Phần III : Dấu ấn Nguyễn Văn Linh
Chương XIV: Khoảng cách Linh - Kiệt
Sau thành công của “cởi trói” và “những
việc cần làm ngay, “khoảng cách” giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các thành
viên khác trong Bộ Chính trị không còn chỉ “cách nhau sợi tóc” như ông ví von
lúc đầu. Khác với Lê Duẩn và Trường Chinh, quyết định nhân sự dưới thời Nguyễn
Văn Linh không còn là công việc của Ban Tổ chức. Sự quyết đoán của ông trong một
số trường hợp, mở đầu bằng việc lựa chọn Đỗ Mười thay vì Võ Văn Kiệt đứng đầu
Chính phủ, đã ảnh hưởng không nhỏ tới tiến trình cải cách của Việt Nam. Mối
quan hệ giữa Võ Văn Kiệt và Nguyễn Văn Linh tưởng như rất gần gũi, nhưng trên
thực tế, trong tính cách cá nhân và trong chính trị giữa hai người có rất nhiều
khác biệt.
Tại sao Đỗ Mười
Ngày 10-3-1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Phạm Hùng qua đời. Người kế nhiệm, ông Đỗ Mười, kể: “Anh Hùng đi đột ngột.
Anh ấy đang bình thường, khỏe mạnh, ăn cơm xong nằm nghỉ trưa nghe vọng cổ rồi
bị sặc cơm mà mất”. Thể theo hiến pháp, ngày 11-3-1988, Chủ tịch Hội đồng Nhà
nước Võ Chí Công ký quyết định cử ông Võ Văn Kiệt, phó Chủ tịch thường trực làm
quyền chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng “cho đến khi Quốc hội bầu chủ tịch mới”. Ông
Đỗ Mười nói tiếp: “Tôi thấy bình thường. Tôi từ khi tham gia cách mạng tới giờ
Đảng bảo làm gì làm nấy, không đòi hỏi gì cả, không xin gì cả”.
Ông Đỗ Mười coi việc ông Võ Văn Kiệt
tạm đứng đầu Chính phủ là bình thường không chỉ là một phát biểu xã giao. Theo
ông Nguyễn Đình Hương, phó Ban Tổ chức Trung ương: “Từ Đại hội IV, năm 1976,
khi đưa Tố Hữu, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười đứng vào hàng ủy viên dự khuyết Bộ Chính
trị, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đã bàn với nhau và có sự ủng hộ của Phạm Văn Đồng, thống
nhất đặt ba người vào trong đội dự bị. Năm 1982 khi điều ông Võ Văn Kiệt từ Sài
Gòn, ông Lê Đức Thọ nói đưa Sáu Dân ra Hà Nội là để chuẩn bị làm thủ tướng. Khi
ấy Tố Hữu cũng được chuẩn bị cho chức vụ tổng bí thư. Nhưng Tố Hữu khi làm phó
chủ tịch thường trực Hội đồng Bộ trưởng vướng vào sai lầm trong vụ giá-lương-tiền
nên uy tín sút giảm. Tại Đại hội VI tuy Tố Hữu vẫn được đề cử vào Trung ương
nhưng khi bầu thì không trúng”.
Tháng 6-1988, Quốc hội khóa VIII nhóm
họp kỳ thứ Ba, nhiều đại biểu ngạc nhiên khi người được đề cử chính thức thay
thế ông Phạm Hùng là ông Đỗ Mười thay vì ông Kiệt. Bà Ba Thi Nguyễn Thị Ráo, một
phụ nữ thân thuộc với cả ông Kiệt và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói trước Quốc
hội: “Chúng tôi tha thiết đề cử đồng chí Võ Văn Kiệt. Nhân dân miền Nam, nhất
là Sài Gòn rất kính trọng đồng chí Võ Văn Kiệt. Chúng tôi chỉ biết Võ Văn Kiệt,
tôi tha thiết đề nghị Quốc hội bầu đồng chí Võ Văn Kiệt”.
Đại biểu Lý Chánh Trung đề nghị đưa
hai ứng cử viên để Quốc hội bầu, ông nói: “Một trong những động lực giúp chúng
tôi vận động bà con Sài Gòn xuống đường là để chống bầu cử độc diễn ở Sài Gòn.
Bây giờ chúng ta có độc lập mà vẫn độc diễn thì chúng tôi khó ăn nói với bà con
lắm”. Ý kiến của bà Ba Thi đã bị một đại biểu ở miền Bắc, bà Nguyễn Thị Kim
Đính, chủ tịch Liên hiệp Xã Hải Hưng, phản đối: “Tôi đồng tình có hai ứng cử
viên nhưng tôi không đồng ý với chị Ba Thi, nếu chúng tôi cũng nói là miền Bắc
chỉ biết đồng chí Đỗ Mười thì sao”.
Thực ra không chỉ có các đại biểu đến
từ miền Nam, Quốc hội biết khá rõ ông Đỗ Mười. Bầu “tư lệnh” của cả hai chiến dịch
“cải tạo tư sản” đứng đầu chính phủ trong thời kỳ thực hiện chính sách “kinh tế
nhiều thành phần” không khỏi làm cho nhiều đại biểu băn khoăn, thắc mắc.
Theo ông Vũ Mão, có 33 trên tổng số
53 đoàn đại biểu quốc hội đề cử ông Võ Văn Kiệt như một ứng cử viên thứ hai để
Quốc hội bầu chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; ngoài ra, còn có bốn đoàn giới thiệu
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và một đoàn giới thiệu ông Nguyễn Cơ Thạch. Tuy nhiên,
ông Võ Văn Kiệt kiên quyết từ chối, ông nói: “Tôi là đảng viên, tôi tuân thủ
nguyên tắc Đảng. Ban Chấp hành Trung ương đã giới thiệu đồng chí Đỗ Mười rồi
thì nếu có gì khác, chúng ta phải báo cáo Trung ương”. Ban Bí thư phải họp, và
theo ông Vũ Mão, chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội: “Anh Nguyễn Văn Linh rất hay ở
chỗ, dù không ưa anh Kiệt, anh vẫn đồng ý để Quốc hội bầu chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng với hai ứng cử viên”.
Khi từ chối không tham gia cuộc bầu cử
này, ông Võ Văn Kiệt hiểu rất rõ “ý thức chấp hành” của một quốc hội mà cho dù
tỉ lệ đảng viên là bao nhiêu thì tất cả đại biểu đều là người của Đảng. Nhưng,
sau cuộc họp của Ban Bí thư, giữa đêm khuya, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo tìm
đến nhà ông Kiệt nói: “Ban Bí thư bàn, thấy xưa nay chưa có tiền lệ đưa hai ứng
cử viên ra Quốc hội nhưng các đoàn đề nghị gay gắt quá. Đề nghị anh không rút
tên”.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi Đảng Cộng
sản Việt Nam cầm quyền, Quốc hội bầu một chức danh mà có hai ứng cử viên trên
lá phiếu. Việc làm này không chỉ mới mẻ với những đảng viên thường mà với cả những
người trong cuộc. Theo ông Vũ Mão: “Anh Đỗ Mười nói với tôi: cả tuần nay, mình
mất ngủ, không hiểu tại sao trong Đảng ta lại có hai ứng cử viên. Tôi nói: thưa
anh, đấy là thành quả của đổi mới”. Chiều 22-6-1988, Quốc hội bỏ phiếu, kết quả:
ông Đỗ Mười đắc cử với 296 phiếu; 168 đại biểu bỏ phiếu cho ông Võ Văn Kiệt; một
đại biểu bỏ phiếu trắng.
Ông Đỗ Mười nhận chức nhưng rất lo lắng
vì ông, ứng cử viên của Đảng, chỉ có được 63% số phiếu bầu thay vì 100% như tiền
lệ. Điều ông lo lắng hơn là sự ủng hộ của các địa phương miền Nam. Ông Kiệt kể:
“Tôi nói với anh Mười, tôi trực, tôi sẽ làm hết sức mình, còn đối với anh em miền
Nam anh cứ mạnh dạn vào làm việc, tôi tin là anh em sẽ ủng hộ anh”. Nhớ lại thời
kỳ này, ông Đỗ Mười nói: “Hai anh em cộng tác rất tốt, tôi với anh Kiệt cũng gắn
bó lắm”.
Một năm sau, ông Kiệt nói: “Khi kiểm
điểm trong Bộ Chính trị, có hai ba ý kiến đánh giá một trong những ưu điểm của
tôi là cộng tác tốt với anh Đỗ Mười. Tôi nói với họ các anh nói ưu điểm thì tôi
cũng vui nhưng tôi rất lạ là tại sao các anh có thể nghĩ là tôi không thể cộng
tác với anh Mười. Tôi đâu có cạnh tranh, lẽ ra tôi dứt khoát rút tên nhưng Ban
Bí thư đã quyết định thì tôi phải theo. Đây là công việc đâu phải là vấn đề
riêng tư để tôi có thể không cộng tác với một người được Trung ương chọn”.
Đã từng là bí thư Trung ương Cục, ông
Nguyễn Văn Linh cũng tiên liệu được sự phản ứng của miền Nam khi quyết định chọn
Đỗ Mười. Trợ lý của Nguyễn Văn Linh, ông Bùi Văn Giao, kể: “Sau khi ông Phạm
Hùng chết, anh Linh lên Hồ Tây họp bàn trước với hai ông cố vấn: Phạm Văn Đồng
và Lê Đức Thọ. Họp xong, ông Linh kêu tôi qua nói: ‘Giao à, bọn tôi bàn để Đỗ
Mười thay Phạm Hùng’. Tôi kêu lên: ‘Trời ơi, sao lại Đỗ Mười’. Ông Linh: ‘Tôi
biết, nhưng từ khi làm tổng bí thư tôi nói Đỗ Mười nghe rồi’. Rồi ông Linh kêu
tôi chuẩn bị, hôm sau đi cùng ông. Ông Linh nói: ‘Trung ương giao tôi vào miền
Nam, Võ Chí Công vào miền Trung, Nguyễn Đức Tâm đi các tỉnh miền Bắc làm công
tác tư tưởng’. Ông Linh đi tới đâu cũng gặp phản ứng. Ông phải nói: ‘Đây là quyết
định của Bộ Chính trị”.
Một ủy viên Trung ương thân cận của
ông Nguyễn Văn Linh, Trưởng Ban Tuyên huấn Trần Trọng Tân, kể: “Anh Linh giải
thích: Hồi cải tạo, tôi với anh Đỗ Mười khác nhau lắm, đụng nhau dữ lắm. Nhưng
anh Đỗ Mười có cái hay, điều gì Đảng đã quyết rồi thì anh ấy thi hành quyết liệt”.
Một người từng làm trợ lý cho ông Nguyễn Văn Linh, ông Dương Đình Thảo, bổ
sung: “Ông Mười Cúc đã từng cãi nhau rất găng với ông Đỗ Mười về đổi mới nhưng
ông nghĩ, Đỗ Mười là người trung thành, tổ chức thực hiện kiên quyết khi đã có
nghị quyết”.
Nhưng vấn đề không phải là tán thành
hay không tán thành ông Đỗ Mười. Tuy Nguyễn Văn Linh sinh ra và lớn lên ở miền
Bắc nhưng cuộc đời hoạt động của ông gắn với miền Nam, gắn với Sài Gòn. Năm
1956, ông Võ Văn Kiệt gặp ông Nguyễn Văn Linh lần đầu tiên và cho đến cuối đời
ông Kiệt vẫn nhắc món bê non thui chấm nước mắm gừng theo kiểu Bắc mà ông Linh
đãi ông năm ấy. Tại sao ông Linh đã không chọn ông Võ Văn Kiệt trở thành câu hỏi
của rất nhiều cán bộ miền Nam, những người đã gắn bó với cả ông Kiệt và ông
Nguyễn Văn Linh từ thời Trung ương Cục.
Ông Bùi Văn Giao kể: “Vừa nghe ông
Linh nói chọn ông Mười, tôi thắc mắc ngay ‘Sao không chọn ông Kiệt?’. Ông Linh
kể một loạt cái xấu của ông Kiệt rồi nói: ‘Khi tôi mất Bộ Chính trị, về Sài
Gòn, Sáu Dân không bao giờ gặp tôi’. Anh Linh tốt nhưng thành kiến ai thì chết
người đó”. Ông Chín Đào Phan Minh Tánh, bí thư Trung ương Đảng cho biết: “Ông
Kiệt nhiều lần tâm sự, ‘Chín Đào coi mình với anh Linh có gì không đúng?’. Tôi
nói với ảnh: Khi ra Hà Nội anh có thơ gởi đồng bào từ giã, trong thơ có dặn dò
về anh Linh. Anh Linh cho là trịch thượng. Chị Bảy Huệ cũng đồng ý với chồng.
Anh Kiệt cười: ‘Chín Đào biết mình coi anh Linh là đàn anh về tuổi, là thầy về
cách mạng. Sao ảnh nỡ nói vậy. Nhưng thôi, kệ ảnh”.
Cuối năm 1981, ông Nguyễn Văn Linh được
điều trở lại Sài Gòn như một động thái cơ cấu lại cán bộ chuẩn bị Đại hội Đảng
lần thứ V họp vào đầu năm 1982. Thế chính trị của ông Linh lúc ấy rất khó khăn,
ông bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị vài tháng sau đó. Phó Ban Tổ chức Trung ương
Nguyễn Đình Hương nói: “Nếu ông Lê Duẩn còn sống tới Đại hội VI thì sẽ không có
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh vì từ Đại hội V, ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ đã
thống nhất quy hoạch Tố Hữu sẽ làm tổng bí thư, Võ Văn Kiệt làm thủ tướng và đặt
ông Linh ra rìa”. Trợ lý của Lê Duẩn, ông Trần Phương nói: “Anh Ba đánh giá Mười
Cúc rất thấp”. Theo ông Võ Văn Kiệt, chính ông đã đề nghị ông Lê Duẩn và Lê Đức
Thọ điều ông Nguyễn Văn Linh trở lại Thành phố Hồ Chí Minh khi ông Linh không
được dự kiến cho một chức vụ gì cụ thể.
Trong tình huống đó, trước khi chính
thức ra Hà Nội nhận chức phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Võ Văn Kiệt đã viết
một bức thư ngỏ đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng. Sau khi chúc Tết và cám ơn
“nhân dân Thành phố”, ông Võ Văn Kiệt đã giới thiệu về ông Nguyễn Văn Linh như
là nói về một người tiếp theo mình chứ không rõ ra là nói về một đàn anh của
mình.
Theo ông Tô Hòa, tổng biên tập báo
Sài Gòn Giải Phóng: “Ông Kiệt cũng cân nhắc, viết rất trân trọng và thận trọng.
Nhưng ông Linh phản ứng với tôi ngay: Sáu Dân lấy tư cách gì để giới thiệu
tôi”. Ông Linh về Thành phố làm bí thư, ông Kiệt ra Trung ương làm phó chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng phụ trách kế hoạch, Thành phố cũng có nhiều việc phải trao đổi
và gặp gỡ. Ông Tô Hòa nói: “Trong quan hệ, ông Kiệt cũng rất dở. Có lần ông Kiệt
về nhà ở An Phú, Sài Gòn. Sáng ra khi ông đang chơi tennis với ông Ngô Công Đức
thì ông Linh lên gặp. Lẽ ra nên ra tiếp ngay thì ông Kiệt lại ham bóng, cố theo
cho xong trái bóng. Ông Linh rất bực”.
Cũng theo ông Phan Minh Tánh: “Trước
Đại hội VI, ông Linh cũng nghi ông Kiệt vận động Trường Chinh ở lại và không bỏ
phiếu ủng hộ ông Linh làm tổng bí thư”. Tại Hội nghị Trung ương 12, khóa V, khi
thảo luận nhân sự cho khóa VI, theo ông Lê Văn Triết: “Tôi nói:
‘Anh Trường Chinh nên tiếp tục làm tổng bí thư thêm một thời gian nữa rồi bàn
giao cho anh Nguyễn Văn Linh. Thủ tướng thì nên để anh Võ Văn Kiệt. Chủ tịch nước,
theo tôi bây giờ không ai có uy tín qua anh Giáp’. Nghe tới đó, ông Linh - đang
thảo luận cùng tổ - đập bàn cái rầm, quát: ‘Thôi! Bộ Chính trị yêu cầu các đồng
chí tập trung thảo luận hai vấn đề mà Bộ Chính trị hướng dẫn: cơ cấu và tiêu
chuẩn. Tôi đề nghị đồng chí tổ trưởng điều hành đúng’. Ủy viên Trung ương Lê
Phước Thọ thấy căng, đề nghị giải lao. Ra hành lang, Nguyễn Văn Linh nói: ‘Cậu
biết gì về Sáu Dân? Tôi đề nghị cậu không được nói tới vấn đề Sáu Dân nữa. Dốt
mà không chịu học. Làm Ủy ban Kế hoạch còn không xong lấy đâu ra thủ tướng’”.
Không chỉ ông Triết, nhiều người bất ngờ với thái độ này của ông Nguyễn Văn
Linh nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đó.
Cimexcol hay “Vụ án Dương Văn Ba”
Tháng 12-1987, Bộ Nội vụ khởi tố vụ
án Cimexcol, Phó Giám đốc Dương Văn Ba bị bắt. Dương Văn Ba, cựu thành viên báo
Tin Sáng, là người mà năm 1971 khi tái tranh cử dân biểu tại Sóc Trăng đã được
ông Võ Văn Kiệt, khi ấy là bí thư Khu ủy, cử người liên lạc và ngầm ủng hộ.
Tiền thân của Cimexcol là một liên
doanh giữa Minh Hải và Thành phố Hồ Chí Minh, được lập ra để hợp tác khai thác
gỗ với Công ty Phát triển miền rừng núi Lào. Trước khi Cimexcol
ra đời, với sự thu xếp của ông Trần Bạch Đằng, ông Lê Văn Bình khi ấy là ủy
viên thường vụ Tỉnh ủy Minh Hải đã gặp báo cáo với Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ
Chí Minh Nguyễn Văn Linh. Năm 1985, Cimexcol ra đời, Minh Hải cử ông Nguyễn
Quang Sang, ủy viên thường vụ Tỉnh ủy, giám đốc Sở Tài chánh, giữ chức giám đốc,
nhưng người điều hành công ty trên thực tế là Dương Văn Ba.
Việc sử dụng ông Dương Văn Ba, theo
ông Đoàn Thành Vị, lúc đó là bí thư Minh Hải: “Anh Lê Quân, nguyên phó bí thư Tỉnh
ủy Sóc Trăng, nói, lúc kháng chiến chống Mỹ, anh Kiệt có phân công anh liên hệ
với Dương Văn Ba. Anh Võ Văn Kiệt nói với chúng tôi, Dương Văn Ba thuộc thành
phần thứ ba, việc làm ăn bây giờ thì tôi không rành nhưng các anh sử dụng được.
Bất cứ ai mà làm ăn phi pháp thì phải ở tù. Anh Kiệt dặn làm ăn với Lào thì phải
lợi ích sòng phẳng, đừng đem kinh nghiệm phá rừng ở Việt Nam sang Lào phá tiếp”.
Bằng cách khai thông những con đường
hiểm trở nhất, đưa gỗ từ Lào qua Vinh xuất khẩu, cả Cimexcol và phía đối tác
Lào cùng kiếm được hàng chục triệu đôla và biến một vùng hẻo lánh cách biên giới
Việt Nam 20km thành một thị trấn nhộn nhịp về sau gọi là thị trấn Lạc Sao.
Vào lúc công việc kinh doanh đang làm
hài lòng cả Chính phủ Lào và chính quyền Minh Hải thì ngày 4-12-1987, Ngô Vĩnh
Hải, tổ trưởng tổ kiều hối của Cimexcol bị bắt. Ngô Vĩnh Hải từng là một phóng
viên của báo Tin Sáng, anh trai của ông là Giáo sư Ngô Vĩnh Long khi ấy đang là
Việt kiều ở Mỹ. Ngày 25-12-1987, Dương Văn Ba bị bắt và sau đó, công an bắt tiếp
các thành viên khác trong ban giám đốc và các trưởng phòng ban của Công ty
Cimexcol.
Cũng trong tháng 12-1987, tại Thành
phố Hồ Chí Minh, chính quyền đưa vụ án “Hoàng Cơ Minh và đồng bọn” ra xét xử.
Hoàng Cơ Minh là phó đề đốc, tư lệnh Vùng II Duyên hải, Hải quân Việt Nam Cộng
hòa, di tản sang Mỹ từ tháng 4-1975. Năm 1981, ông về Thái Lan, lập căn cứ tại
Udon một tỉnh gần biên giới Lào. Năm 1982, ông tổ chức đại hội thành lập Đảng
Việt Tân và Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam. Trong khoảng thời
gian Cimexcol đưa người sang Lào khai thác gỗ, lực lượng Hoàng Cơ Minh tổ chức
nhiều cuộc thâm nhập vào biên giới Việt Nam mang tên “Đông Tiến I”, “Đông Tiến
II”… nhưng tất cả đều thất bại. Hoàng Cơ Minh bị thương và tự sát vào đêm
27-8-1987.
Có thể đã không có vụ án Cimexcol nếu
như tư lệnh cuộc hành quân “Đông Tiến I” không có tên là Dương Văn Tư. Một số bị
can trong vụ Cimexcol đã bị thẩm vấn: “Dương Văn Tư có phải là em ruột của
Dương Văn Ba không?”. Một thành viên của “Ban chuyên án Cimexcol”, ông Tống Kỳ
Hiệp, phó bí thư thường trực tỉnh Minh Hải, thừa nhận: “Vụ án Cimexcol lúc đầu
là vụ án chính trị, khởi tố theo thư từ tố cáo của cán bộ về hưu cũng như đương
chức tỉnh Minh Hải: Dương Văn Ba đưa vào Công ty hơn bốn mươi người của chế độ
cũ, thao túng và vô hiệu hóa ban giám đốc Cimexcol để hoạt động chống cách mạng”.
Trung tướng Võ Viết Thanh, khi ấy là
thứ trưởng Bộ Nội vụ, nói: “Phụ trách an ninh, tôi thấy không có cơ sở nào để
tin Cimexcol sang Lào chuẩn bị chiến khu, làm cơ sở thâm nhập vào Việt Nam. Khi
ấy ai cũng biết ông Võ Văn Kiệt rất ủng hộ nhóm anh em ở Cimexcol hợp tác với
Lào. Trong khi giữa ông Nguyễn Văn Linh và ông Võ Văn Kiệt lại đang có vấn đề.
Ông Linh chỉ đạo ông Lâm Văn Thê trực tiếp làm án. Ông Thê lúc ấy là thứ trưởng
Bộ Nội vụ kiêm giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh”.
Khi không tìm thấy bằng chứng của một
vụ hoạt động chính trị, lẽ ra phải đình chỉ điều tra, vụ Cimexcol lại được chuyển
qua thành vụ án kinh tế. Để có thể xét xử Cimexcol như một vụ án kinh tế, chuyện
Dương Văn Ba “móc nối với một số tư nhân có xe ô tô trốn cải tạo ở Thành phố Hồ
Chí Minh và Đồng Nai về Minh Hải hợp đồng kéo gỗ do Ba làm đại diện từ năm
1979” đã được lật lại. Cho dù Cimexcol “lãi 2,235 triệu đôla và đang có tổng
tài sản trị giá mười ba triệu đôla”, nhưng các cơ quan tố tụng chỉ ghi nhận con
số mà Cimexcol đang nợ ngân hàng - 5,3 triệu đô la - để đánh giá công ty làm ăn
thua lỗ. Việc nhập xe gắn máy “Honda nghĩa địa” với giá từ 180-200 đôla/chiếc về
bán “theo chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh ủy cho cán bộ” với giá từ 400-600 đôla
cũng bị coi là “tội” vì tuy công ty vẫn lãi gấp đôi, gấp ba nhưng so với “giá
thị trường” thì giá bán này của Cimexcol đã gây “thiệt hại 1063 lượng vàng” cho
Nhà nước.
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Minh Hải
Lê Văn Bình, tên thường gọi là Năm Hạnh, đã bị đưa ra trước vành móng ngựa. Báo
cáo trước cuộc họp ngày 9-3-1994 của Ban Bí thư tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông
Tống Kỳ Hiệp nói: “Lúc đầu chọn đưa anh Ba Hùng ra, vì anh Ba Hùng lúc Cimexcol
hoạt động là chủ tịch, nhưng anh Nguyễn Đức Tâm nói: Ba Hùng đã về hưu đưa ra xử
lý không có ý nghĩa, phải chọn người đương chức, nên chọn anh Năm Hạnh. Lúc đó
anh Ba Hương (Lâm Văn Thê), thứ trưởng Bộ Nội vụ, kêu chúng tôi nói với Năm Hạnh
ra tòa đừng nói gì cả, chỉ nhận là thiếu trách nhiệm được rồi, để xử lý bọn kia
thôi. Nhưng anh Năm Hạnh không làm vậy, ra tòa anh còn phát biểu bào chữa cho
Cimexcol”.
Ở thời điểm ấy, ông Năm Hạnh đang là
chủ tịch kiêm trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Minh Hải. Ông vừa tu nghiệp ở
Liên Xô về và khi ấy đang là một cán bộ có nhiều triển vọng. Việc truy tố ông
Năm Hạnh Lê Văn Bình gây ngạc nhiên cho toàn miền Tây.
Đầu thập niên 1970, Năm Hạnh từng là
cánh tay mặt của ông Võ Văn Kiệt. Khi ông Kiệt là bí thư Khu ủy Tây Nam Bộ, Năm
Hạnh là bí thư Khu Đoàn được những cán bộ trẻ của Khu Tây Nam Bộ coi như thần
tượng.
Phiên tòa xử vụ án Cimexcol diễn ra từ
ngày 14 đến 22-4-1989 theo thủ tục kết hợp “sơ chung thẩm”, nghĩa là các bị án
không có quyền kháng cáo. Theo ông Phạm Văn Hoài (Ba Hùng), người tiền nhiệm của
ông Năm Hạnh: “Vì tính chất điển hình, Tòa mời đại diện các tỉnh thành thuộc B2
cũ tham dự rút kinh nghiệm, bố trí lực lượng cảnh sát dày đặc, cả công an chìm
vừa để ngăn chặn biểu tình, vừa để trấn áp. Lãnh đạo cơ quan thông tin đại
chúng đưa tin trước, trong và sau phiên tòa để hướng dẫn dư luận. Hơn sáu mươi
phóng viên báo đài từ trung ương đến địa phương đã có mặt. Riêng tại Minh Hải
thì truyền thanh trực tiếp phiên tòa và truyền hình mỗi đêm. Phải nói tổ chức một
phiên tòa quá đặc biệt”. Tuy nhiên, dư luận thay vì được “hướng dẫn” bởi phiên
tòa đã quay sang chia sẻ rất nhiều với các bị cáo.
Trước phiên tòa, Bộ Thông tin và Tòa
án đã tổ chức họp báo tại Bạc Liêu. Báo chí và dư luận hết sức xôn xao. Tòa
chưa khai mạc, báo Công An Nhân Dân đã cho xuất bản phụ san “Cimexcol trả giá đắt”
đưa xuống bán 5.000 đồng một tờ ở Minh Hải. “Phụ bản đã có nhiều nội dung xuyên
tạc, vu cáo, không những đả kích cá nhân mà còn xâm phạm đến uy tín danh dự của
Đảng bộ và nhân dân Minh Hải. Đặc biệt, do đăng mức án theo dự kiến cho từng bị
cáo trước khi phiên tòa diễn ra nên có những bị cáo như Ngô Vĩnh Hải, án theo
phụ san là ba năm tù, phiên tòa đã tuyên vô tội”.
E-kip truyền hình của Đài Cần Thơ
theo dõi phiên tòa suốt bảy ngày sau đó về biên tập lại thành bảy chương trình
có thời lượng tương đương với 4 giờ 30 phút. Thay vì nói đủ về hai mươi mốt bị
cáo, nhà báo Ngô Hoàng Giang đã xoay quanh ba bị cáo gây tranh cãi nhất tại
phiên tòa. Như tên được đặt cho chương trình, "Buộc tội và Gỡ tội",
trong từng phần, ý kiến của công tố viên và luật sư được tường thuật đối nhau.
Theo bà Ngô Hoàng Giang: “Đồng bằng sông Cửu Long xem xong phản ứng
dậy sóng luôn, Mười Mẫn, chủ tịch tỉnh Cửu Long, khen hết lời còn cấp ủy các địa
phương trong vùng thì rất ủng hộ”. Sau khi theo dõi phiên tòa qua đài truyền
hình, Ban Liên lạc đồng hương Minh Hải ở Hậu Giang, gồm hai mươi cụ đang nghỉ
hưu ở Cần Thơ, gửi thư phản đối phiên tòa. Một số nhà báo ở miền Tây cũng soạn
thảo một lá đơn kiến nghị.
Ngày 20-5-1989, Ban Thường trực Mặt
trận Tổ quốc tỉnh Minh Hải sau khi “tham khảo dư luận xã hội đối với phiên tòa”
đã có một bản báo cáo nói rằng: “Phiên tòa thể hiện thiếu dân chủ ngay từ đầu: Cáo
trạng và luận tội giống nhau, bất chấp diễn tiến công khai xét hỏi và tranh luận;
Cấm không cho báo chí bình luận, cấm không được hoan nghinh khi bị cáo nói
đúng; Báo Công An Nhân Dân đã sử dụng tài liệu của Cục An ninh điều tra bôi nhọ
các bị cáo… đầu độc tâm lý quần chúng, hướng dư luận hiểu sai sự thật. Buộc tội
Lê Văn Bình thiếu trách nhiệm là không đúng, suốt thời gian Cimexcol hoạt động,
Lê Văn Bình chỉ là phó chủ tịch, khi lên chủ tịch thì được đưa đi học ở Liên
Xô, Lê Văn Bình trở về chỉ được bốn tháng thì Cimexcol bị thanh tra; Phiên tòa
đã sử dụng Nguyễn Quang Sang, Thạch Phen để buộc tội Dương Văn Ba nên tạo thời
gian cho họ mặc sức tố Dương Văn Ba trong khi khống chế thời gian bào chữa của
các luật sư và bị cáo”. Báo cáo của Mặt trận Tổ quốc kết luận: “Ở những phiên
tòa khác thì các bị cáo thường bị quần chúng căm ghét, nhưng ở phiên tòa này quần
chúng lại xót thương và phải rơi lệ đối với tội phạm. Quần chúng vỗ tay hoan
nghinh bị cáo, nhứt là với bị cáo Lê Văn Bình”.
Ngày 4-5-1989, ông Võ Văn Kiệt viết
thư gửi Đài Cần Thơ: “Đề nghị các đồng chí gửi cho tôi số băng ghi chương trình
đã phát. Đồng thời các đồng chí sang băng toàn bộ số băng ghi hình để làm tư liệu
của Đài cho tôi mượn”. Khi mang số băng ghi hình này lên cho ông Võ Văn Kiệt,
nhà báo Ngô Hoàng Giang nhớ lại: Có lẽ tình hình rất căng nên khi tôi xin ông
cái biên nhận thì vợ ông, bà Cầm ngăn lại, nhưng ông la bà rồi lấy giấy ra viết
biên nhận cho tôi. Xong, ông dặn: “Tiếp 1989, Văn phòng Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh cũng cử Trợ lý Trương Anh Dũng vào xin các cuộn băng về “vụ án Dương Văn
Ba”.
Ngày 19-5-1989, Ban Bí thư điện cho Bộ
trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin Trần Hoàn về “dư luận sau khi tòa án xử vụ
Cimexcol” và yêu cầu kiểm tra việc đưa tin của Đài Truyền hình Cần Thơ. Bộ trưởng
Trần Hoàn đã cử ông Lê Quý, giám đốc cơ quan thường trú phía Nam, ngay trong
ngày 20-5-1989, xuống Đài Cần Thơ làm việc. Ông Lê Quý đã yêu cầu Truyền hình Cần
Thơ “tạm ngưng tuyên truyền”, cho dù theo Ban Giám đốc Đài thì họ nhận được rất
nhiều thư yêu cầu phát lại và đưa thêm ý kiến.
Ông Lê Quý lưu ý: “Nhiều đồng chí
nói, các buổi tường thuật của Đài cho thấy tòa án của ta yếu quá, kém quá, hỏi
các bị cáo nhiều câu ngớ ngẩn quá. Trong khi đó lời bào chữa của bị cáo chính
và của luật sư thì vững vàng, có lý có lẽ và có tính thuyết phục”. Báo cáo
nhanh ngày 22-5-1989 của ông Lê Quý viết tiếp: “Có thể đó là sự thật, nhưng nếu
kết quả đối với người xem tường thuật vụ án chỉ có vậy thì đúng là cần phải rút
kinh nghiệm”.
Trong hai ngày 29 và 30-5-1989, Ban
Bí thư Trung ương Đảng họp nghe báo cáo “diễn biến trước, trong và sau phiên
tòa Cimexcol". Trong ngày 30-5, Ban Bí thư ra Thông báo 142 do chính Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh ký, khẳng định: “Kết quả phiên tòa xét xử cơ bản là tốt
vì đã xử đúng người đúng pháp luật. Nhưng trước phiên tòa, chung quanh phiên
tòa và sau phiên tòa có những luồng dư luận phủ nhận kết luận của phiên tòa và
có những hoạt động không lành mạnh gây hoang mang trong dư luận”. Ông Nguyễn
Văn Linh cho rằng: “Sở dĩ có tình hình đó là do có những người liên quan đến
can phạm và vụ án đã hoạt động chống lại việc xét xử”.
Ông Linh thừa nhận một số thiếu sót của
các cơ quan tố tụng và: “Yêu cầu làm ngay các việc sau đây: a) Tỉnh ủy Minh Hải
phải có thông báo đánh giá tính chất, hậu quả của vụ án, rồi đăng lên các báo
khẳng định: tòa xử là đúng không phải Trung ương trù dập Minh Hải như một số dư
luận loan truyền; b) Ban Tư tưởng-Văn hóa làm việc với một số trưởng ban tuyên
huấn của một số tỉnh thành phía Nam và một số báo, đài để thông tin rõ cho chị
em hiểu, không phải như những dư luận không đúng đã và đang loan truyền; kiểm
điểm và xử lý nghiêm khắc một số cá nhân cố ý đưa tin, viết bài, quay phim một
cách lệch lạc (chú ý kiểm điểm Đài Cần Thơ, Đài Truyền thanh và báo Minh Hải,
báo Công An Nhân Dân). Hướng ngay báo đài viết một số bài về vụ án”.
Ngay sau đó, đích thân Thứ trưởng Bộ
Văn hóa-Thông tin Lê Thành Tâm dẫn đầu các đoàn làm việc xuống kiểm điểm Đài Cần
Thơ và nhà báo Ngô Hoàng Giang. Bà Giang nhớ lại: “Họ đặt ra cho tôi một loạt
câu hỏi: tại sao đặt tên chương trình là “buộc tội và gỡ tội”, tại sao tường
thuật phiên tòa lại quay cảnh nhân dân ngồi dưới loa nghe các bị cáo nói rồi
khóc, tại sao quay hình ảnh bị cáo, luật sư thì đẹp còn tòa viện thì tối um…”.
Cho dù bà Ngô Hoàng Giang giải trình ra sao thì trước chỉ thị của tổng bí thư,
Đài Truyền hình Cần Thơ cũng phải nhìn nhận là đã “đưa tin phiến diện, một số
câu hỏi sắc sảo của Viện Kiểm sát, của Tòa đã không được tường thuật”.
Phó Giám đốc Đài Cần Thơ Trần Quang Mẫn
bị khiển trách vì “chủ quan, tin ở cán bộ biên tập”. Phó Giám đốc Châu Ngọc Tiếp
bị cảnh cáo vì “đã theo dõi phiên tòa, hiểu vấn đề phức tạp nhưng thiếu tinh thần
trách nhiệm”. Phó Phòng Thời sự Ngô Hoàng Giang bị cách chức vì “vi phạm tính
chân thật của báo chí cách mạng”. Ngày 10-6-1989, Tỉnh ủy Minh Hải cũng phải
cho ra Thông báo số 19, yêu cầu: “Cán bộ, nhân dân Minh Hải cần tỉnh táo, nhận
thức đúng đắn kết quả phiên tòa, cảnh giác các luận điệu của bọn xấu khai thác
sơ hở thiếu sót của phiên tòa để phủ nhận kết quả phiên tòa hoặc gây chia rẽ,
phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Việc tổng bí thư phải chủ trì hai
ngày họp Ban Bí thư và đích thân ký vào Thông báo 19 cho thấy ông Linh hiểu
tính nghiêm trọng của dư luận xã hội. “Phủ nhận kết quả phiên tòa Cimexcol” là
thách thức trực tiếp tới uy tín của ông ở vùng đất mà ông đã từng là bí thư
Trung ương Cục. Lúc ấy, ông Linh có đủ quyền bính để kỷ luật các nhà báo không
đưa tin về phiên tòa theo định hướng của ông.
Tuy nhiên, càng có nhiều nạn nhân ở
miền Tây thì lòng trắc ẩn đối với những người như ông Năm Hạnh, Dương Văn Ba
càng dâng lên; đội ngũ cán bộ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long trước đó kỳ vọng
vào cả ông Linh giờ đây nghiêng sang gửi gắm niềm tin của họ vào vai trò của
ông Kiệt. Ông Dương Đình Thảo kể: “Khi ông Linh điều tôi từ Thành phố ra trung
ương giúp việc cho ông, tôi nói: tôi ra phục vụ anh nhưng tôi đề nghị, nếu anh
thương Nam Bộ thì phải thương Sáu Dân. Ông Linh trả lời: thương thế nào được,
tôi cứu nó bao lần rồi. Tôi bảo: anh nhớ là anh em người ta thương anh nhưng
người ta cũng rất thương anh Kiệt”.
Hai tính cách
Vụ Cimexcol gây sứt mẻ không ít tình
cảm giữa ông Kiệt, các đồng đội cũ ở miền Tây với ông Linh, đặc biệt là những
người đã từng gắn bó với ông Kiệt, ông Linh và vợ ông, bà Bảy Ngô Thị Huệ. Một
bên là chồng một bên là bạn bè, đồng đội, bà Bảy Huệ là người day dứt nhất. Ông
Kiệt là người đồng hương Vĩnh Long và vẫn được bà Bảy Huệ coi như một người em
trai. Ông Kiệt cũng đã từng là người kế nhiệm ông Linh cả trước và sau chiến
tranh.
Năm 1960, sau ba năm thay thế ông
Linh làm bí thư Khu ủy Sài Gòn-Gia Định, tại Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động
Việt Nam, ông Kiệt được chính ông Linh giới thiệu và được bầu làm ủy viên dự
khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong thời gian hai ông chiến đấu ở miền
Nam, bà Bảy Huệ đã chăm sóc Võ Dũng, rồi Võ Hiếu Dân, hai người con của ông Kiệt
với người vợ đầu, bà Trần Kim Anh. Cũng chính bà Bảy Huệ đã tìm gặp Phan Thanh
Nam, đứa con lưu lạc của ông Kiệt với bà Hồ Thị Minh. Sau vụ Cimexcol, Trần Bạch
Đằng sang nhà gặp bà Bảy Huệ, sau khi văng tục theo kiểu Nam Bộ, ông Đằng nói:
“Đành rằng làm chính trị là phải thủ đoạn. Nhưng làm chính trị thì cũng phải có
tình nghĩa, bạn bè chứ”.
Về sau, khi nhắc lại những xung đột
giữa hai người, bà Bảy Huệ nhận xét: “Mỗi người đều có cái ưu, ông Sáu là người
dám rẽ sóng ra khơi xa, dám chịu trách nhiệm. Nhưng mỗi ông cũng có cái nhược.
Ông Sáu thì Nam Bộ phóng khoáng. Ông Mười thì kỹ lưỡng Bắc Kỳ, nội chuyện ông
Sáu lấy vợ, ông Mười cũng không chịu”.
Bà Bảy Huệ đã chỉ ra điểm khác nhau
tiêu biểu nhất. Nhưng, không chỉ xuất thân từ hai vùng văn hóa, từ hoàn cảnh
vào đời, con đường đến với những người cộng sản, đến chuyện lấy vợ, đối xử với
anh em, đồng chí của ông Linh, ông Kiệt đều có nhiều điểm khác nhau. Đặc biệt,
càng về sau, cách đánh giá thời cuộc của hai ông càng có nhiều khoảng cách, sự
khác biệt này có khi thể hiện trong nhiều quyết sách, có khi xảy ra một cách ngấm
ngầm, chỉ những người ở rất gần mới thấy.
Lớn hơn ông Võ Văn Kiệt bảy tuổi, ông
Nguyễn Văn Linh sinh ngày 1-7-1915 tại xã Giai Phạm, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng
Yên. Phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, bà Ngô Thị Huệ kể: “Cha anh là cụ
Nguyễn Đức Lan làm nghề dạy học, mẹ tảo tần buôn bán kiếm thêm chút đỉnh tiền
phụ vào đồng lương ít ỏi của chồng. Lên bốn tuổi anh đã mồ côi cha. Gánh nặng
nuôi nấng dạy dỗ ba chị em của anh đè trĩu lên đôi vai gầy của mẹ. Năm mười một
tuổi anh theo bà và chú Thụ về sống ở Hải Phòng và được chú gởi vào học trường
Bonnal, trường trung học đầu tiên ở Hải Phòng do người Pháp mở”.
Ngay từ khi còn học lớp nhì, ông Nguyễn
Văn Linh đã được đọc những tác phẩm văn chương bằng tiếng Pháp như “Những Người
Khốn Khổ”, “Không Gia Đình, được học tại nhà với thầy Thế Lữ. Từ trong trường
Tây, ông Nguyễn Văn Linh đã được nghe một ông thầy người Việt, đóng cửa lớp, đọc
cho học sinh nghe những bài báo viết từ Paris của Nguyễn Ái Quốc. Mười bốn tuổi
tham gia Học sinh Đoàn của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Mười lăm tuổi bị
bắt khi đang đi rải truyền đơn, bị kết án chung thân và đày đi Côn Đảo. Từ năm
1930 đến năm 1936, ông Linh bị giam chung “Banh 1” và được giao phụ việc cho
người tù lớn tuổi Tôn Đức Thắng. Tại đây, ông học thêm tiếng Pháp từ các đồng
chí của mình và bắt đầu tiếp xúc với các tác phẩm của Marx-Lenin qua số sách
báo mà một “thủy thủ Pháp tiến bộ” cung cấp cho tù nhân Phạm Văn Đồng.
Cho tới lúc ấy, ông Kiệt vẫn chưa một
ngày rời khỏi đồng quê, chưa nghe tới hai từ “cộng sản”. Trước khi “làm cách mạng”,
ông Kiệt chỉ mong kiếm được nghề lơ xe hay cắt tóc để thoát khỏi cảnh chân lấm
tay bùn và làng quê tù túng. Thời ấy, những người dân quê ông, thấy ai nói giọng
Đàng Ngoài đều cho là “đám người Huế”.
Ông Võ Văn Kiệt sinh ngày 23-11-1922
tại ấp Bình Phụng, xã Trung Lương, huyện Vũng Liêm, Vĩnh Long. Trong ấp lúc ấy
chỉ có vài hương chức có nhà ngói, dân làng phần lớn phải thuê đất, thuê ruộng.
Cha ông, ông Phan Văn Dựa, cũng nghèo như số đông trong làng, từ đất ở, đất ruộng,
đến trâu cày đều đi thuê hết.
Tên khai sinh của ông Võ Văn Kiệt là
Phan Văn Hòa, con út trong một gia đình có năm anh trai và hai chị gái. Gọi
theo thứ bậc trong các gia đình Nam Bộ là Chín Hòa. Thời gian ấy, mẹ ông, bà Võ
Thị Quế, phải nuôi thêm đứa trẻ cho một người bà con nên chấp nhận để Chín Hòa
làm con nuôi một ông chú họ tên là Phan Văn Chi, không con, không vợ.
Từ năm lên sáu, lên bảy tuổi, vào mùa
gặt, Chín Hòa thường theo cha nuôi lênh đênh đi gặt mướn cho các điền chủ dọc
sông Tiền, sông Hậu. Công việc của cậu là giữ ghe hoặc mót lúa. Mỗi mùa như thế,
Chín Hoà cũng kiếm thêm cho cha nuôi được vài giạ. Sông nước miền Tây, khắp Cà
Mau, Bạc Liêu cậu rành từ hồi đó.
Năm tám tuổi, Chín Hòa bắt đầu được
đi học. Lớp học do những gia đình trung nông, địa chủ, sau ngày mùa, cất trại,
rước thầy về “dạy mùa” và gần như không lấy tiền của con trẻ. Ông Hai Mẹo, một
trong hai người thầy “dạy mùa” của ông, kể: “Năm 1932, lấy được mảnh bằng, tôi
về làng, ông chú thấy tôi có chữ, kêu tôi dạy cho trẻ con lối xóm. Chín Hòa
thông minh và ăn nói lễ độ lắm. Nhưng dạy được hai năm thì tôi cũng hết chữ, rồi
thôi”. Mấy năm sau, những người truyền giáo cho cất một trường học nhỏ dọc theo
con đường đi qua ấp Bình Phụng. Ông Hai Chi thấy Chín Hòa khát chữ lại nhân có
trường, ông nói: “Cho mày đi học tiếp”. Những lớp học ở làng không đưa lại cho
Chín Hòa bằng cấp nhưng đã giúp cậu đọc thông viết thạo.
Khi tham gia hoạt động, Chín Hòa đã lấy
họ Võ của mẹ rồi tự chọn tên cho mình, cái tên mà về sau thành danh: Võ Văn Kiệt.
Con đường làm cách mạng của Chín Hòa cũng rất tình cờ. Trong đám giỗ 100 ngày của
mẹ, cậu gặp ông Hà Văn Út, nghe ông Út nói với mấy anh lớn chuyện áp bức, chuyện
bình đẳng. Chín Hoà nghe, cứ như nuốt từng lời. Ông Út để ý, lần sau về tìm cậu.
Sau vài lần gặp, Chín Hoà bắt đầu được giao việc: vừa kết hợp gặp các anh chị,
vừa đưa tài liệu.
Những ngày hoạt động ấy đã biến Chín
Hòa trở thành một con người khác. Ông Hai Mẹo nhớ lại: “Mới mười mấy tuổi, chả
họp dân, nói, ai cũng há hốc mồm nghe. Chả vận động đi cướp chính quyền, người
ta xách rựa đi hết”. Năm 1940, Quận ủy Vũng Liêm chủ trương làm một cuộc mít
tinh thật vang dội để “bắt mạch phong trào” chuẩn bị “khởi nghĩa”. Diễn giả
chính trong cuộc mít tinh là chị Năm Hồng, 20 tuổi, bí thư Quận ủy. Chị Năm Hồng
nói về tương lai mỗi nông dân sẽ có được một mảnh ruộng của mình, dân chúng
nghe, ai nấy đều sung sướng.
Ông Kiệt lúc đó là bí thư xã được
phân công học thuộc một bài do trên gửi xuống về “thanh niên phản đế”. Khi nói
đến “đánh đuổi đế quốc thực dân, đánh đổ phong kiến địa chủ, giành bình đẳng tự
do”, thanh niên bật dậy, hô to khẩu hiệu. Quần chúng cảm tình Đảng và những đảng
viên trẻ hát vang “Bài ca Xích vệ”. Sau cuộc mít tinh đó, tề xã báo lên quận,
quận xuống, lùng vô Đìa Chảo, thấy “mấy mươi công đất cỏ lác bị giẫm nát”.
Chính quyền sửng sốt trước cuộc mít tinh. Dân chúng thì xôn xao về vụ “cộng sản
diễn thuyết quốc sự”.
Ông Võ Văn Kiệt cũng chính là một
trong những người chỉ huy cuộc dấy binh đêm 23-11-1940 ở Vĩnh Long: Đêm “Cộng sản
dậy”, theo cách nói của dân chúng lúc đó, và “Nam Kỳ khởi nghĩa” theo cách gọi
của lịch sử Đảng Cộng sản sau này.
Đêm đó, ông Kiệt - mười tám tuổi - dẫn
lực lượng hai xã gần trăm người đi “lấy” đồn bắc Nước Xoáy. Anh em, toàn thanh
niên, trong tay chỉ có giáo mác, gậy gộc và một ống loa làm bằng thùng sắt. Khi
những người “khởi nghĩa” xáp vô, lính canh đồn đang ngủ trở tay không kịp. Đoàn
quân vây bắt lại, tước súng, phân công người xuống đục chìm phà. Một số anh em
lấy giáo mác chặt đứt hết dây thép, cắt đường thông tin, ông Kiệt trèo lên cổng
đồn, bắc loa kêu gọi đồng bào “nổi dậy đánh đổ ách thống trị của thực dân đế quốc,
phong kiến địa chủ”.
Lấy xong đồn Bắc Nước Xoáy đội quân của
ông Kiệt ung dung lắm, đinh ninh giờ đó, Sài Gòn, thị xã Vĩnh Long cũng đều đã
“cướp chính quyền”. Nhưng đêm ấy Sài Gòn không “khởi nghĩa”, Vĩnh Long cũng
không. Sau này, những người còn sống nghe nói: “Trung ương phân tích tình hình,
ra lệnh ngừng cuộc khởi nghĩa”. Nhưng chính ông Quảng Trọng Hoàng, bí thư Liên
Tỉnh ủy, cũng không biết.
Ông Kiệt nhớ lại: Khi trời vừa hửng
sáng, thấy xe từ Vĩnh Long chạy xuống, chở toàn lính! Hết xe này đến xe khác.
Biết Vĩnh Long hỏng. Anh Hoàng nói: “Ta không đối phó nổi rồi”. Các nghĩa binh
bảo nhau chôn mấy khẩu súng vừa lấy được, hóa trang, trở ra. Lúc đó, khắp xóm
làng dậy lên tiếng trống, tiếng mõ kêu “bắt cộng sản”. Anh Hoàng bảo: “Tụi bây
về nhà rồi tìm cách bắt liên lạc sau”.
Ông Kiệt về làng mới biết đồng đội
theo ông đi đánh đồn chỉ lẻ tẻ còn đôi ba người về tới nơi. Số đông bị bắt, bị
giết, trong đó có người anh thứ ba của ông. Người dân hết sức hoang mang, nhiều
người oán trách nghĩa binh, nhất là sau khi Quận ra lệnh đốt hết ấp Bình Phụng
vì những người bị bắt khai ra “ổ cộng sản” bắt đầu từ đây. Các ấp mà Quận cho
là “làm loạn” khác đều lần lượt bị đốt.
Hai cuộc hôn nhân
Sự khác nhau giữa ông Võ Văn Kiệt và
ông Nguyễn Văn Linh còn thể hiện rất rõ trong tình cảm riêng tư. Trong chuyện lập
gia đình, ông Võ Văn Kiệt cũng là người “xé rào”.
Ông Võ Văn Kiệt gặp người vợ đầu tiên
của mình ở rừng U Minh. Năm ấy, ông hai mươi bảy tuổi, đang là ủy viên thường vụ
Tỉnh ủy Rạch Giá. Ông Kiệt nhớ lại: “Chị em cán bộ, đảng viên cùng chiến đấu
cũng có quan tâm chạy lo giới thiệu. Mấy chị bảo, cán bộ lãnh đạo của Đảng, vợ
con cũng phải cán bộ, đảng viên. Cho dù ở trong Nam không nặng lắm về thành phần
nhưng các chị cũng muốn vợ con phải là ‘người đồng hành cùng lý tưởng’. Tôi bảo:
lấy vợ chứ có phải lập chi bộ đâu. Khi đó, tôi đã bắt đầu để ý một cô gái không
những không phải đảng viên mà còn là con của một người có gốc là địa chủ”. Cô
gái đó là Trần Kim Anh, con thứ sáu của ông bà Trần Quang Quy và Nguyễn Thị Tạo.
Cuộc hôn nhân cũng có nhiều sức cản,
kể cả phía tổ chức. Nhiều người không đồng ý cho ông Kiệt cưới con địa chủ, dù
là địa chủ đã hiến gần hết đất cho cách mạng. Ông Trần Quang Hiến, anh trai kế
của bà Trần Kim Anh, kể: “Trước năm 1945, cha tôi có 300 mẫu ruộng và một nhà
máy xay lúa ở Ngã 5, thuộc làng Tân Long, quận Long Mỹ, tỉnh Rạch Giá, cũng
thuê mướn nhân công nhưng chủ yếu là tự làm. Ở miền Tây có 300 mẫu ruộng vẫn được
coi là địa chủ nhỏ. Năm 1945, anh Năm tôi tham gia Thanh niên Tiền phong rồi
sau vào Quốc gia Tự vệ cuộc. Khi Tây tấn công Ngã Năm, anh tôi đem thiết bị máy
móc về, đốt nhà máy xay, đốt chợ Ngã Năm theo chủ trương ‘tiêu thổ kháng chiến’.
Từ đó, cả nhà theo kháng chiến luôn”.
Đầu năm 1946, Tây chiếm hết Rạch Giá.
Giữa năm đó, Việt Minh mới tổ chức lại, đánh rát. Tây bỏ Ngã Năm, U Minh giải
phóng. Theo ông Trần Quang Hiến: “Năm 1949, ông già ‘hiến điền’ hết, chỉ chừa lại
phần đất thừa kế của ông nội, chừng ba mươi mẫu. Em gái kế tôi, Trần Thị Kim
Anh, sinh năm 1932, cũng bắt đầu tham gia các lớp bình dân học vụ. Trước năm
1945, cô Bảy - ông Hiến gọi em gái theo thứ bậc của người miền Nam - đã học hết
lớp 3 (élémentaire); sau 1945, ông già rước thầy về dạy thêm, cô cũng có tham
gia một số hoạt động phụ nữ. Cô Bảy gặp ông Kiệt trong một lần ông đi thăm mấy
trường học. Khi đó, cơ quan của ông Kiệt cũng đóng ở gần nhà”.
Ông Kiệt nhớ lại: “Nhà tôi khi ấy vừa
bước qua tuổi mười bảy, hiền lành, ít nói nhưng cũng rất chính kiến. Là con gái
áp út xinh đẹp, gia đình cũng muốn tìm nơi tương xứng để gả. Nhưng bả cứ kiên
quyết với mình. Sau gia đình cũng cưng con nên chiều theo ý”.
Ông Trần Quang Hiến kể tiếp: “Anh Tư
tôi không muốn em gái lấy ông Kiệt. Thuở ấy ông Kiệt mặc bộ đồ bà ba đen, quấn
khăn rằn, rất đẹp trai. Nhưng, ông ấy làm gì thì nhà cũng không rõ. Bạn bè anh
Tư tôi toàn người khá giả, ảnh cũng muốn em mình có nơi, có chốn, đặng nương tựa
được. Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến quận Ngã Năm lúc đó là ông Lưu Văn Lai,
con rể chú ruột tôi. Ông Kiệt nhờ ông Lai đi nói chuyện giùm. Gia đình cũng muốn
xem mặt. Một hôm, trên đường lên Quân khu IX, tôi và ba tôi ghé nhà ông Lai, gặp
khi ông Kiệt đang ở đó. Ông Kiệt ra chào hỏi, ông Lai nói, đây là người muốn hỏi
chị Bảy. Xong bữa đó, khi xuống ghe về, ông già tôi nói: ‘Tao thấy thằng đó được,
nhân trung sâu, nhân hậu. Người như vậy là trước sau như một. Nhưng, không biết
gia thế nó thế nào’. Tôi bảo: ‘Gia thế nghèo, dân kháng chiến thôi, ba ơi’. Ba
tôi nói: ‘Thôi, không kể giàu nghèo’.
Đám cưới tổ chức đơn giản, do gia
đình bên vợ bỏ tiền ra lo hết. Theo ông Trần Quang Hiến: “Tôi lấy gạo nhuộm
xanh, nhuộm đỏ, rắc lên tấm kiếng thành chữ Tổ quốc rồi dựng bàn thờ Tổ quốc
trước nhà. Cô Bảy và dượng Bảy đứng một bên, ông già tuyên bố tác hợp vợ chồng.
Ông Tư Trí, hương chủ, làm chủ lễ bên trai, ông già tôi làm chủ lễ bên gái.
Cùng dự có ông Nguyễn Thành Nhơn, khi ấy là chủ tịch Ủy ban Cách mạng tỉnh Rạch
Giá và một số cán bộ Việt Minh. Cô dâu mặc áo bà ba, chú rể cũng mặc áo bà ba.
Tôi nhớ khi đó trời khô ráo, khoảng chừng trước tháng 11 Âm lịch năm 1949”.
Mối tình của ông Nguyễn Văn Linh và
bà Ngô Thị Huệ lại diễn ra hoàn toàn khác. Thay cho những kỷ niệm lãng mạn, họ
đến với nhau như một ví dụ tiêu biểu cho sự “đồng hành cùng lý tưởng” của những
người cộng sản.
Bà Bảy Huệ kể: “Lần đầu gặp anh là
lúc anh từ Côn Đảo trở về. Lần thứ hai, anh ra đón tôi tại ga xe lửa Sài Gòn
sau khi tôi đi dự Kỳ họp Quốc hội khóa đầu tiên ở Hà Nội. Tránh sự dòm ngó của
bọn mật thám, tôi đi sau anh một khoảng cách khá xa. Tôi đã thoáng nghĩ về anh:
một người đồng chí chín chắn, trầm tĩnh, tự tin. Anh mặc chiếc quần cụt màu
đen, áo sơ mi trắng ngắn tay, hai vai đã sờn và có lẽ chiếc áo sờn vai đó đã đi
vào lòng tôi. Sau này mới biết anh đã để ý tôi ngay từ buổi đầu gặp mặt và sau
một thời gian anh viết thư ngỏ ý thương tôi”.
Tổ chức đã tham gia tác thành cuộc
hôn nhân này bằng cách điều bà Ngô Thị Huệ về Sài Gòn bổ sung vào Thành ủy.
Không có những cuộc hò hẹn “công viên, ghế đá”, họ chỉ gặp nhau qua những lần hội
họp, học nghị quyết. Theo bà Bảy Huệ, trong một cuộc họp như thế ông Linh ngỏ ý
muốn gặp riêng bà. Ngay cả trong giây phút riêng tư này, họ cũng hành động như
những người đồng chí. Bà Bảy Huệ kể: “Chúng tôi đứng nói chuyện với nhau trên
gác thượng. Nhìn xuống đường thấy mấy người ăn xin lê lết, tôi buột miệng nói với
anh: ‘Còn có những người như thế này, mình mới thoát ly gia đình đi làm cách mạng’.
Biểu thị sự đồng tình, anh nói: ‘Đúng vậy. Lầm than, bất công phải được xóa bỏ.
Chúng mình hi sinh, đấu tranh là nhằm giải phóng đất nước, đem lại công bằng hạnh
phúc cho dân’. Anh thường tâm sự: ‘Hai chúng mình thuộc tầng lớp nghèo, đều có
trải qua tù tội, thấm thía nỗi đau của riêng mình nằm trong nỗi đau của dân tộc,
những điểm giống nhau đó sẽ giúp chúng qua tù tội, thấm thía nỗi đau của riêng
mình nằm trong nỗi đau của dân tộc’.
Bà Bảy Huệ viết: “Sau lễ cưới, chúng
tôi đưa nhau về Rạch Chanh, ở đây có sẵn mấy căn nhà nhỏ vừa được dựng lên làm
chỗ nghỉ ngơi cho đại biểu về họp hội nghị. Tôi nhớ như in, đêm đó mười bốn
trăng tròn vạnh, ánh trăng tràn qua cửa sổ vẽ thành những vệt sáng trải dài
trên vách. Bên hè, theo từng cơn gió thoảng, những tàu lá chuối đong đưa xào xạc
như múa nhảy chan hòa niềm vui hạnh phúc của hai chúng tôi”.
Trong khung cảnh lãng mạn ấy của đêm
tân hôn, bà Bảy Huệ viết: “Gà đã gáy sáng mà câu chuyện tâm tình như chưa dứt
được. Khi anh nhắc đến nỗi cơ cực của thời thơ ấu, chúng tôi đã không cầm được
nước mắt. Trả lời câu tôi hỏi: “Nghe nói người cộng sản không biết khóc mà?” Anh
nói: Có chứ! Người cộng sản nếu khác người thường là khác ở chỗ biết lúc nào phải
lau nước mắt”.
Theo bà Bảy Huệ, từ khi lấy nhau cho
tới khi có ba mặt con, “chưa bao giờ vợ chồng được chung sống với nhau quá nửa
tháng”. Chia ly và chờ đợi không phải là câu chuyện của riêng vợ chồng ông Nguyễn
Văn Linh mà thực sự là một hy sinh lớn lao của những người phụ nữ có chồng theo
cộng sản.
Ở Việt Bắc
Cưới vợ chưa được bao lâu, ông Võ Văn
Kiệt được điều xuống Bạc Liêu làm phó Bí thư Tỉnh ủy. Tháng 6-1950, ông được cử
ra Việt Bắc dự Đại hội Đảng lần thứ II. Theo ông Trần Quang Hiến: “Dượng Bảy đi
khi cô Bảy có bầu thằng Dũng chừng bốn, năm tháng. Dượng Bảy về thì thằng Dũng
đã biết đi. Lúc ấy tôi nhớ vào độ đầu năm 1953. Hôm đó, cả nhà đang tụ họp làm
bánh xèo, cô Bảy đang quét sân gạch phía sau. Tôi nhìn ra rặng trâm bầu, thấy một
người đi rất nhanh vô bàu sen. Dượng Bảy. Dượng mặc bộ đồ vải ta, nhuộm lá ổi,
lá trâm bầu, màu mốc. Cô Bảy nhìn thấy, liệng cái chổi, chạy vô buồng ôm mặt
khóc. Tôi bước ra ôm lấy dượng. Còn chị tôi thì bảo: vô buồng hỏi thăm nó đi.
Chiều đó, cả gia đình ai cũng mừng rớt nước mắt. Mấy năm trời, dượng đi, không
thư từ, không ai biết ở đâu, làm gì, còn hay mất”.
Sau Đại hội II, ông Võ Văn Kiệt ở lại
dự lớp “Hoa Nam” do trường Nguyễn Ái Quốc III mở tại xã Kim Bình, huyện Chiêm
Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Lớp do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, Trường Chinh, Võ
Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh giảng dạy. Một số cán bộ vừa tập huấn ở Hoa Nam,
Trung Quốc về tham gia hướng dẫn thảo luận, thấy lý lịch Võ Văn Kiệt là bần
nông, có đi ở đợ, rất “cốt cán”, thích lắm.
Các thầy chọn ông tham gia một tiết mục
kịch, ông vào vai địa chủ. Đêm diễn vở kịch đó, có Tổng Bí thư Trường Chinh dự.
Ông Kiệt nhớ lại: Mặc dù được liệt vào loại “gan to”, nhưng có ông Trường
Chinh, ông cũng thấy “ớn” lắm. Trước khi bắt đầu, ông Kiệt phải xung phong làm
một màn múa lân cho nóng người để lấy can đảm. Hết vở kịch, các khách mời đều
khen, động viên. Ông Trường Chinh bắt tay ông: “Đồng chí diễn khá lắm, nhưng đấy
là địa chủ Nam Bộ chứ không phải địa chủ Bắc Bộ”.
Ông Kiệt lúc ấy không hiểu hết lời nhận
xét của ông Trường Chinh, quan điểm giai cấp của ông không hình thành từ chủ
nghĩa Marx-Lenin mà từ kinh nghiệm của những ngày đi ở đợ. Ở Nam Bộ ông thấy:
giàu hay nghèo thì cũng có người tốt, người xấu; người giàu cũng có người rộng
rãi, người keo kiệt; tá điền cũng có người ngay thẳng, có người ton hót, hại
nhau. Địa chủ sau cùng mà Chín Hòa làm thuê là ông Mười Phái, người đứng đầu hội
bóng đá trong xã, nơi Chín Hoà một thanh niên phải đi ở đợ - cũng được tham gia
bó lá chuối làm banh. Mỗi khi Chín Hoà xay lúa, giã gạo, “địa chủ Mười Phái”
còn lên phụ.
Năm 1950, ông Lê Đức Thọ và ông Lê
Toàn Thư từ Xứ ủy Nam Bộ xuống Tỉnh ủy Rạch Giá trao quyết định giao ông Võ Văn
Kiệt làm bí thư tỉnh ủy thay ông Nguyễn Thành Nhơn chỉ vì ông Nhơn là địa chủ,
ông Kiệt không chịu. Ông Lê Đức Thọ nói: “Hoặc là cậu làm bí thư, hoặc là cậu
chịu kỷ luật?”. Ông Kiệt đã nhận kỷ luật Đảng cảnh cáo thay vì đồng ý với lý do
kỷ luật ông Nhơn. Ông Kiệt nói với mấy thầy trợ giảng ở lớp Hoa Nam: “Tôi biết
địa chủ Nam Bộ, ở miền Nam không có Bạch Mao Nữ”.
Một trong những thầy trợ giảng của lớp
chỉnh huấn, ông Đào Nguyên Cát, nhớ lại: “Tôi được phân công giúp anh Kiệt tìm
‘tư tưởng chủ đạo’. Theo những gì tôi được học ở lớp ‘chỉnh phong’ bên Hoa Nam,
Trung Quốc thì vào Đảng, phải giác ngộ lập trường giai cấp công nhân. Do đó, mỗi
người, phải tìm xem ‘lập trường cũ’ của mình là gì để mà từ bỏ. Khẩu hiệu viết
trên tấm băng đen của lớp chỉnh huấn nhấn mạnh: thành khẩn bộc lộ khuyết điểm của
mình là thước đo độ trung thành với Đảng. Kết quả, anh Kiệt ‘thành khẩn’ nhận:
Khi vào Đảng anh mới chỉ vì để ‘giải phóng dân tộc’ chứ chưa phải vì ‘giai cấp’,
cũng có lúc anh ‘dao động’, ‘nhận thức không rõ ràng về tội ác của địa chủ’ là
một ví dụ. Nên tôi kết luận: tư tưởng chủ đạo của anh Kiệt là ‘tiểu tư sản’ dù
anh là con của một người bần nông”.
Khi cùng Đại tá Trần Tấn Nghĩa, một
người bạn học ở các lớp Hoa Nam, về lại Việt Bắc, ông Võ Văn Kiệt
đã nói với ông Trần Tấn Nghĩa: “Mày nhớ những gì học hồi đó không? Lớp mà tao
và mày học là sai lầm, mày ạ”. Có lẽ sự nghiệp của ông Võ Văn Kiệt đã khác nếu
như trong thời gian ở Chiêm Hóa, ông không phạm khuyết điểm quan hệ nam nữ, khiến
ông không thể đến Hoa Nam đào tạo tiếp.
Ở Đại hội II, ông Trần Tấn Nghĩa là đại
biểu dự khuyết. Khi về trường, ông Nghĩa là trưởng Ban An ninh. Hơn một năm ở
Chiêm Hóa, hai người chơi rất thân với nhau. Công việc mà các học viên thích
hơn là đi qua thị trấn Chiêm Hóa ra bến đò vác gạo. Mặc dù theo quy định của
nhà trường, các học viên phải chấp hành “ba không: không nghe, không biết,
không thấy”. Nghĩa là, theo ông Nghĩa: “Đi qua không được nhìn vào thị trấn.
Nhưng, đi vác gạo cũng vui. Kiệt cũng rất dí dỏm. Một lần, theo đoàn có cô Xuyến,
tôi đùa: cậu vác gạo hộ Xuyến đi. Kiệt cười: bỏ cả bà Xuyến và gạo lên thì tôi
cõng”. Ông Nghĩa kể: “Chúng tôi là cán bộ cao cấp đi học mà không có đồng cắc
nào cả. Gần cây đa nước chảy có một quán nước của một cô gái khá xinh tên là Hạ.
Chúng tôi gọi quán cô Hạ là ‘máy chém cây đa nước chảy’. Cạnh đấy có một con suối,
chảy từ sông Gâm vào, nam nữ đều ra suối tắm, trong số đó có cô Hồ Thị Minh”.
Bà Hồ Thị Minh là chủ bút đầu tiên của
tờ Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ, bà đã từng được cử sang Pháp dự Hội nghị Femmes Francaises.
Bà Ngô Thị Huệ kể: “Minh biết mấy ngoại ngữ, trẻ trung xinh đẹp. Xứ ủy có ý định
đưa Minh ra miền Bắc giúp việc bác Hồ. Thời gian ở đại hội, Minh được bố trí nằm
ở cuối lán nữ, cách một bức vách nứa đan là lán nam nơi Bác ở. Qua cái vách đó
hai người nói chuyện với nhau khá nhiều”.
Năm ấy ông Hồ Chí Minh đã sáu mươi mốt
tuổi. Hồ Thị Minh mới ngoài hai mươi. Theo ông Trần Tấn Nghĩa: “Ở trường, trong
các sinh hoạt buổi tối, Vũ Quang hay dạy nhảy Valse. Tôi để ý thấy Kiệt toàn nhảy
với Minh. Thỉnh thoảng đi tuần đêm tôi cũng bắt gặp hai người ngồi với nhau
ngoài bờ suối”. Năm ấy, ông Võ Văn Kiệt đang là một chàng trai hai mươi chín tuổi,
ở nơi thâm sơn đó đã hơn một năm. Bà Hồ Thị Minh dính thai. Ông Nghĩa kể: “Hai
đứa không dám nói với ai. Mỗi khi Minh thèm chua tôi lại đi tìm quả nhót cho cô
ấy”.
Khi biết sự tình, Văn phòng Trung
ương đã kín đáo bố trí cho bà Hồ Thị Minh sinh con. Ông Kiệt kể: “Năm 1952, trước
khi về Nam tôi có đi thăm cháu. Hôm ấy mẹ cháu cũng tới gặp tôi. Khi về Nam,
tôi nói hết với nhà tôi. Cô ấy khóc và nhắc tôi phải tìm cách đưa con về”.
Bà Trần Kim Anh
Trong thời gian ông Võ Văn Kiệt ra Bắc,
bà Trần Kim Anh vẫn sống với gia đình bên ngoại. Ông Trần Quang Quy sai đứa
cháu nội là Trần Quang Minh, năm ấy chín tuổi, đi theo phụ giúp cô Bảy. Ba của
Minh là ông Trần Tấn Khả, từng tham gia Thanh niên Tiền Phong”, năm 1946 bị Tây
bắn chết.
Đó là một thời kỳ vất vả của cô cháu
bà Kim Anh. Ông Minh kể: “Ông nội tôi để lại cho cô Bảy năm công đất, cô Bảy
đang mang bầu vẫn bươn chải ngoài đồng. Có hôm đi chở mạ, chìm ghe, tôi phải vớt
cô lên”. Ông Kiệt từ Việt Bắc trở về, lại xuống Bạc Liêu làm bí thư, một thời
gian sau thì đón bà Trần Kim Anh xuống. Họ cất một căn nhà nhỏ dưới một gốc cây
ô môi cạnh bến sông. Năm 1955, bà Kim Anh sinh người con thứ hai, con gái. Ông
Kiệt đặt tên con là Võ Hiếu Dân. Theo ông Trần Quang Hiến: “Cô Bảy về nhà ở chừng
một năm rồi lại đi theo dượng Bảy, lang thang lên Cần Thơ. Một thời gian sau
khi Hiếu Dân lớn hơn, cô Bảy về nhà đón Võ Dũng nói là sẽ đi xa một thời gian.
Lần đó, cô Bảy đi Campuchia”.
Năm 1957, sau khi ông Lê Duẩn thoát
qua Campuchia, Xứ ủy tạm thời lánh sang Phnom Penh. Cuối năm 1958, ông Võ Văn
Kiệt cho người về đón vợ con. Võ Dũng cùng những đứa trẻ con em của các cán bộ
Xứ ủy được gửi vào học trong một trường phổ thông dạy bằng tiếng Pháp. Đây là
khoảng thời gian duy nhất mà gia đình ông Kiệt đoàn tụ và được sống trong cảnh
tương đối thanh bình cho dù bà Trần Kim Anh có một thời gian bị bệnh. Nhưng đó
là sự thanh bình tĩnh lặng của mắt bão.
Từ Phnom Penh, Võ Dũng được gửi ra Bắc,
Hiếu Dân và mẹ về lại nhà ông ngoại. Ông Kiệt trở lại Sài Gòn thay ông Nguyễn
Văn Linh làm bí thư Khu ủy giữa khi Chính quyền Ngô Đình Diệm đang truy lùng gắt
gao những người cộng sản. Trước khi chia tay, cả gia đình kéo nhau ra tiệm ảnh,
nhưng trong tình thế tiếp tục hoạt động bí mật ở miền Nam, ông Kiệt quyết định
không chụp chung với vợ con, ông không biết rằng, đó là cơ hội cuối cùng để ông
có một tấm hình chung với vợ.
Ở quê, gia đình bên vợ ông Kiệt cũng
đang ở trong một giai đoạn khánh kiệt. Ông Trần Quang Hiến kể: “Thời Tây vườn
ông già tôi ở Thạnh Trị, Sóc Trăng bị ném bom, gia đình phải dời lên Rạch Giá.
Ruộng đất bán lần lần”. Ở Rạch Giá, nhiều người biết bà Trần Kim Anh là vợ Việt
Cộng. Hiếu Dân lúc đó năm, sáu tuổi, đôi khi cũng hồn nhiên kể ra chuyện ba má
cô ở Campuchia. Bà Kim Anh sợ “tai vách mạch rừng” nên quyết định chuyển lên
Sài Gòn sống.
Một lý do khác để bà Kim Anh rời Rạch
Giá, theo ông Kiệt: “Nhà tôi biết hướng công tác mới của tôi. Hồi ở Phnom Penh,
bả đã quen biết vợ ông Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Tấn Phát nên hy vọng lên Sài Gòn sẽ
có cơ may lần ra manh mối gặp chồng”. Theo ông Trần Quang Hiến: “Gia cảnh lúc
này nghèo lắm, anh em tôi mua một căn nhà nhỏ ở hẻm Đội Có, đường Võ Di Nguy,
Phú Nhuận”.
Anh Trần Quang Minh, một người cháu
ruột của bà Kim Anh, nhớ lại: “Đó là một căn nhà lá, sàn gỗ, dựng trên ao rau
muống, vợ chồng cậu Sáu Hiến, cô Bảy, tôi và Hiếu Dân ở”. Theo anh Minh: “Cô Bảy
học nghề làm bánh tai yến từ một người bà con. Cậu Sáu còn ít tiền mua hai cái
bếp dầu. Chiều tối, tôi xay bột đổ trong cái bồng, dằn thớt lên cho ráo nước.
Khuya cô Bảy và thím Sáu dậy thắng nước đường, chiên bánh. Tôi và cậu Sáu mỗi
người một xe đạp chở cô Bảy ra chợ Tân Định, chở thím Sáu ra chợ Phú Nhuận. Tiền
lãi của hai người chỉ khoảng năm, mười ngàn một ngày, đủ sống”.
Khoảng tháng 9-1960, ông Võ Văn Kiệt
cho người về liên lạc với bà Trần Kim Anh. Bà cũng phải ăn nói đi lại như một
người hoạt động bí mật, cho dù chưa bao giờ đứng trong hàng ngũ của chồng. Ông
Trần Quang Hiến nhớ: “Mỗi khi có hẹn, tôi chở cô Bảy tới một địa điểm định trước,
có khi là một cây cột đèn nào đó, thả cô đấy, khi tôi đi rồi người ta mới tới
rước cô. Cô Bảy đi đâu, tôi cũng không biết mà cô cũng không nói”. Lúc này, Khu
ủy Sài Gòn-Gia Định đã về lập căn cứ ở Hố Bò, Củ Chi. Năm 1961, ông Kiệt đưa vợ
con ra căn cứ ở một thời gian.
Những khi chính quyền Sài Gòn không
có ruồng bố gì thì Khu ủy cũng ở trong nhà những người dân địa phương. Thường
những người dân này hoặc là cơ sở hoặc là cán bộ công tác trong cơ quan Khu ủy.
Theo anh Trần Quang Minh: “Cô Bảy lên Củ Chi thường ở trong nhà ông Tư Mai hoặc
bà Mười Cước”.
Khi có thai người con thứ ba, bà Kim
Anh lại rời Hố Bò, Củ Chi về Rạch Giá ở nhà ông bà ngoại. Anh Minh kể: “Đầu năm
1962, tôi chèo ghe đưa cô Bảy đi sanh, qua nhà ông Mười Nhỏ thợ may thì đau bụng
phải tấp vô. Cô Bảy sanh luôn Ánh Hồng ở đó. Bà Mười nấu nước, cắt rún giúp. Cô
cháu tôi ở lại Rạch Giá cho tới khi Ánh Hồng chập chững biết đi, lại bồng bế
con lên Sài Gòn”. Lần này Khu ủy bố trí một ủy viên thường vụ làm “chồng bình
phong” để bà Kim Anh sống hợp pháp trong thành phố.
Năm 1963, ông Kiệt lại đưa vợ ra Củ
Chi, lần này bà Kim Anh và các con ở nhà một cơ sở thường gọi là ông Mười Cước.
Khác với nhiều đồng chí khác, ông Kiệt vẫn không “kết nạp” vợ vào tổ chức của
mình. Tuy nhiên, khi cần, ông vẫn huy động cả gia đình vợ làm việc cho Cách mạng.
Năm 1965, ông Kiệt quyết định gửi người
con thứ hai ra Bắc. Bà Kim Anh chuẩn bị đồ đạc cho con, buổi sáng tiễn con gái
đi, chiều bà ghé qua bệnh xá Khu ủy khám mới biết mình đang có thai đứa con thứ
tư. Nghĩ khi sinh nở, chồng cũng chẳng giúp được gì nên bà Kim Anh định giữ lại
Hiếu Dân, năm ấy đã lên mười tuổi. Nhưng, khi bà quay lại trạm giao liên thì Hiếu
Dân đã lên đường ra Bắc cùng với vợ chồng ông Trần Đức Thuận và con trai ông Phạm
Văn Xô, một cán bộ cao cấp của Trung ương Cục. Như những lần trước, mỗi khi có
thai, bà Kim Anh lại trở về Rạch Giá nương tựa nhà cha mẹ mình.
Cuối năm 1965, ông Võ Văn Kiệt viết
thư về nhắn vợ, sanh nở xong thì thu xếp lên chiến khu. Theo ông Trần Quang Hiến:
“Trong thơ, dượng Bảy cũng nói dượng sẽ gửi tiền về nhờ mua lương thực. Cô Bảy
đưa thơ cho tôi coi, băn khoăn không biết làm sao chuyển hàng lên. Tôi nói để
tôi lo. Nhà cũng muốn cô Bảy từ từ hẵng đi vì khi đó cháu Chí Tâm mới hơn ba
tháng tuổi. Nhưng cô Bảy cũng nóng lòng gặp chồng”.
Bà Trần Kim Anh rời Rạch Giá đúng
ngày rằm tháng Chạp, tính theo lịch Tây là tháng 1-1966. Bà Ba Kiệm, một cán bộ
giao liên Khu ủy đi từ Hố Bò về đón. Sau gần ba ngày di chuyển chủ yếu là để “cắt
đuôi” trước khi đi tiếp về chiến khu, sáng ngày 17 tháng Chạp, bà Trần Kim Anh
cùng hai con, Chí Tâm và Ánh Hồng, được giao liên đưa xuống chuyến tàu khách có
tên là Thuận Phong. Tàu Thuận Phong vẫn thường chở khách đi từ Bến Cát, Bình
Dương, ngược sông Sài Gòn về hướng Củ Chi và ngược lại. Đi trên con tàu ấy lúc
nào cũng có Quốc gia trà trộn cùng Cộng sản. Tàu Thuận Phong xuất phát lúc 7 giờ
30, tới gần Bến Dược, chỉ còn bốn, năm cây số là tới Chiến khu Hố Bò, thì trúng
rocket bắn xuống từ một máy bay trực thăng Mỹ.
Ông Trần Quang Minh, khi đó đã “ra
bưng” trở thành một cán bộ tuyên huấn T4, mật danh của Khu ủy Sài Gòn, kể: “Hôm
đó là ngày đầu tiên B52 thả bom ở miền Nam, dọc sông Sài Gòn trực thăng quần ầm
ĩ. Tôi đi ra nhà Tư Mai, vừa thấy tôi, ông Tư nói: Minh ơi, chị Bảy và mấy đứa nhỏ
chết hết rồi”. Khi đó, ông Võ Văn Kiệt đang ở Nhà Bè. Ông nghe tin tàu Thuận
Phong bị bắn chìm qua Đài Phát thanh Giải phóng, biết có nhiều người phía mình
hy sinh nhưng ông không ngờ trong số đó có cả ba người mà ông yêu thương nhất.
Ông Kiệt kể: “Tôi thấy ruột gan như lửa
đốt, Thuận Phong là con tàu mà chị em giao liên thường xuyên đưa cán bộ theo
con đường hợp pháp từ Bến Cát về Củ Chi. Chúng tôi biết trước tin địch sắp càn
nhưng thấy con tàu Thuận Phong vẫn chạy thì nghĩ là chưa có vấn đề gì. Không ngờ,
trận càn đó, nó bắn chìm cả con tàu chủ yếu chở dân thường hợp pháp”. Hai ngày
sau ông Kiệt mới về đến Củ Chi nhận tin vợ và hai con ông đã chết. Ánh Hồng năm
ấy chưa đầy bốn tuổi và Chí Tâm thì cha con chưa kịp nhìn thấy mặt nhau.
Ông Trần Quang Minh kể: “Dượng Bảy ngồi
ở Xóm Thuốc chờ hai ngày. Khóc”. Nơi ông Kiệt ngồi có thể nghe tiếng máy của những
chiếc ghe chạy tìm xác các nạn nhân ở trên sông, nhưng, ông không thể ra đó. Sự
khốc liệt của chiến tranh đôi khi không phải ở trong lưới lửa bom đạn mà ở
trong những khoảnh khắc yên lặng. Chỉ một số cán bộ hoạt động hợp pháp mới có
thể ra sông tìm kiếm xác ba mẹ con bà Trần Kim Anh và những cán bộ khác cùng đi
trên chuyến tàu Thuận Phong.
Từ Rạch Giá, gia đình cũng nhận được
tin, ông Trần Quang Hiến kể: “Tôi lên thuê thuyền, vớt được Ánh Hồng, cháu bị bắn
vỡ sọ. Nhưng, chính quyền bắt phải đưa vô nhà xác. Hôm sau có một người lính của
chế độ Sài Gòn nhận cháu là con của anh ta. Bác sĩ yêu cầu tôi trình giấy tờ chứng
minh là người nhà của Ánh Hồng, tôi không có. Tôi chấp nhận để cho anh lính nhận
xác Ánh Hồng nhưng theo dõi nơi anh ta chôn cháu, anh lính chôn cháu ngay phía
nhà thương. Tôi cắm cây thông làm dấu rồi quay ra tìm xác cô Bảy và Chí Tâm. Đến
28 Tết, lấy lý do an ninh, chính quyền không cho tiếp tục tìm kiếm, mặc dù thây
vẫn còn trôi. Hai tháng sau, chính quyền cho máy ủi phía sau nhà thương, ủi mất
luôn Ánh Hồng. Như vậy là ba mẹ con chết mà không còn xác”.
Tàu Thuận Phong hôm ấy chở hơn 200
khách, vớt được khoảng 100. Theo Trần Quang Minh, mãi tới mấy tháng sau, người
dân miền Đông không ai dám ăn tôm, ăn cá của sông Sài Gòn.
Ông Võ Văn Kiệt kể: “Sau hôm từ Nhà
Bè về, tôi xuống nhà ông Ba Kiệm chia buồn. Vợ ông, vì lo cho vợ chồng tôi gặp
nhau mà phải chết. Tôi cũng chuẩn bị tinh thần có thể ông cũng không giữ được
bình tĩnh vì mất mát đó. Nhưng không ngờ, ông nói: tôi cũng thiệt hại mà không
bằng chú, chú mất cả vợ và hai đứa con”. Ông Kiệt nói tiếp: “Suốt hai cuộc chiến
tranh, tôi cũng lặn lội, nhiều khi rơi vào vùng ác liệt nhất, vậy mà chưa từng
dính một miểng đạn nào. Cả hai lần bị thương thì đều do giẫm phải chông của du
kích. Trong khi đó vợ, con… Trước đó, anh Ba tôi cũng bị Tây càn bắn chết; ba
tôi thì bị chết vì pháo kích”.
Hai người con trai
Hai anh em Võ Dũng và Hiếu Dân nhận
được tin mẹ và hai em ngay sau Tết năm ấy. Đây không phải là hoàn cảnh cá biệt ở
trường học sinh miền Nam. Sau năm 1954 nhiều cán bộ miền Nam không đi tập kết.
Với một số cán bộ cao cấp, Đảng đưa vợ con họ ra Bắc trước như bà Ngô Thị Huệ,
vợ ông Nguyễn Văn Linh, bà Nguyễn Thụy Nga, vợ miền Nam của ông Lê Duẩn. Một số
gia đình đã “chia sẻ rủi ro” bằng cách gửi một vài đứa con ra Bắc trong khi cha
mẹ vẫn chiến đấu ở miền Nam.
Nhiều người không ngờ miền Bắc “thiên
đường của các con tôi” lại thiếu thốn khó khăn như vậy. Bà Bảy Huệ kể: “Chúng
tôi nghèo lắm, lương của tôi, vụ phó được chín mươi ba đồng, nuôi cả bầy con. Mấy
đứa trẻ như thằng Dũng, con Hiếu Dân đều ở trong nhà tôi. Tiêu chuẩn mỗi đứa được
bốn thước vải mỗi năm mà chúng lớn như thổi, lại nghịch phá, quần áo cứ chẳng mấy
lúc mà rách, mà ngắn, chật. Thấy tôi khó khăn, anh Phạm Hùng kêu Ban Thường Vụ
Quốc hội cho truy lĩnh tiền lương đại biểu Quốc hội khóa I từ 1946-1959 của
tôi, được một khoản tiền lớn, tôi đem gởi Văn phòng Trung ương xài dần”. Nhưng,
thiếu thốn chưa phải là điều mà những đứa trẻ như Võ Dũng khó thích nghi với miền
Bắc.
Chị Hiếu Dân kể: “Trước khi chia tay,
má tôi chuẩn bị cho một xấp váy áo, cái nào cũng đẹp. Ra Bắc, một hôm tôi mặc một
cái váy ngắn một chút trên đầu gối. Anh Dũng liền kêu vào nhà đánh cho tôi mấy
roi và bắt thay ngay. Anh tôi sau đó đã xé đi những bộ đồ đẹp nhất mà má tôi
mua cho. Lúc đầu tôi rất ấm ức. Nhưng về sau, nhìn xung quay mới thấy không có
đứa trẻ nào mặc váy, không ai mặc đồ màu mè sặc sỡ, tất cả chỉ có màu lính hoặc
là màu sẫm. Tôi mới hiểu vì sao anh tôi làm vậy”. Cả Hiếu Dân và Võ Dũng đều ra
tới miền Bắc khi đã lên chín lên mười. Họ đã biết quan sát và so sánh giữa hai
môi trường xã hội: miền Nam và miền Bắc.
Bà Bảy Huệ kể: “Võ Dũng là một đứa trẻ
rất hiếu động. Giữa đám trẻ không mẹ không cha ấy, Dũng nổi lên như một ‘thủ
lĩnh’. Nhiều khi ra đường quậy phá, bị công an giữ, nó lại tìm cách chạy về gặp
tôi nói ‘có chuyện quan trọng, cô Bảy phải ra ngay’. Thế là tôi lại phải đi bảo
lãnh cho chúng nó. Hồi bọn trẻ học ở Hưng Yên, có bữa Võ Dũng muốn đãi những bạn
bè học sinh miền Nam - những đứa trẻ thiếu chất và ăn không bao giờ đủ no - một
bữa tươi, nó báo với ông chánh Văn phòng Tỉnh ủy là ‘ngày mai đám giỗ mẹ’. Thế là
Văn phòng Tỉnh ủy lại chuẩn bị mấy mâm cho nó mời bạn bè. Với bạn bè thì hết
lòng, nhưng Võ Dũng không bao giờ chấp nhận sự áp đặt của người lớn. Hồi mới ra
Bắc, bác Hồ có kêu mấy đứa trẻ con em miền Nam tới Phủ Chủ tịch. Dũng được bác
Hồ gọi đến hỏi: ‘Cháu ngoan không?’. Nhìn đĩa kẹo bánh mà Bác sắp cho các cháu
ngoan một cách thèm thuồng nhưng Dũng vẫn nói: ‘Cháu không ngoan’. Về nó bảo
tôi: Cháu nói thật”. Theo bà Bảy Huệ: “Bình thường thì nó cũng ngoan như cháu
ngoan bác Hồ, nhưng gặp chuyện ai ăn hiếp bạn bè là nó sống chết. Thông minh,
gan dạ và hào hiệp lắm”.
Sau này khi gặp nhau trong chiến trường
miền Nam, nghe Võ Dũng kể, ông Kiệt mới hiểu những đứa trẻ học sinh miền Nam
như Dũng có mặc cảm, người lớn ở miền Bắc không bao giờ chịu nghe chúng nó. Ông
Kiệt nói: “Khi mới vào nó cũng thăm dò ngay cả mình. Nó nghĩ mình cũng giống
như mấy ông bà ngoài Bắc quen áp đặt, có nói lại thì không nghe không hiểu ngôn
ngữ của nhau. Ở chiến trường một thời gian, nó nói, mấy chú trong này mới lắm”.
Cái chết của mẹ và hai em trở thành một
động lực trực tiếp để Võ Dũng kiên quyết vào Nam, phần để “trả thù cho mẹ”, phần
để thoát khỏi không gian tù túng đang bó chân một chàng trai mười tám. Năm
1969, anh nhập ngũ sau đó đi thẳng vào Trung ương Cục. Lần đầu vào chiến trường
nhưng khi phải di chuyển xuống Khu IX, Võ Dũng đã chọn con đường công khai.
Trong vai một Khmer kiều, Võ Dũng được người giao liên của bố anh, bà Sáu
Trung, đưa về từ Châu Đốc, theo xe đò xuống Rạch Giá.
Sau khi vợ và hai con mất, ông Võ Văn
Kiệt vừa cần một người thân ở bên cạnh vừa, trong thâm tâm, muốn giữ an toàn
cao nhất cho con mình. Võ Dũng được đưa về ở trong cơ quan Khu ủy, cạnh cha.
Bác sỹ riêng của ông Võ Văn Kiệt, ông Huỳnh Hoài Nam kể: “Ổng dặn tôi kèm Dũng,
‘có khó khăn gì mày lo’. Nhưng Dũng rất ngang bướng, nó cứ đòi xuống đơn vị.
Dũng kêu: Em về đây để chiến đấu chứ đâu phải để đào hầm cho ba em núp”.
Năm 1971, sau khi lãnh đạo Khu lấy lại
được tư thế sau những tổn thất ghê gớm của Mậu Thân, ông Võ Văn Kiệt phát động
đưa con em cán bộ ra mặt trận. Dũng nhân đấy nói, không lẽ kêu gọi con người ta
ra trận mà con mình ngồi trong cứ, thế là đòi đi. Bác sỹ Nam kể: “Ổng kêu tôi
làm công tác tư tưởng. Tôi nói: ‘Dũng, em về miền Nam làm gì?’. Nó bảo: ‘Chiến
đấu trả thù’. ‘Vậy em có thấy bọn anh chiến đấu không?’. Nó bảo: ‘Có, nhưng chiến
đấu trong xó không hà’. Tôi lấy chuyện mẹ và các em đã mất ra khuyên can, Dũng
vẫn dứt khoát. Ông Kiệt thấy thế đành bảo, thôi để nó đi”.
Dũng đòi bằng được ra một đại đội
trinh sát. Ông Kiệt nhớ lại: “Ông Lê Đức Anh biết chuyện định chuyển cháu về
pháo binh, chưa kịp ra quyết định thì Dũng mất”. Võ Dũng hy sinh ngày 29-4-1972
khi đang luồn qua những hàng rào dây thép gai trinh sát. Theo anh Hồ Văn Út, cận
vệ của ông Kiệt: “Hôm sau, mấy bà má phải vào đồn lính, xin xác Dũng về an táng
bên kênh Tư Ký, Sóc Trăng”. Ông Võ Văn Kiệt nhận được tin con trai hy sinh khi
đang chủ trì cuộc họp Thường vụ Khu ủy. Gương mặt người chính ủy tái lại, nhưng
ông chỉ mím môi để cho nước mắt chảy vào trong.
Những người cận vệ luôn sống cách ông
vài bước chân cũng không khi nào nhìn thấy ông Kiệt khóc. Trước ba quân, vẫn là
một ông Tám Thuận mạnh mẽ. Nhưng, khi trở về trong chòi riêng ông trở thành một
con người khác, lặng câm, cô độc. Bác sĩ Huỳnh Hoài Nam kể: “Ông thích uống cà phê
sữa nhưng dạo ấy ông thường kêu tụi tôi làm ‘chà và đen’, cách ông gọi cà phê
không. Đó là loại cà phê dành cho những đêm không ngủ. Kể từ khi bà Trần Kim
Anh và hai đứa con thơ mất tích trên sông Sài Gòn, có hai kỷ vật lúc nào cũng
được ông Kiệt giữ bất li thân đó là bức chân dung của bà và bộ đồ bà ba may bằng
lụa tơ tằm. Bác sĩ Nam kể: “Mỗi khi dời cứ, thường chúng tôi giúp ông xếp đồ.
Riêng tấm hình và bộ đồ của bà thì tự tay ông làm lấy”.
1969, Nam liên lạc được với bà Nguyễn
Thị Thập, chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam. Đến lúc này, anh mới biết tên đầy đủ của
cha mình là Võ Văn Kiệt.
Phan Thanh Nam sinh ngày 25-2-1952.
Ông Kiệt chuẩn bị lên đường về Nam trước khi Nam được sinh ra khoảng một tuần.
Ông Kiệt cho biết, sau đó, ông có được gặp mặt con trai trước khi rời Việt Bắc.
Theo ông Trần Tấn Nghĩa: “Sau khi ông Kiệt đi rồi, Văn phòng Trung ương giao đứa
bé cho ông Cái bên Tổng cục Lương thực đưa về tận ấp Sậu, cuối Nhã Nam, Bắc
Giang, nuôi”. Nhưng, ông Cái cũng chỉ giữ Nam một thời gian ngắn.
Nam không biết là cuộc đời mình đã
lưu lạc qua tay những ai. Anh lớn lên trong nhà cha mẹ nuôi, ông Hà Văn Quán và
bà Nguyễn Thị Mỹ, tại làng Tăng Xá, xã Tuy Lập, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ. Cha
nuôi anh kể, một người trong họ nhìn thấy một đứa bé bị bỏ rơi cạnh bờ suối
mang về cho ông, đứa bé đó chính là Nam. Khi đó, người vợ đầu của ông Quán
không có con trai. Những thông tin về Nam mà người bỏ rơi anh để lại, về sau
Nam được ông Quán cho biết, chỉ là: “Cha mày là người Nam Bộ, tên là Kiệt hay
Việt gì đó, đặt tên mày là Nam”. Lên sáu tuổi, cha mẹ nuôi làm khai sinh cho
anh đi học, đặt tên đầy đủ là Hà Văn Nam.
Ông Hà Văn Quán vốn là một cán bộ, đảng
viên, khi cải cách bị quy là địa chủ, ông xin ra khỏi Đảng. Lý lịch này đã khiến
ông bị kỳ thị ở địa phương. Anh Nam kể: “Ngay từ khi chúng tôi còn nhỏ, ông đã
muốn các con lớn lên đi ra khỏi làng. Chính ông khuyến khích tôi đi tìm lại cha
đẻ”. Từ bốn, năm tuổi, như những đứa trẻ trong làng khác, Nam đã phải ra đồng
chăn trâu cắt cỏ. Học hết cấp hai, do gia cảnh khó khăn, anh phải nghỉ học. Đi
khỏi vùng quê nghèo khó đó cũng là sự thôi thúc của chính Nam.
Ông Võ Văn Kiệt kể: “Nhiều lần tôi viết
thư ra Bắc nhờ anh em kiếm cháu giùm. Có lần tôi viết thư cho mẹ cháu, nhưng
không thấy trả lời. Năm 1969, khi Bảy Dự ra Bắc, tôi viết thư hối
thúc thêm lần nữa”. Nhưng may mắn là Phan Thanh Nam cũng chủ động tìm kiếm. Anh
kể: “Lần đầu, khi tôi còn nhỏ, tôi gửi một lá thư đi tìm cha mà không có hồi
âm. Sau đó, tôi tính đi bộ đội, đặng vào Nam kiếm ba tôi nhưng xã không cho đi vì
có người đặt vấn đề: Cha nó trong Nam không biết theo ta hay theo địch. Một bữa
đi đập lúa, trưa vắng, một người nông dân làm cùng nói: Ở miền Nam tao nghe làm
chơi ăn thật, sướng lắm, sao mày không tìm ba? Ông nói: Bà Nguyễn Thị Thập, hội
trưởng Hội Phụ nữ là người miền Nam, thử viết cho bà Thập xem”.
Nam viết thơ cho bà Thập, kể tỉ mỉ cuộc
đời mình và nói: “Tôi có một người cha, nghe người ta nói ông tên Kiệt, chính
ông đặt tôi tên là Nam. Thư tôi gởi đi cuối tháng 9, cuối tháng 10, tôi nhận được
thư cô Kim Anh, thư ký của bà Thập. Cô Kim Anh kêu tôi về 39 Hàng Chuối, Hà Nội.
Tháng 11-1969, cha nuôi tôi cho mười đồng bạc để tôi đi. Xuống Hà Nội, gặp cô
Mười Thập. Cô hỏi thăm, cho tôi cái áo len rồi nói: ‘Ba cháu đang chiến đấu ở
miền Nam’. Cô Thập dẫn tôi đi gặp một số cán bộ quen biết ba tôi vừa từ miền
Nam ra như Năm Hộ, Hai Chiếc, Bảy Dự. Tôi vừa bước vô cửa, mấy ổng nói: ‘Cái
dáng thằng này, vừa đi vừa lắc, đúng con ông Sáu rồi’. Sau đó, các cô bảo tôi về
nhà chờ”.
Bà Nguyễn Thị Thập hứa sẽ cho người
lên gặp Nam nhưng không hiểu sao Nam chờ gần một năm sau vẫn không thấy tin tức
gì. Tháng 7-1970, Nam lại đánh điện xuống Hà Nội. Trong thời gian đó, ông Võ
Văn Kiệt cũng viết thư cho bà Ngô Thị Nho, chị ruột của bà Ngô Thị Huệ, tha thiết
nhờ tìm lại đứa con trai thất lạc. Theo bà Bảy Huệ: “Một bữa, Ban Tổ chức Trung
ương cử tôi xuống làm việc với Hội Phụ nữ, chị Mười Thập tình cờ kể: Ông Kiệt
có một đứa con ngoài này, nó mới đánh điện, gởi thơ. Chị Mười đưa thơ tôi coi.
Tôi nói để tôi sắp xếp lên gặp cháu”.
Từ Hà Nội lên Phú Thọ tuy chỉ cách
nhau hơn 200km nhưng hồi ấy đường sá khó khăn. Bà Bảy Huệ lên tới xã Tuy Lập,
huyện Cẩm Khê thì đã mười giờ đêm. Bà kể: “Tới giờ đó, Nam đi tát nước vẫn chưa
về, nó mặc cái quần cụt, cười giống y ổng. Tôi xin phép ba má nuôi đưa cháu lên
nhà khách của tỉnh rồi đưa cháu về Hà Nội. Cho tới lúc đó, thằng Nam chưa biết
sử dụng giày dép thế nào”. Anh Phan Thanh Nam nhớ lại: “Mẹ nuôi tôi rất buồn
nhưng cha nuôi tôi nói, con lớn rồi phải tìm về tổ tiên”.
Ở Hà Nội, mấy dì nói cho Nam biết má
ruột của anh là bà Hồ Thị Minh, khi ấy đang làm việc trong một cơ quan ở Thủ
đô. Đã vài lần Nam đạp xe qua cơ quan mẹ, anh rất muốn vào nhưng rồi anh kể:
“Tôi nghĩ, bao năm nay bà không liên lạc với mình có nghĩa là bà cũng có điều
gì đó khó xử. Nếu có thể gặp, bà đã đi tìm”. Tháng 10-1970, Phan Thanh Nam bắt
đầu hành trình vào miền Nam. Tháng 9-1971, hai tháng sau khi Nam vào tới Chiến
trường B2, hai cha con gặp nhau lần đầu tiên ở Trung ương Cục. Nhưng có lẽ lần
gặp nhau ở Khu IX vào tháng 11-1972 mới là cuộc gặp xúc động nhất giữa hai người.
Tháng 6-1972, hơn một tháng sau khi
Võ Dũng hy sinh, Phan Thanh Nam bắt đầu đi từ căn cứ Trung ương Cục xuống Khu
IX. Bác sỹ Huỳnh Hoài Nam kể: Ngày cha con gặp nhau, ông đang ở một căn cứ gần
kênh Biện Nhị, xã Khánh Lân, Cà Mau. Ông ngồi đợi con, lâu lâu lại hỏi những
người lính thông tin theo dõi lộ trình của các giao liên. Bác sỹ Nam kể: “Khi
Nam đến, hai cha con ôm nhau nửa tiếng, không ai nói một lời, rồi cả hai cùng
khóc. Chúng tôi, cũng ra phía sau, ngồi khóc”.
Đi bước nữa
Khi ấy, cả bà Bảy Huệ và ông Nguyễn
Văn Linh đều coi Võ Văn Kiệt như một cậu em trong nhà. Ông Linh là một trong những
người đầu tiên nghĩ tới hoàn cảnh đơn côi của ông Kiệt. Hai năm sau khi vợ mất,
ông đã chú ý tìm người mai mối.
Theo bác sĩ Huỳnh Hoài Nam: Sau đợt
hai Mậu Thân, Trung ương Cục yêu cầu ông Kiệt xuống bệnh viện R điều dưỡng một
thời gian. Giám đốc bệnh viện lúc đó là bác sĩ Thúy Ba. Trung ương Cục cũng có
ý cả. Bà Thúy Ba đẹp, nhưng tụi tôi biết khi đó ông Kiệt còn nhớ vợ. Thậm chí
có lần Trung ương Cục họp, có người còn đặt vấn đề, nhưng ông Kiệt nói: “Chúng
ta có tiến bộ tới đâu thì vẫn là người Á Đông, vợ tôi chết vẫn chưa mãn tang
mà”.
Xuống miền Tây, cũng có người gán
ghép, ông Kiệt đẩy khéo: “Hỏi mấy đứa nhỏ coi, tụi nó ưng là tôi ưng à”. Có người
thiệt tình tới hỏi cánh bảo vệ, mấy cậu nói: “Nếu có người như thím Tám thì tụi
tôi mới cho lấy, không là khổ ổng”. Ông Kiệt nhớ lại: “Lúc bấy giờ công việc dồn
dập. Đang Mậu Thân, ở Sài Gòn, hết tấn công đợt này đến đợt khác, anh em tổn thất
không biết bao nhiêu. Xuống Khu IX thì cũng tan tác, phải vực dậy từng cơ sở một”.
Sau khi ông Võ Văn Kiệt được điều xuống
làm bí thư Khu ủy Khu IX, ông Nguyễn Văn Linh có thêm một nỗ lực nữa: giới thiệu
bà Đỗ Duy Liên cho ông Kiệt. Bà Đỗ Duy Liên kém ông Kiệt năm tuổi, khi ông Kiệt
làm bí thư Khu ủy Sài Gòn Gia Định bà Liên làm việc bên Hội Phụ nữ. Bà đã từng
làm báo công khai ở Sài Gòn, từng bị giam tại Chí Hòa hơn bốn năm. Chồng bà
Liên, ông Lê Duy Nhuận, là cán bộ tuyên huấn ở Phân khu I trong Chiến dịch Mậu
Thân. Tháng 10-1968, khi ông Nhuận đang mở lớp đào tạo bí thư chi bộ thì nhận
được lệnh phải di chuyển cứ ngay vì B52 sắp rải bom. Là người sau cùng rời khỏi
căn cứ, ông Nhuận bị dính bom, hy sinh. Cũng như ông Võ Văn Kiệt, bà Đỗ Duy
Liên cũng bị ám ảnh rất lâu bởi sự hy sinh của chồng.
Bà Đỗ Duy Liên kể: “Một lần anh Sáu từ
T3 lên Trung ương Cục, anh Mười muốn cáp tôi với ảnh nên điện kêu
tôi từ T4 (Khu Sài Gòn-Gia Định) về. Anh Mười lãnh đạo tôi từ hồi thanh niên. Ảnh
chủ quan, nghĩ tôi thương ảnh thế thì anh bảo gì tôi sẽ nghe theo ảnh. Tôi từ
chối cách gán ghép nhưng tôi vẫn đồng ý ra trạm giao liên gặp anh Sáu Dân”.
Nơi ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh bố
trí cho họ gặp nhau là một cái lán tranh, muốn đi tới phải qua một trảng le, một
trảng lau. Ông Kiệt là người đàn ông thứ hai mà bà Liên yêu thương. Bà biết rằng
nếu nhận lời lấy ông thì cả hai sẽ phần nào bù đắp cho nhau mất mát. Nhưng khi
đó, ba đứa con của bà Liên đang được gửi ra miền Bắc. Trong lán tranh, khi ông
Kiệt ngỏ lời, bà Liên bật khóc, trách: “Chồng tôi chết chưa lâu?”.
Bà Đỗ Duy Liên kể rằng, khi đến giờ
phải chia tay, bà được giao liên dẫn đi theo một hướng, ông Kiệt được dẫn đi
theo một hướng khác. Hôm đó bà bước đi mà không dám ngoái đầu nhìn lại. Ít lâu
sau, bà nhận được thư ông. Bức thư ngắn: “Tư/ Sau bữa gặp, Tư đi qua cái trảng
dài đó, không biết có gì không. Rất lo. Muốn biết sớm mà không sao biết được.
Hôm đó, đợi Tư qua hết cái trảng rồi mới đi. Kiệt”.
Sau năm 1975, hai người cùng về Thành
phố, ông làm chủ tịch rồi sau đó làm bí thư Thành ủy, bà làm giám đốc Sở Thương
binh-Xã hội, rồi làm phó chủ tịch Ủy ban. Cùng ở trong rừng ra và lần đầu tiên
có trong tay chính quyền, một chính quyền việc gì cũng muốn làm thay dân, công
việc cứ cuốn cả hai người đi. Họ thường gặp nhau trong các cuộc giao ban, nơi
ông nhiều khi sốt ruột đập bàn, đập ghế. Theo nhà báo Thế Thanh, người được cả
ông Kiệt và bà Tư Liên coi như con, thỉnh thoảng bà Tư lại than: “Ba mày mất lịch
sự quá, họp hành có phụ nữ mà chẳng nhẹ nhàng gì”.
Nói thế, nhưng chính bà Đỗ Duy Liên lại
là người rất sợ sự nhẹ nhàng của ông. Bà Tư nhớ lại: “Sau 1975, có lần anh đến
thăm, ngồi suốt một buổi sáng, hai anh em ngồi tâm tình với nhau. Trưa, ảnh
nói: ‘Tư đi nấu cơm cho tôi ăn với’. Tôi biết, tôi mà đi nấu cơm là coi như tôi
nhận lời anh nên cương quyết: ‘Không. Hôm nay, em không đi chợ, nhà không còn
gì’. Anh nghe, đứng dậy về. Tôi để anh đi mà lòng buồn lắm. Mãi nhiều năm sau
khi nghĩ tới câu chuyện này, tôi vẫn còn tự trách: ‘Có bữa cơm mà mình cũng
không nấu được cho anh ăn”.
Theo bà Bảy Huệ thì con cái của hai
người cũng đóng một vai trò khiến cho họ không đến được với nhau. Sau khi việc
giữa bà Tư Duy Liên và ông Võ Văn Kiệt không thành, bà Bảy Huệ lại nỗ lực thêm
một lần nữa, giới thiệu cho ông Kiệt một nữ bác sỹ đã từng có gia đình. Khi ấy
ông Kiệt đã ra Hà Nội làm phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Việc mai mối được
thu xếp khá suôn sẻ đến mức một hôn lễ tưởng đã diễn ra. Tuy nhiên, sau một năm
ở Hà Nội, ngày 26-12-1982, ông Kiệt viết thư gửi ông Chín Đào Phan Minh Tánh,
khi ấy đang là phó bí thư Thành ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, nhờ ông Chín Đào giúp
thu xếp để ông rút lui khỏi cuộc hôn nhân này.
Cũng trong bức thư đề cập đến chuyện
lấy vợ này, ông Võ Văn Kiệt bắt đầu tiết lộ về một người phụ nữ khác. Thư viết:
“Phần tôi, cũng dịp về hôm rồi tôi có bàn thẳng với các cháu, con tôi (cả dâu rể)
- tôi không thể sống không bình thường như vậy mãi, cũng như công tác trong điều
kiện ăn ở hiện nay. Không có một người hôm sớm quả là có một số cái khó. Nói
chung là chúng nó đồng ý cả. Cháu Dân hôm ra Hà Nội ở gần hai tuần với tôi,
cháu cũng thấy điều đó rõ hơn, nhưng người như thế nào thì chúng nó vẫn lo. Tôi
cũng có trình bày, có một người mà các anh đã giới thiệu (hồi tôi còn ở Thành
phố) - Anh Mười Hương, anh Năm Xuân và anh Thiện. Trước đây tôi cũng tiếp xúc một
vài lần và cũng có tìm hiểu, cũng gọn và quan hệ gia đình tốt, thuộc cán bộ giảng
dạy và nghiên cứu khoa học ở một trường đại học. Tôi thấy như vậy cũng được, tuổi
cũng trên bốn mươi… (Tuy) không phải người Nam Bộ. Chúng nó có phần lo, nhưng
điều này không phải là chính. Tạm bấy nhiêu để anh rõ, nhờ anh giúp như phần
trên. Thân ái/ Sáu Dân”. Chi tiết “cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học” mà
ông Kiệt đề cập trong thư cho thấy người phụ nữ mà ông nói tới chính là bà Phan
Lương Cầm.
Bà Phan Lương Cầm sinh năm 1943 ở Huế.
Năm 1945, cha mẹ chia tay. Mẹ bà, bà Nguyễn Thị Hoàng Ân, vốn là một nữ sinh Đồng
Khánh. Trong những năm Việt Minh kháng chiến chống Pháp, bà Ân đi dạy học ở Hà
Tĩnh, Thanh Hóa. Bà Cầm khi ấy còn nhỏ nhưng đã vừa học, vừa giúp mẹ xay lúa,
giã gạo, làm xáo để có thu nhập thêm.
Sau Hiệp định Geneve, bà Ân chính thức
kết hôn với ông Phan Tử Lăng. Bà Cầm đổi từ họ Trần của cha đẻ sang họ Phan của
cha dượng. Ông Phan Tử Lăng là một sỹ quan nổi tiếng: Ông tốt nghiệp thủ khoa
khóa sỹ quan chính quy đầu tiên do người Pháp đào tạo ở Việt Nam, là chỉ huy
trưởng Lực lượng Bảo an Trung kỳ. Khi chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố độc lập
và mở trường Quân sự Thanh niên Tiền Tuyến, ông Phan Tử Lăng được bổ nhiệm làm
giám đốc. Sau Cách mạng tháng Tám, ông là cục trưởng Cục Quân chính Quân đội
Nhân dân Việt Nam với quân hàm đại tá.
Năm 1965, sau khi tốt nghiệp đại học,
bà Cầm được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở Đại học Bách khoa Hà Nội. Năm 1968,
bà đi nghiên cứu sinh, chuyên ngành Điện hóa - Ăn mòn Kim loại ở Lomonoxov,
Liên Xô; năm 1973, lấy bằng phó tiến sỹ và về trường Bách khoa dạy tiếp. Năm
1979, trong khuôn khổ một hợp tác giữa Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học
Delf, bà được cử đi tham gia nghiên cứu về “ăn mòn kim loại” ở Hà Lan. Bà Phan
Lương Cầm gặp ông Võ Văn Kiệt lần đầu vào cuối năm 1980 tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Khi ấy, theo bà Cầm, bà hoàn toàn không biết những người bạn của ông Phan
Tử Lăng có ý tưởng giới thiệu bà với ông Kiệt.
Cuối thập niên 1950, ông Phan Tử Lăng
và ông Đinh Đức Thiện cùng làm việc với nhau ở Khu Gang Thép Thái Nguyên, ông
Thiện là giám đốc và ông Lăng là phó. Bạn ông Thiện là ông Trần Quốc Hương và
em trai ông, ông Mai Chí Thọ, đầu thập niên 1980, đang là Phó Bí thư Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối năm 1980, khi bà Phan Lương Cầm
từ Hà Lan về vào Thành phố, ông Đinh Đức Thiện kêu ông Mười Hương mời bà Cầm ra
Tân Cảng báo cáo đề tài “ăn mòn kim loại”, cử tọa có nhiều vị lãnh đạo Thành phố,
và tất nhiên, có cả ông Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt. Bà Cầm nhớ lại: “Tôi lên
nói say sưa và cuối buổi thì ông Kiệt bảo là tôi có thể giúp Thành phố”. Buổi
trưa, tôi được mời về nhà ông Mai Chí Thọ ăn cơm. Bà Cầm nói rằng: “Cho đến lúc
này, tôi không có ấn tượng gì về ông Kiệt cả”.
Bà Cầm trở ra Hà Nội tiếp tục công việc
của mình, ông Đinh Đức Thiện, ông Mười Hương tiếp tục vận động bà Ân. Hai người
còn bố trí để ông Kiệt tới nhà 180/8 Nguyễn Tri Phương, Thành phố Hồ Chí Minh gặp
bà Ân ở đó. Bà Cầm nhớ lại: Cả nhà tôi ai cũng muốn con gái lớn đi lấy chồng.
Nhắc lại bữa cơm trưa ở nhà ông Mai Chí Thọ, mẹ tôi hỏi: “Con có biết anh Sáu
cùng ăn với con hôm đó không”. Tôi nói: “Con chỉ nói chuyện ăn mòn kim loại,
không biết ai là anh Sáu cả”. Rồi tôi cười nói với mẹ tôi: “Không có chuyện con
lấy bí thư Thành ủy đâu”.
Ông Kiệt vẫn giữ liên lạc với bà Phan
Lương Cầm trong thời gian ấy. Theo bà: “Mỗi lần ông ra Hà Nội lại nhờ anh em
Văn phòng chuyển tới tôi, khi cuốn lịch, khi ký lạp xưởng. Tôi không nhận thì
anh em bảo: thủ trưởng ra nhờ chút việc mà không hoàn thành thì bị phê bình chết”.
Nhưng, có lẽ ông nghiêng về bà hơn sau khi ra Hà Nội, sau khi phải đối diện với
những rắc rối trong các mối quan hệ với những người phụ nữ đã có con riêng.
Về phần mình, bà Cầm kể: “Ở Hà Nội một
thời gian, anh béo ra, biết ăn mặc hơn, trông không khắc khổ như thời làm bí
thư Thành ủy. Lên khu tập thể Khương Thượng, nơi tôi có một căn hộ ở đó, anh
tháo giày vào nhà. Ngồi nói chuyện thấy bắt đầu cảm tình nhưng phải nói là bác
Đinh Đức Thiện cũng công phu lắm, cả bác trai lẫn bác gái”.
Khi bắt đầu chiếm được tình cảm của
bà Cầm, ông Kiệt báo cáo với Trung ương Đảng và việc này đã khiến cho bà Cầm định
rút lui khi thấy Ban Tổ chức Trung ương xuống trường tìm hiểu. Cuối năm 1984 họ
chính thức lấy nhau. Vừa sống với nhau được ít ngày, bà Cầm kể: “Anh nói phải
đi công tác miền Nam ngay để tôi một mình chơ vơ ở Hồ Tây. Trước khi đi, anh hỏi
tôi thích gì, tôi nói em thích một cái nhẫn cưới. Lần ấy, anh mang về chiếc nhẫn
nửa chỉ vàng 18k tặng tôi”.
Vợ và bạn
Không chỉ là sự chênh lệch về tuổi
tác, năm ấy, ông Kiệt sáu mươi hai tuổi và bà Cầm bốn mươi mốt tuổi. Cha mẹ
không sống với nhau ngay từ khi bà Cầm chỉ mới hai tuổi. Khi mẹ bà đi bước nữa
với ông Phan Tử Lăng, hai người làm việc ở Khu Gang Thép Thái Nguyên, bà Cầm sống
một mình ở Hà Nội và đi học.
Theo ông Nguyễn Văn Hanh, em rể của
bà Cầm: “Cho tới khi lấy anh Sáu, Cầm rất ít có thời gian ở trong một môi trường
gia đình thật sự”. Bà Cầm thừa nhận: “Trước khi về sống với nhau, mỗi người tưởng
tượng về nhau có khác. Anh Sáu ít hẫng hơn tôi vì anh có kinh nghiệm cuộc đời”.
Bà kể về một kỷ niệm mà bà cảm thấy hạnh phúc: “Một lần, tôi đi miền Nam, ô tô
đưa ra sân bay rồi ô tô về. Không ngờ máy bay hỏng, phải chờ tới ba giờ mà
không bay được. Tôi điện thoại về kêu xe ra đón. Khi biết tôi quay lại, anh
nói: hoan hô hàng không!”.
Bà Phan Lương Cầm nói: “Đôi lúc tôi
cũng tủi thân. Anh toàn sống với đồng đội, muốn uống nước, tôi không pha thì đã
có phục vụ nên sự chăm sóc của vợ không còn quan trọng nữa. Tôi cảm thấy những
cố gắng hy sinh của mình không được đánh giá đầy đủ”. Ngay trong thời gian đầu,
một cuộc chia tay tưởng như đã xảy ra, một số bạn bè thân thiết của ông Kiệt đã
được “giao nhiệm vụ” đi làm “công tác tư tưởng” cho gia đình, đồng đội. Nhưng rồi
ông Kiệt nghĩ lại.
Cuộc hôn nhân này không chỉ làm ông
Kiệt khó xử với những đồng đội từng chia ngọt sẻ bùi với ông. Ở miền Nam nhiều
người trách, “Nam Bộ thiếu gì người mà lại đi lấy người Huế”. Bà Phan Lương Cầm
kể: “Có người nói tôi là người nhà ông Tố Hữu. Tố Hữu đưa tôi vào để phá anh
Sáu. Khi Tố Hữu mất, có người còn chia buồn với tôi”.
Chuyện ông Kiệt, một ủy viên Bộ Chính
trị, lấy bà Cầm không phải đảng viên cũng là một lý do để ông Kiệt bị chỉ
trích, nhất là từ những người như ông Nguyễn Văn Linh. Bà Bảy Huệ thừa nhận:
“Ông Mười kỹ lưỡng, định làm mai Lê Thị Riêng cho ông Sáu, Lê Thị Riêng chết,
làm mai Đỗ Duy Liên thì không thành... Tôi thấy cô bác sỹ làm bên đài cũng có
hoàn cảnh thích hợp, lấy cô ấy rồi chuyển ra làm ở ‘Tổ Y tế Một’ cũng được.
Đùng một cái ổng lấy bà Cầm, ông Mười nói Sáu Dân ẩu, lấy vợ mà không thèm hỏi
ai”.
Ông Võ Văn Kiệt làm chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng từ tháng 7-1991, ở một giai đoạn mà Việt Nam bắt đầu thiết lập quan hệ
với ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Cộng đồng Châu Âu và Mỹ. Không như các chuyến
thăm đến các nước trong “phe xã hội chủ nghĩa” của các lãnh tụ cộng sản trước
đây, ông Kiệt thường công du cùng phu nhân, một người phụ nữ trẻ, xuất hiện trước
ống kính khá lịch lãm. Hình ảnh đó góp phần làm cho thế giới nhìn thấy một Việt
Nam ít cứng rắn hơn. Nhưng, bên trong, nhiều nhà lãnh đạo lão thành lại không vừa
ý. Nhất là sau khi có tin đồn, các chuyến chuyên cơ chở bà Cầm đi theo ông Kiệt
thường mang rất nhiều hàng hóa.
Người bày tỏ thái độ một cách công
khai nhất là ông Nguyễn Văn Linh. Từ khi còn đương chức, trong các chuyến công
du, ông Linh đã nổi tiếng khắt khe với cấp dưới. Giai đoạn ông
Linh làm tổng bí thư và giai đoạn ông Kiệt làm thủ tướng, vị thế của Việt Nam
trong các mối quan hệ quốc tế rất khác nhau. Hai ông cũng rất khác biệt trong
cách tiếp cận với thời cuộc cũng như với kẻ thù và đồng đội.
Cuộc sống và ý thức hệ
Kể từ năm 1952, khi rời Việt Bắc về
Nam, năm 1973 ông Võ Văn Kiệt mới trở lại miền Bắc. Lần này, kinh nghiệm sử dụng
võ trang của ông ở Khu IX đã đóng vai trò quan trọng để Hội nghị Trung ương 21
quyết định “đánh”, thay vì “gò cương vỗ béo” trước Hiệp định Paris. Nhưng chuyến
đi còn giúp ông Kiệt lần đầu tiên thực sự trải nghiệm chủ nghĩa xã hội sau gần
hai mươi năm áp dụng trên miền Bắc.
Lúc đó, tuy tạm thời chấp nhận sự quy
lỗi nghèo đói cho chiến tranh nhưng ông Kiệt không khỏi băn khoăn khi thấy
trong một xã hội đòi đấu tranh cho bình đẳng mà những người đứng đầu xã hội đó
lại thi hành một chế độ không bình đẳng với ngay những người ruột thịt của
mình. Theo quy định, chế độ dinh dưỡng bao cấp cho cán bộ cao cấp khác với những
cán bộ bình thường cho nên trong nhiều gia đình, chồng ăn “tiểu táo” do đầu bếp
của Văn phòng Trung ương nấu, trong khi vợ con phải tự nấu, tự ăn với nhau theo
chế độ “đại táo”. Trước ngừng bắn, khi phải rời khỏi Hà Nội, có những cán bộ đã
về nơi sơ tán một mình bằng xe hơi trong khi vợ con lếch thếch đi bộ vì không
có cùng tiêu chuẩn.
Năm 1973, khi ông Võ Văn Kiệt đi gặp
ông Ung Văn Khiêm cả bạn bè và tổ chức đều có những lời khuyến
cáo ông. Tuy nhiên, với tư cách là một cấp dưới, một học trò, ông Kiệt vẫn đi
thăm thầy cũ. Ông Kiệt kể: “Từ khi ông Khiêm bị kỷ luật, không ai dám đến gặp,
nếu có tình cờ thấy ông thì cũng ít ai dám chào”. Mấy hôm sau, khi ông Kiệt
đang ngồi với ông Nguyễn Văn Trấn thì, theo hẹn, bà vợ ông Ung Văn Khiêm đến,
ông Bảy Trấn nhìn thấy, lập tức rời phòng. Hôm sau gặp lại, Bảy Trấn giải
thích: “Mày ở trong kia không sao, tụi tao ở đây léng phéng qua lại với ổng là
bị cắt sổ gạo, cả thuốc lá cũng không có mà hút mày ạ”. Ông Kiệt nói: “Tôi suy
nghĩ rất nhiều. Cho dù ông Khiêm có sai thì cái sai đó cũng là với tổ chức; chế
độ chính trị thế nào mà bày tỏ tình nghĩa anh em, đồng chí cũng không được. Một
con người như ông Bảy Trấn, từng tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn năm 1945,
từng làm tới chức chính ủy Khu IX, từng được coi là ‘hung thần Chợ Đệm’ mà cũng
phải sống trong sợ hãi thì vấn đề không còn là của từng cá nhân nữa”.
Ông Võ Văn Kiệt tìm thấy niềm vui và
cả lợi ích chính trị khi thỉnh thoảng ngồi uống rượu và đàm đạo với các trí thức
và quan chức của chế độ Sài Gòn. Ông thừa nhận, nhiều kiến thức về kinh tế, quốc
tế và đặc biệt là tư duy pháp trị mà ông có được là nhờ học ở những “người thua
cuộc”.
Khi chiến tranh kết thúc, cả ông Kiệt
và ông Linh đều từ một căn cứ trong rừng sâu về Sài Gòn sống trong những biệt
thự sang trọng. Trong khi ông Nguyễn Văn Linh vẫn giữ lối sinh hoạt của một người
cộng sản khắc khổ171thì ông Võ Văn Kiệt bắt đầu chơi tennis. Ông Linh nhìn những
cán bộ chơi tennis như những người học đòi ăn chơi, “xa rời lối sống, đạo đức
cách mạng”. Còn ông Kiệt nhìn thấy ở đó, không chỉ là một thú vui thể thao mà
còn là một cách để đưa Sài Gòn trở lại cuộc sống bình thường.
Ông Kiệt giải thích: “Những ngày mới
về Thành phố, tôi chỉ chơi bóng bàn hoặc cầu lông với anh em. Sau, để ý thấy
các sân tennis trong Thành phố đều bị bỏ hoang hoặc đem phơi củi. Đi vào trong
dân, thấy các nhà khá giả vẫn treo vợt trên tường nhưng không ai chơi. Tìm hiểu
thì mới biết là người ta sợ. Tôi quyết định cho sửa sân tennis Trương Định,
phong trào chơi tennis mới dần được khôi phục rồi rộ lên. Anh Mười thấy, cho
người phê phán trong các cuộc họp nội bộ”.
Khi được điều ra Hà Nội, ông Kiệt tiếp
tục giữ sở thích chơi tennis. Khi ông Linh làm tổng bí thư, theo ông Kiệt, ông
nói gần nói xa: “Các tỉnh ở dưới đua đòi làm sân tennis cũng tốn kém lắm”. Ông
Kiệt kể, một lần ông Đào Duy Tùng, ủy viên thường trực Bộ Chính trị, nhắc khéo:
“Có người nói anh còn khỏe mà đi chơi tennis bắt người khác mang vợt”. Theo ông
Kiệt: “Tôi biết anh Tùng nói vậy là có thiện chí, mình dư sức mang cái túi vợt,
nhưng thường khi xe vừa dừng thì anh em bảo vệ đã nhanh chân hơn lấy vợt cho. Từ
đó, khi ra sân tôi không đi xe nữa, mà từ 57 Phan Đình Phùng, tôi mang túi vợt
đi bộ, vòng qua trước nhà ông Linh ở Nguyễn Cảnh Chân, ra sân”.
Cũng làm cách mạng, nhưng một người tạo
lập uy tín chính trị theo nguyên tắc giữ “cần kiệm liêm chính”, một người làm
chính trị theo kiểu chịu chơi của “anh Hai Sài Gòn”. Cung cách ứng xử này đã
làm cho ông Kiệt và ông Linh càng thêm khác biệt. Ông Võ Văn Kiệt không được
văn nghệ sỹ tung hô như thời ông Nguyễn Văn Linh kêu gọi cởi trói. Nhưng với
phong cách “anh Hai”, ông Võ Văn Kiệt lại kiến tạo được những mối liên hệ cá
nhân bền lâu.
Nhà thơ Nguyễn Duy kể: “Tôi gặp ông
Kiệt lần đầu vào giữa năm 1981, trong buổi tổng kết cuộc sinh hoạt chính trị
kéo dài mười ngày căng thẳng để chuẩn bị đại hội thành lập Hội Nhà văn Thành phố.
Cuối đợt kiểm điểm, Thành ủy cho ít tiền liên hoan, ông Kiệt mang đến một chai
rượu. Mãi sau này chúng tôi mới biết chai rượu ấy cũng xoàng, nhưng lúc ấy thấy
rượu Tây là nhiều anh nhốn nháo”.
Theo Nguyễn Duy: Trong buổi liên hoan
đó, nhiều người đọc thơ tặng ông Sáu. Ông Nguyễn Duy cũng đứng lên nói: “Hôm
nay Bí thư Thành ủy mang rượu đến đây, nối rượu cho nhà văn thì cũng như nối
giáo cho giặc, tôi xin phép đọc mấy bài thơ mới làm”. Ông Bảo Định Giang khéo
léo ngăn lại: “Thôi đã mười một giờ, khuya rồi để anh Sáu nghỉ”. Nguyễn Duy khi
ấy đã có hơi men, nói: “Anh Bảo Định Giang ngồi xuống, đây không có anh năm,
anh sáu gì hết, chỉ có bí thư. Tôi là đảng viên phải để đảng viên nói với bí
thư”. Ông Kiệt lên tiếng: “Cứ để anh em tự nhiên, tôi đã đến đây là chơi tới cùng”.
Sau khi đọc bài Ông Già Sông Hậu,
Nguyễn Duy nói: “Tôi xin đọc bài thơ tôi làm như một bản báo cáo với Ban Thường
vụ Thành ủy thực tế đời sống của văn nghệ sỹ Thành phố”. Đó là bài thơ Bán
Vàng.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng nhớ lại,
Nguyễn Duy cao hứng đặt một chân lên ghế, nhìn thẳng vào ông Kiệt, mở đầu nhỏ
nhẹ: “Ta mơ màng, ta uốn éo, ta lả lơi/ để mặc kệ mái nhà xưa dột nát/ mặc kệ
áo quần thằng cu nhếch nhác/ mặc kệ bàn tay mẹ nó xanh xao/ ta rất gần bể rộng
với trời cao/ Để xa cách những gì thân thuộc nhất…”. Rồi Nguyễn Duy nhấn giọng:
“Cái ác biến hình lởn vởn quanh ta/ tai ách đến bất thần không báo trước/ tờ giấy
mong manh che chở làm sao được/ một câu thơ chống đỡ mấy mạng người…”. Ông Kiệt
có vẻ như lặng đi. Nguyễn Duy kết thúc bài thơ: “Thì bán bớt đi một ít vàng
ròng/ để sống được qua ngày gian khổ đã/ phải sống được qua cái thời nghiệt
ngã/ để khối vàng đây chỉ đổi lấy mây trời!”. Khi Nguyễn Duy ngồi xuống, ông Kiệt
uống với nhà thơ một ly.
Sau cuộc họp đó, theo nhà văn Nguyễn
Quang Sáng, cũng có người trong giới văn nghệ định “dao búa” với Nguyễn Duy,
còn ông Kiệt thì cho Thư ký Trần Hữu Phước tới gặp nhà thơ đề nghị chép cho ông
hai bài thơ Nguyễn Duy đọc hôm đó để ông “làm kỷ niệm”. Nguyễn Duy kể rằng,
nghe vậy, ông cũng hơi ngại nên đi hỏi Nguyễn Quang Sáng: “Liệu có phải ông Sáu
cần văn bản chứng cớ để xử lý?”. Ông Sáng nói: “Chắc không phải. Nếu muốn xử, ổng
cần gì”. Nguyễn Duy nói: “Tôi bèn chép hai bài thơ và không quên ghi cẩn thận
dưới tên mỗi bài: ‘Tác giả chép tặng anh Sáu Dân để làm kỉ niệm tình cảm’, như
một nhắc nhở với ông rằng, ông xin để làm kỷ niệm chứ không phải để làm bằng chứng
đâu đấy”.
Bẵng đi một thời gian, nhân dịp đại hội
thành lập các hội nghệ thuật của Thành phố, cũng trong một bữa tiệc do Thành ủy
chiêu đãi ở Khách sạn Bến Nghé, ông Kiệt đã nhắc lại bài thơ Bán Vàng. Ông nói:
“Vừa rồi, tôi trực tiếp nghe được bài thơ Bán Vàng của nhà thơ Nguyễn Duy. Theo
tôi, đây là một bản án nhân tình đối với chế độ của chúng ta. Đau, nhưng là sự
thật. Chúng ta cần chân thành nhìn nhận sự thật, để cùng nhau vượt qua giai đoạn
khó khăn này. Muốn vượt qua, theo tôi phải có niềm tin, mà cốt lõi của niềm tin
là tin ở con người. Hôm nay, có thể có đồng chí không tin tôi, có thể tôi không
tin một đồng chí nào đó, nhưng chúng ta thì phải tin ở con người”.
Nguyễn Duy nhớ lại: “Lần đầu tiên ngồi
với một ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, định mượn hơi rượu nói cho bõ hờn,
không ngờ lại mở đầu cho một cuộc giao du tình nghĩa”. Từ lần nghe đọc thơ ở Hội
Nhà văn Thành phố, ông Võ Văn Kiệt tạo lập được một mối quan hệ rất bạn bè với
nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà thơ Nguyễn Duy và tiếp đó là nhạc sỹ Trịnh Công
Sơn. Nguyễn Duy thỉnh thoảng lại làm tiết canh, còn Nguyễn Quang Sáng lâu lâu lại
lập mưu… làm thịt chó. Ông Kiệt rất nhiều lần tham gia và khi nào ông cũng hết
mình.
Thật khó để phân biệt đâu là nhu cầu
bè bạn, đâu là nhu cầu chính trị trong mối quan hệ giữa ông Võ Văn Kiệt với
Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Sáng, Trịnh Công Sơn… cũng như mối quan hệ giữa ông với
các tên tuổi thời Việt Nam Cộng hòa như Tiến sỹ Nguyễn Xuân Oánh, Kiến trúc sư
Ngô Viết Thụ, chuyên gia kinh tế Lâm Võ Hoàng, Huỳnh Bửu Sơn… Nhưng sự thật là
nhiều kiến thức về kinh tế, chính trị và xã hội mà ông Kiệt có được là thông
qua những lần đàm đạo với những con người ấy.
Đầu thập niên 1990, khi Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh đang có những nỗ lực vận động quốc tế để bảo vệ thành trì xã hội
chủ nghĩa, ông Võ Văn Kiệt đến Davos và bắt đầu nhận thấy khoảng cách giữa chủ
nghĩa xã hội mà ông chứng kiến ở Đông Âu và “tư bản giãy chết” mà Marx nói là một
chặng đường xa xôi. Ông Võ Văn Kiệt cũng nhận thấy, chế độ đang có những bế tắc
mà “xé rào” cuối thập niên 1970 hay “đổi mới” của thập niên 1980 là không thể
nào tháo gỡ được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét