỗ tay kéo dài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét