Phần III : Dấu ấn Nguyễn Văn Linh
Chương XIII: Đa nguyên
Ông Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư vừa
đúng một nhiệm kỳ (1986-1991). Người kế nhiệm ông - ông Đỗ Mười - nói rằng, thời
gian thực sự làm việc của ông Linh chỉ khoảng gần hai năm vì ông thường xuyên
đau ốm. Nhưng ông Nguyễn Văn Linh đã nỗ lực như một người mạnh khỏe để bảo vệ
thành trì xã hội chủ nghĩa. Những nỗ lực đó có thể được Đảng Cộng sản Việt Nam
ghi công nhưng cũng khiến cho di sản của Nguyễn Văn Linh trở nên rất khác.
Cải cách ở bậc đại học
Chính sách kinh tế nhiều thành phần
thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VI, tháng 12-1986, đã đặt Việt Nam trước nhiều
áp lực thay đổi mà trước đó chưa ai trù liệu tới. Một trong những lĩnh vực chịu
áp lực đó là giáo dục. Trong bài trả lời “phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam” ngày
4-12-1988, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thừa nhận: “Trong khi thực hiện những
chính sách đúng đắn theo phương hướng đổi mới, chúng ta chưa lường trước diễn
biến phức tạp cho nên đã không kịp thời xử lý tốt các vấn đề mới nảy sinh”.
Cũng như các nước xã hội chủ nghĩa
khác, giáo dục đại học của Việt Nam đã tuân theo mô hình bao cấp. Hằng năm, căn
cứ vào tính toán nhu cầu của các cơ quan, các địa phương, Ủy ban Kế hoạch Nhà
nước phân bổ cho các trường đại học chỉ tiêu tuyển sinh. Rồi căn cứ vào chỉ
tiêu đó, ngân sách rót tiền cho các bộ chủ quản, các bộ rót tiền xuống cho các
trường thuộc quyền quản lý của mình. Sinh viên ra trường được nhà nước phân
công công việc.
Nhưng, từ năm 1987, nhiều lĩnh vực
trước đây thuộc khu vực công bắt đầu do “các thành phần kinh tế” khác đảm
trách: biên chế không còn nhu cầu, sinh viên ra trường không còn được phân công
về các cơ quan nhà nước. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội có 1.000 giáo viên, năm
1987 chỉ còn được giao chỉ tiêu tuyển sinh 100 sinh viên. Các trường khác cũng
rơi vào tình huống tương tự, viễn cảnh ra trường không có việc làm làm cho sinh
viên không muốn học, thầy cô không muốn dạy. Bộ trưởng Đại học và Trung học
Chuyên nghiệp (1987-1992), Giáo sư Trần Hồng Quân nói: “Tình hình cực kỳ nguy
hiểm, nếu không thay đổi thì các trường đại học sẽ tan rã”.
Năm 1987, đang là Hiệu trưởng Đại học
Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, ông Trần Hồng Quân được bổ nhiệm giữ chức Bộ
trưởng Đại học và Trung học Chuyên nghiệp. Ông Quân là cháu gọi phu nhân Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh, bà Ngô Thị Huệ, là dì ruột. Không thể định lượng mối
quan hệ “dượng-cháu” này đã ảnh hưởng như thế nào tới các quyết định của Bộ trưởng
Trần Hồng Quân. Nhưng, đây là giai đoạn mà chính sách tuyển sinh phân biệt đối
xử được bãi bỏ và nhiều quyết định của Bộ đã làm thay đổi giáo dục đại học Việt
Nam.
Mùa hè năm 1987, Bộ Đại học quyết định
triệu tập hiệu trưởng và bí thư Đảng ủy các trường đại học trong cả nước về Nha
Trang dự một hội nghị, về sau gọi là “Hội nghị Nha Trang”. Hội nghị đã thảo luận
bốn tiền đề đào tạo: Đào tạo không chỉ cho các cơ quan nhà nước mà cho cả các
thành phần kinh tế; Đào tạo theo dự báo yêu cầu tương lai; Đào tạo phục vụ nhu
cầu của nhân dân về học, không kèm theo trách nhiệm phân công, sinh viên tự tìm
việc làm và lập nghiệp tạo việc làm cho xã hội; Đào tạo đa dạng, có cả những loại
hình phi chính quy, không chỉ bằng ngân sách mà còn thu học phí.
Lần đầu tiên, trong một hội nghị của
ngành các đại biểu có thể đối thoại với cơ quan quản lý. Bộ trưởng Trần Hồng
Quân nhớ lại: “Phản ứng kinh khủng, vì đào tạo không theo kế hoạch, không phân
công, không ngân sách là sai nguyên lý xã hội chủ nghĩa. Nhiều bí thư đảng ủy
đòi đối thoại với ông Đặng Quốc Bảo, trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ông Bảo
nói: ‘Cứ đối thoại với Bộ trưởng, tôi đến đây để nghe’. Tôi nói: ‘Các đồng chí
bác đề án này vậy có sáng kiến gì khác để nền đại học của chúng ta tránh được sụp
đổ?’. Mọi người chỉ than mạo hiểm mà không đưa ra được phương án khác nào, cuối
cùng phải chấp nhận”.
Theo ông Trần Hồng Quân, Phó Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp và Bí thư Trung ương Đảng Trần Xuân Bách hoàn
toàn ủng hộ kế hoạch cải cách này. Cả hai ông sau đó đã tham gia Hội nghị Vũng
Tàu và ủng hộ các trường ký trực tiếp với nước ngoài về hợp tác đào tạo thay vì
qua Bộ. Cho dù có những phản ứng lúc đầu, nhưng sau Hội nghị Nha Trang, khi lên
tàu trở về, các hiệu trưởng bắt đầu bàn với nhau các kế hoạch thực hiện.
Ý tưởng bầu hiệu trưởng và phân cấp
cho các trường bắt đầu được đề cập đến ở Hội nghị Nha Trang. Về Hà Nội, trong một
lần gặp riêng tư, ông Trần Hồng Quân nói: “Tôi hỏi ông Võ Văn Kiệt, khi ấy đang
là phó chủ tịch thường trực Hội đồng Bộ trưởng: ‘Chú thấy sao?’. Ông Kiệt hỏi lại:
‘Mày còn phân vân à?’. Rồi nói: ‘Nếu tao là bộ trưởng thì tao sẽ cho tiến
hành’. Về, tôi cho áp dụng luôn ba hình thức: bổ nhiệm thẳng hiệu trưởng, thăm
dò trước khi bổ nhiệm và bầu cử”.
Bầu hiệu trưởng đã tạo ra nhiều hiệu ứng
trong các trường đại học. Trước khi bỏ phiếu, Bộ trưởng trực tiếp đối thoại với
toàn thể cán bộ công nhân viên về mặt chủ trương. Sau đó, các ứng cử viên đưa
ra chương trình hành động của mình và đối thoại trực tiếp với những người bỏ
phiếu. Chính những cuộc đối thoại này đã làm cho các ứng cử viên luôn luôn phải
động não, luôn luôn phải làm hết sức mình. Đó là một giai đoạn mà trong các nhà
trường đại học, ở đâu cũng thảo luận, ở đâu cũng bàn bạc. Ngày đầu tiên có cuộc
đối thoại giữa Bộ trưởng Trần Hồng Quân và cán bộ công nhân viên trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội, hội trường Mễ Trì có sức chứa 600 người, từ sáng sớm đã chật từ
bên trong đến bên ngoài, tranh luận diễn ra liên tục từ bảy giờ sáng cho tới một
giờ chiều.
Tranh cử không phải là một sản phẩm của
đổi mới ở Việt Nam. Hội nghị Nha Trang diễn ra khi mà ở Moscow, vào ngày
21-6-1987, Xô viết Moscow đã tổ chức bầu cử chủ tịch và các phó chủ tịch theo
phương thức các đại biểu có thời gian ba ngày để thảo luận về danh sách các ứng
cử viên. Thay vì chỉ được biết tên các ứng cử viên trước khi bỏ phiếu, như cách
mà báo Nga gọi là “bộ máy cũ tái sản xuất ra chính nó”.
Sinh viên và các phong
trào tự phát
Cho dù không được tham gia bỏ phiếu,
lực lượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ chủ trương bầu hiệu trưởng vẫn là sinh
viên nhất là trong một giai đoạn “đòi tự do, dân chủ” đang trở thành một trào
lưu trên thế giới.
Ở Nam Triều Tiên, chính quyền độc tài
quân sự cũng bắt đầu lung lay. Một thứ trưởng ngoại giao Mỹ đã tới Seoul trao tận
tay Tổng thống Chun Doo Hwan lá thư của Tổng thống Reagan, khuyên Chun đối xử
nhẹ nhàng với những người biểu tình và đàm phán với bên đối lập để sửa đổi hiến
pháp. Đại sứ Mỹ tại Seoul cũng đã vào tận nhà tù để gặp riêng hai lãnh tụ đối lập
Kim Young Sam và Kim Dea Jung.
Sau bảy năm kiên trì đấu tranh, người
dân Hàn Quốc đã buộc Chun Doo Hwan phải chấp nhận sửa đổi hiến pháp và chế độ bầu
cử, bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận; thả tù nhân chính trị và cam
kết, đến tháng 2-1988, khi kết thúc nhiệm kỳ sẽ trao lại quyền lực cho vị tổng
thống dân sự được bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp. Người dân Seoul
đổ xuống đường ăn mừng. Báo Tuổi Trẻ ngày 7-7-1987 gọi đây là “thắng lợi của sức
mạnh quần chúng”.
Khi những người tuổi trẻ ý thức được
sự trưởng thành, họ không giới hạn sự đòi hỏi của mình trong những chuyện cơm
ăn, áo mặc. Không khí dân chủ trong môi trường đại học đã giúp họ nhận ra và
bày tỏ thái độ cả với chương trình đào tạo, thay vì cung cấp những kiến thức cần
thiết cho cuộc sống, sau năm 1975 đã bị chính trị hóa.
Từ sau Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị,
bậc “giáo dục mầm non”, dành cho trẻ từ hai đến bốn tuổi, cũng được coi là “một
bộ phận rất quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người
mới xã hội chủ nghĩa”. Ở bậc “giáo dục phổ thông” - từ hệ 10 năm của miền Bắc
được thiết kế thành hệ 12 năm như miền Nam - nội dung giáo dục được yêu cầu phải
“coi trọng các môn giáo dục công dân và đạo đức cách mạng”. Tham gia đoàn thể
là một hoạt động bắt buộc và trở thành đoàn viên cộng sản là điều kiện tiên quyết
để một học sinh được thi vào đại học. Mục tiêu đầu tiên của bậc “giáo dục đại học”
là đào tạo những người “một lòng một dạ trung thành với tổ quốc xã hội chủ
nghĩa”. Chương trình học và sách giáo khoa bắt đầu được soạn mới,
chính trị càng tràn ngập trong các nội dung giảng dạy.
Giữa năm 1987, tại trường Đại học Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh, xảy ra vụ một sinh viên khoa Triết bị loại bài thi
và bị trưởng Bộ môn Marx-Lenin nhận xét: “Phê phán cực đoan và có nguy cơ phản
Đảng”. Nhiều sinh viên đã phản ứng. Đoàn trường Tổng hợp, hồi tháng 6-1987, đã
tiến hành một cuộc thăm dò dư luận cho thấy 89% sinh viên được hỏi không thích
học các môn lý luận chính trị, trong đó, 30% sinh viên cho rằng do bài giảng
chính trị chất lượng kém, 20% cho rằng cách tổ chức dạy và học chưa tốt.
Ngày 18-6-1987, Chi đoàn khoa Triết
năm thứ ba trường Đại học Tổng hợp tổ chức hội thảo về “giảng dạy và học chủ
nghĩa Marx-Lenin”. Tại đây, các sinh viên đã phê phán “giáo viên dạy lý luận
chính trị mà dựa vào sách vở như là viện dẫn kinh thánh”. Nhiều sinh viên tuyên
bố không thích học chính trị theo cách giảng dạy hiện nay. Một sinh viên năm thứ
tư cho rằng: “Tôn trọng thầy không có nghĩa là không có quyền nhận xét thầy dạy
dở. Đã đến lúc chất lượng bài giảng, phương pháp giảng dạy, kể cả chất lượng
giáo viên chính trị cần phải được đánh giá lại”.
Không dừng lại ở nội dung giảng dạy,
đầu năm học 1987, hai sinh viên Đại học Kinh tế đã vẽ bốn tấm bích chương dán ở
bốn ký túc xá để thu thập chữ ký đòi các Ban Quản lý Ký túc xá cải thiện điều
kiện ăn ở cho sinh viên. Ở khoa Văn, Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh,
sau khi phản ánh nhiều lần không có kết quả, sinh viên đã xếp xe đạp thành rào
chắn, chặn xe tải chạy vào xưởng cồn “cải thiện đời sống” của khoa vì xưởng cồn
gây ồn, ảnh hưởng đến các lớp học. Ban Giám hiệu sau đó đã phải bố trí một nơi
khác yên tĩnh hơn cho sinh viên, còn “kẻ chủ mưu” cuộc biểu tình, sinh viên
Nguyễn Ngọc Vinh, tháng 12-1987, được bầu làm bí thư Đoàn khoa Văn.Việc người
lãnh đạo cuộc đấu tranh với nhà trường được sinh viên tôn vinh cho thấy không
gian dân chủ trong giới sinh viên bắt đầu được đánh thức.
Không chỉ tình hình Đông Âu, giữa năm
1989, sự kiện Thiên An Môn cũng trở thành đề tài bàn luận của sinh
viên Việt Nam. Tin tức về Thiên An Môn bị Ban Tuyên giáo kiểm soát. Báo chí bị
buộc phải đứng ngoài cho tới chuyến thăm lịch sử của Tổng Bí thư Liên Xô tới Bắc
Kinh. Ngày 15-5-1989, trong bản tin nói về chuyến đi của
Gorbachev, báo Tuổi Trẻ mới có cơ hội lồng vào thông tin liên quan tới Thiên An
Môn: “Trong những ngày Gorbachev đang ở Bắc Kinh, hàng trăm ngàn sinh viên vẫn
biểu tình tại Thiên An Môn và tới nay thì lôi cuốn tất cả các thành phần khác
như nông dân, công nhân, các nhà khoa học, nhà giáo, kể cả nhân viên nhà nước.
Hàng ngàn sinh viên đang tuyệt thực, trong đó có những sinh viên phải vào bệnh
viện”.
Cho dù bị đàn áp đẫm máu,
hình ảnh đoàn xe tăng lầm lũi tiến vào Quảng trường Thiên An Môn bị chặn đứng bởi
một người đàn ông vô danh đã khiến cho cuộc biểu tình được coi như
một biểu tượng quả cảm vì tự do, dân chủ. Bí thư Đoàn khoa Văn, Đại học Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh năm 1989, Nguyễn Ngọc Vinh nhớ lại: “Ngay từ khi ở Hàn Quốc,
Thái Lan, đặc biệt là ở Thiên An Môn nổ ra biểu tình, không khí trong sinh viên
đã rất sôi sục. Anh em nói: ‘Khi nào hạ lệnh là tụi em làm liền’. Tôi tìm gặp
Giáo sư Lý Chánh Trung hỏi: ‘Thưa thầy, có nên biểu tình?’. Giáo sư Lý Chánh
Trung khuyên không nên, ông phân tích tương quan rồi nói: ‘Trong chế độ này
không nên làm cái gì mang tính đối lập”.
Đất nước lúc ấy vẫn chưa hết nghèo
đói, xã hội rất bức bách, sinh viên bắt đầu trăn trở. Các thăm dò xã hội cho thấy
thanh niên không hài lòng với cuộc sống hiện thời. Cho dù không có
những hoạt động mang tính tổ chức nhưng nhu cầu phản kháng trong giới sinh viên
vẫn như một thùng thuốc súng. Chính yếu tố không có tính tổ chức này đã làm cho
các phản ứng của sinh viên rất bộc phát và đôi khi vì những lý do nằm ngoài những
bức xúc chính trị. Hai cuộc biểu tình lớn diễn ra ở Sài Gòn trong năm 1989 đều
có tính chất như vậy.
Cuộc biểu tình thứ nhất xảy ra vào
đêm 10-6-1989. Vài giờ trước đó, tại ngã ba Nguyễn Cư Trinh - Cống Quỳnh, dân
quân Nguyễn Thanh Hùng đi xe đạp từ phía sau vượt lên va vào ghi-đông xe đạp của
hai sinh viên thuộc ký túc xá Trần Hưng Đạo. Vì xe bị “tráng niền”, Hùng đánh
hai sinh viên cho dù họ đề nghị Hùng mang xe về ký túc xá sửa. Thay vì can
gián, một nhân viên phường đội phường Nguyễn Cư Trinh và một dân quân khác đã
mang súng ra bắt hai sinh viên về cơ quan phường đánh đập. Hay tin, hàng ngàn
sinh viên đã kéo lên trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố đòi phải trừng trị những
kẻ đã đánh sinh viên. Chính quyền Quận 1 ngay sau đó đã phải hứa cho điều tra,
khởi tố các nhân viên phường đội, sinh viên mới bằng lòng giải tán.
Cuộc biểu tình thứ hai nổ ra gần một
tháng sau giữa sinh viên và bảo vệ Công viên Kỳ Hòa. Sự việc bắt đầu cũng khá
đơn giản: Cuối giờ chiều ngày 6-7-1989, năm sinh viên ký túc xá Ngô Gia Tự và một
số học sinh lên Thành phố dự thi đang chơi ngoài bãi cỏ Công viên Kỳ Hòa thì trời
đổ mưa đột ngột. Họ cùng với những người khách khác chạy vào trú mưa dưới mái
hiên Nhà kính dị dạng. Ít phút sau, bảo vệ công viên đi qua nhìn thấy một tấm
kính bị vỡ nên đã mời số sinh viên này lên phòng Ban Giám đốc giải quyết. Hai
bên đôi co, người bảo vệ phát hiện tấm kính vỡ đã đánh một sinh viên dập sống
mũi. Một sinh viên khác liền chạy về ký túc xá Ngô Gia Tự thông báo. Một số
sinh viên, trong đó có Ban Quản lý Ký túc xá đã đến Công viên Kỳ Hòa yêu cầu lập
biên bản.
Cuộc làm việc chưa đi tới đâu thì bảo
vệ Kỳ Hòa cho thả chó bẹc-giê ra cắn hai sinh viên bị thương. Số sinh viên đang
đứng đợi dưới nhà, kêu lên: “Không đàm phán nữa, về kêu sinh viên ra đập chết
chó đi”. Một thành viên trong Ban Tự quản Sinh viên trực tiếp thảo “lời kêu gọi”
rồi đọc trên hệ thống loa phóng thanh của ký túc xá Ngô Gia Tự. Hơn 600 sinh
viên, trong đó gồm cả sinh viên ở ký túc xá Nguyễn Chí Thanh, nghe tin cũng kéo
theo, trực chỉ Hồ Kỳ Hòa. Ban Giám đốc Công viên bỏ chạy. Bảo vệ chối không có
chó. Sinh viên bắt phải tìm ra con chó thủ phạm đã cắn sinh viên. Sẵn cừ tràm của
một công trình đang xây dựng trong Kỳ Hòa, sinh viên bẻ cừ, đập chết con chó đồng
thời làm hư hỏng thêm một số đồ vật khác.
Sinh viên vẫn đang sùng sục thì sáng
ngày 9-7-1989, báo Sài Gòn Giải Phóng cho đăng “Thông báo của Ủy ban Nhân dân
Quận 10”, đưa kết luận cuộc họp ngày 7-7-1989 theo hướng bào chữa cho bảo vệ Kỳ
Hòa. Ví dụ, sự kiện thả chó, được nói: “Theo thông lệ, sau khi đóng cổng nhân
viên trật tự đã thả chó ra trong vòng rào công viên. Không may có thanh niên
trong số đông còn tụ tập sát cổng khu vực Kỳ Hòa II đã bị một con chó cào xước
nhẹ”. Cũng theo Thông báo: “Nhiều tốp sinh viên ở ký túc xá Ngô Gia Tự, do nghe
tin thổi phồng về tình hình xô xát đã kéo thêm đến công viên Kỳ Hòa. Một số ít
thanh niên trong các tốp đó đã xông vào đập phá gây thiệt hại về tài sản cho cả
các cơ sở trong hai khu vực Kỳ Hòa I & II”. Thông báo nói rằng: “Cuộc họp
đã kiến nghị điều tra, xử lý nhanh chóng và nghiêm minh những người gây ra xô
xát và đập phá tài sản công cộng”. Số tiền mà Kỳ Hòa dự kiến đòi sinh viên bồi
thường lên tới sáu mươi triệu đồng.
Ngay sáng chủ nhật, 9-7-1989, hàng
trăm sinh viên đã kéo tới Tòa soạn báo Sài Gòn Giải Phóng yêu cầu đính chính.
Sài Gòn Giải Phóng không chịu, từ đường Nguyễn Thị Minh Khai, sinh viên kéo ra
đường Lê Thánh Tôn, đến trước trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố. Không chỉ có ký
túc xá Ngô Gia Tự, sinh viên từ các ký túc xá Trần Hưng Đạo, Nguyễn Chí Thanh
và từ Thủ Đức cũng lần lượt kéo lên. Cảnh sát phải chặn sinh viên từ Thủ Đức
lên ở bên kia cầu Sài Gòn. Ngay trong ngày 9-7-1989, chính quyền đã dùng biện
pháp mạnh, bắt bốn người trong Ban Tự quản Sinh viên: Phạm Văn Chiến, Nguyễn
Văn Tấn, Nguyễn Phong Thanh và Nguyễn Sơn Thủy Hùng. Đồng thời, để xoa dịu tình
hình, hai bảo vệ của Công viên Kỳ Hòa cũng bị bắt.
Ngày 12-7-1989, báo Sài Gòn Giải
Phóng “gặp Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nguyễn Văn Bông”. Phát biểu của ông
Bông cho dù vẫn với thái độ “xử lý nghiêm minh” nhưng lời lẽ rõ ràng là “nói lại
cho rõ” những gì đăng trên tờ báo này hôm chủ nhật. Thay vì nói “mũi của một
sinh viên bị xây xát nhẹ”, ông Bông nói rõ: “Bảo vệ Dương Quang Hiệp của Công
viên Kỳ Hòa đã đánh học sinh Phạm Hữu Nghị gây thương tích ở sống mũi”. Về vụ
chó bẹc-giê cắn sinh viên, ông Bông nói: “Đội phó bảo vệ Nguyễn Văn Lâm đã thả
chó ra, chó cắn hai học sinh bị thương. Theo quy định của Hồ Kỳ Hòa, chỉ khi
không còn khách mới được thả chó ra để bảo vệ”.
Nguyễn Sơn Thủy Hùng nhớ lại: “Khoảng
bốn giờ chiều ngày 9-7-1989, chúng tôi được mời lên công an thành phố. Với sự
chứng kiến của thầy hiệu phó và thầy Lý Chánh Trung họ đọc lệnh bắt, đưa lên xe
u-oát chở về 3C Tôn Đức Thắng”. Lệnh bắt nói là “tạm giam bốn tháng” nhưng, người
bị giữ lâu nhất là mười ngày, còn ba người còn lại chỉ bị giữ một tuần rồi cho
về. Giám đốc Sở Công an, Đại tá Nguyễn Hữu Khương đã gặp bốn sinh viên ngay sau
khi họ được thả ra. Ông Khương huấn dụ: “Luật không cấm các em biểu tình, nhưng
biểu tình thế là nguy hiểm, là không kiểm soát được tình hình. Các em chớ dại”.
1989, trên cả nước có mười ba vụ “phản
ứng tập thể của sinh viên” xảy ra tại Hà Nội, Vinh, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Cần
Thơ và Sài Gòn. Theo báo cáo này: “Phần lớn những đòi hỏi vừa qua của sinh viên
là chính đáng. Tuy nhiên, Bộ thấy rằng ở một số nơi, sinh viên có khuynh hướng
giải quyết yêu cầu bằng áp lực của số đông, dẫn đến tình hình phức tạp”. Biểu
tình càng bị coi là “phức tạp” hơn khi chính nó đang làm sụp đổ nhiều quốc gia
cộng sản.
Đông Âu
Cuộc cách mạng diễn ra trong cộng đồng
các nước xã hội chủ nghĩa cuối thập niên 1980 đã làm thay đổi bản đồ chính trị
thế giới. Tuy nhiên, những gì mà người dân Đông Âu và Liên xô coi là cơ hội đã
được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh xác định như một nguy cơ.
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Chế
độ khẳng định là do Đảng Cộng sản Việt Nam thiết lập sau khi “đánh thắng ba đế
quốc to” (Nhật-Pháp-Mỹ). Trong khi, Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu chủ yếu được thiết
lập sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II dựa trên sự áp đặt của
Liên Xô. Trong đó, có những quốc gia được Liên Xô giải phóng từ tay Hitler
nhưng cũng có những quốc gia vốn là nạn nhân của họ. Ngay từ những
năm đầu, người dân và một số nhà lãnh đạo Đông Âu đã không ngừng đấu tranh để
chống lại sự áp đặt đó.
Sau cái chết của Joseph Stalin vào
ngày 5-3-1953, hơn một triệu người dân Đông Đức đã xuống đường biểu tình. Nhưng
người dân Đông Đức đã bị đàn áp bởi xe tăng Liên Xô. Ngày 23-10-1956, người dân
Hungary cũng nổi dậy, thành lập Hội đồng Lâm thời, giải tán cảnh sát an ninh
nhà nước, tuyên bố rút khỏi Khối Warszawa, cam kết tái lập bầu cử tự do. Nhưng
ngày 4-11-1956, Liên Xô đưa quân đội sang, người dân Hungary đã chiến đấu cho tới
ngày 10-11: hơn 2.500 người Hungary và 700 binh lính Liên Xô bị chết, hai mươi
vạn người Hungary phải đi tị nạn chính trị. Cựu Thủ tướng Nagy Imre bị bắt đưa
sang Liên xô. Ngày 17-6-1958, ông cùng những người nổi dậy bị Tòa án Tối cao
Hungary tuyên bố hành quyết.
Cho dù Liên Xô đã dựng lên bức tường
Berlin, họ chưa bao giờ khuất phục được khát vọng tự do của người
Đông Âu. Từ năm 1965, ở Tiệp Khắc, mô hình Stalin được dần thay bằng mô hình
“xã hội chủ nghĩa thị trường” với ước mơ xây dựng một chế độ thực
sự có “khuôn mặt con người”. Tháng 4-1968, Bí thư Dubček còn đề cập
tới khả năng về một quá trình mười năm để Tiệp Khắc chuyển sang chế độ bầu cử
dân chủ.
Nhưng, đêm 20-8-1968, Brezhnev đưa 200.000
lính, 2.000 xe tăng của “Khối Warszawa” tiến vào thủ đô Praha. Cuộc 1-1969, một
sinh viên tên là Jan Palach đã tự thiêu tại Quảng trường Wenceslas ở Praha để
phản đối sự trấn áp quyền tự do ngôn luận.
Xe tăng Liên Xô đã làm tỉnh ngộ các đảng
viên cộng sản và hun đúc ý thức đấu tranh của người dân. Hơn 450.000 đảng viên
rời khỏi đảng cộng sản, hoa tươi luôn được đặt nơi Jan Palach tự thiêu. Từ cuộc
vận động trả tự do cho nhóm nhạc “Plastic People”, ngày 10-12-1977, Nhà viết kịch
Vaclav Havel và các cộng sự quyết định thành lập nhóm “đối lập xây dựng” và cho
ra đời Hiến Chương 77 đòi chính quyền tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do
tín ngưỡng và các quyền con người căn bản khác.
Ngày 6-1-1977, Hiến Chương 77 được
công bố với 242 người Tiệp Khắc ở trong nước đồng ký tên. Trong ngày, các thông
tín viên thường trực tại Praha đã loan tin Hiến Chương 77 đi toàn thế giới. Cho
dù chế độ gia tăng đàn áp, cứ phát ngôn viên này bị bắt thì người khác trong
nhóm lại đứng lên.
Nhưng Đông Âu có thể đã phải mất nhiều
thời gian để thay đổi hơn, nếu như vào ngày 16-10-1978, Karol Wojtyla, một người
Ba Lan không trở thành Giáo hoàng John Paul II và đã trở về thăm quê trong hào
quang vào ngày 2-6-1979. Cho dù phải gần hai năm sau, Ronald Reagan mới trở
thành tổng thống, lúc ấy, từ một trang trại của nước Mỹ ông đã cùng Richard
Allen theo dõi sát sao chuyến đi của Giáo hoàng. Từ đầu thập niên
1980, chính sách ưu tiên của Reagan là “đánh bật Ba Lan ra khỏi quỹ đạo Liên
Xô”. Còn John Paul II thì gọi Lech Walesa, lãnh tụ của phong trào Công đoàn
Đoàn kết, là người “được phái xuống bởi Chúa và ý Trời”.
Nhưng, cả CIA lẫn Giáo hoàng cũng sẽ
không làm được gì nếu tự do, độc lập không phải là khát vọng bên trong của những
người dân Ba Lan, kể cả những người đang nắm quyền trong Đảng.
Trong kỷ nguyên cộng sản, người dân
Ba Lan đã từng đứng dậy ba lần vào các năm 1956, 1970 và 1976; cả ba lần chính
quyền đều đàn áp một cách tàn bạo. Nhưng, không phải tất cả các nhà lãnh đạo
người Ba Lan đều tán thành sử dụng vũ lực để chống lại nhân dân mình. Năm 1980,
khi các cuộc bãi công lại mau chóng lan rộng ra khắp đất nước Ba Lan.
Bí thư thứ nhất Gierek và bộ trưởng Quốc phòng của ông, Tướng Wojciech
Jaruzelski, không muốn sử dụng lực lượng quân sự để cưỡng bức những người bãi
công trở lại làm việc cho dù họ bị Moscow đe dọa.
Ngày 31-8-1980, Chính phủ Ba Lan đã
phải ký với Lech Walesa “Thỏa ước Gdánsk” chấp nhận những đòi hỏi của công nhân
và đặc biệt hợp pháp hóa việc thành lập các tổ chức công đoàn độc lập. Chưa đầy
một tuần sau đó, ngày 5-9, dưới sức ép của Liên Xô, Gierek mất chức. Ngày
27-3-1981, Walesa tổ chức một cuộc tổng bãi công làm cả nước tê liệt, cả Kania
và Jaruzelski, lúc này đã là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ba Lan, lại bị triệu tập
đến Moscow. Một trăm năm mươi nghìn quân Nga và quân của Khối Warsawa được Liên
Xô triển khai dọc biên giới Ba Lan. Cả Jaruzelski và Kania cùng bị người đứng đầu
KGB, Andropov, và Bộ trưởng Quốc phòng Ustinov, đe dọa sẽ can thiệp quân sự nếu
Ba Lan không chịu đàn áp biểu tình.
Năm 1981, chỉ trong vòng chưa đầy ba
tháng, hai nhân vật quyền lực nhất thế giới và ủng hộ Công đoàn Đoàn kết mạnh mẽ
nhất bị ám sát: Tổng thống Reagan bị bắn vào ngày 23-2-1981, Đức Giáo hoàng bị
bắn vào ngày 13-5-1981. Nhưng, cả hai đều sống sót nhờ viên đạn chỉ “đi chệch động
mạch chủ vài milimet”.
Ngày 18-10-1981, theo đề nghị “của
Moscow và của tất cả các đảng cộng sản anh em”, Đảng Công nhân Thống nhất Ba
Lan đã cách chức Kania, chỉ định Jaruzelski làm bí thư thứ nhất. Tối 4-11-1981,
Jaruzelski, Walesa và Tổng Giám mục Ba Lan Glemp gặp nhau. Jaruzelski đề nghị lập
“mặt trận hòa giải quốc gia” để chấm dứt những cuộc hỗn loạn ở trong nước. Đề
nghị của Jaruzelski tuy chưa được Walesa tán thành nhưng vẫn làm cho Brezhnev tức
giận. Ngày 21-11-1981, ông ta đã gửi cho Jaruzelski một bức thư năm trang, đòi
có “một trận đánh quyết định chống lại kẻ thù giai cấp”. Trong tháng 11-1981,
có 105 vụ đình công và 115 vụ đình công khác đang được dự định tiến hành.
Ngày 10-12-1981, Bộ Chính trị Liên Xô
họp khẩn cấp. Nửa đêm, ngày 12-12-1981, trong vòng hai giờ, hầu hết những người
thuộc Ủy ban Quốc gia vừa họp ở Gdánsk, “đòi bầu cử tự do và trưng cầu dân ý về
sự tồn tại của cộng sản”, đã bị bắt; quân đội với xe tăng và bộ binh được điều
vào các đường phố. Lệnh thiết quân luật vào ban đêm có hiệu lực vô thời hạn.
Ngoại trừ số máy dành cho quân đội và lực lượng an ninh, tất cả điện thoại ở Ba
Lan đều bị cắt. Jaruzelski lên truyền hình, tuyên bố: “Không một nơi nào được
phép tụ tập đông người trừ nhà thờ”.
Danh sách những người bị bắt giữ lên
tới mười nghìn, tính tới tháng 3-1982. Walesa được đề nghị gặp Jaruzelski để
thương lượng nhưng ông yêu cầu tất cả những người bị bắt phải được thả ra trước
khi ông xem xét đàm phán với chính quyền.
Cuộc tấn công diễn ra khi cả bộ trưởng
Ngoại giao và bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đều không có mặt ở Washington. Ở Hà Nội,
báo Nhân Dân bình luận: “Reagan và bọn tay chân của đế quốc Mỹ trên đất Ba Lan
đã bị bất ngờ... Phần lớn bọn cầm đầu ở trung ương và địa phương bị các lực lượng
quân đội và an ninh theo dõi chặt chẽ, khóa tay và tống vào trại giam”.
Nhân Dân viết tiếp: “Bọn CIA và những tên trùm phản động cầm đầu Công đoàn Đoàn
kết không ngờ rằng lực lượng cách mạng được huy động để trừng trị bọn chúng lại
là quân đội nhân dân và các lực lượng an ninh nhân dân Ba Lan… Chúng nghĩ như
đinh đóng cột rằng, lực lượng trừng trị chúng chỉ có thể đến từ một hướng duy
nhất: Quân đội Liên Xô”.
Ngày 7-6-1982, Reagan đến Vatican,
nói chuyện không qua phiên dịch suốt năm mươi phút trong phòng Giáo hoàng. Tình
hình Ba Lan không làm cho họ bi quan mà hai con người quyền lực nhất thế giới
này còn tính đến khả năng Liên Xô sụp đổ. Lúc đó, Reagan bắt đầu chương trình
chạy đua vũ trang, đặc biệt là “Star War”. Ông nói với John Paul II việc chạy
theo chính sách hạt nhân của Mỹ sẽ làm cho Liên Xô kiệt quệ.
Đức Giáo hoàng trở về quê hương lần
thứ hai vào ngày 16-6-1983. Trước hai triệu người Ba Lan, Giáo hoàng đã ban phước
cho hai linh mục đấu tranh chống lại người Nga trong cuộc nổi dậy thất bại của
nhân dân Ba Lan vào năm 1863. Ngày hôm sau, John Paul II gặp Walesa. Ngay sau
đó, lệnh thiết quân luật được bãi bỏ. Tháng 10-1983, Walesa được trao giải
Nobel Hòa bình… Nhưng, sự thay đổi của Đông Âu còn chịu tác động rất nhiều bởi
sự ra đi của “kỷ nguyên Brezhnev”.
Leonid Brezhnep chết vào ngày
10-11-1982. Người kế nhiệm ông là Yuri Andropov. Khi Walesa nhận giải Nobel Hòa
bình, Andropov đã tức giận viết thư trách cứ Jaruzelski. Nhưng, ông trùm KGB
này cũng chết vào tháng 2-1984. Người thay thế là Konstantin Chernenko do ốm yếu
nên chỉ nắm quyền được mười ba tháng. Tháng 3-1985, Chernenko chết, Mikhail
Gorbachev trở thành tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô.
Tháng 4-1985, khi tới Ba Lan tham dự
một cuộc họp của Ủy ban Tư vấn Chính trị Hiệp ước Warsawa, Gorbachev đã nán lại
để nói chuyện với Jaruzelski. Trước cuộc gặp, Gorbachev nói ông chỉ có một giờ,
nhưng cuộc nói chuyện đã kéo dài năm giờ.
Hai nhà lãnh đạo đã thảo luận rất lâu
về Giáo hoàng và Vatican. Jaruzelski nhận ra Gorbachev không phải là một người
cộng sản Liên Xô như ông thường thấy. Cả hai phân tích “nguồn gốc của hệ thống
và sự cần thiết thay đổi”. Từ một người nghi ngại Jaruzelski đi theo khuynh hướng
đa nguyên, Gorbachev đã ngồi bàn với Jaruzelski về việc áp dụng chủ nghĩa đa
nguyên cho cả Ba Lan và Liên Xô.
Ngày 11-9-1986, Chính phủ Ba Lan
tuyên bố ân xá và phóng thích 225 tù nhân từng được coi là những “phần tử nguy
hiểm nhất cho quốc gia”. Trong số được phóng thích có Zbigniew Bujak, người có
gần năm năm vừa trốn lệnh truy nã vừa lãnh đạo công đoàn bí mật. Lần đầu tiên kể
từ tháng 12-1981, các lãnh tụ Công đoàn Đoàn kết có thể tự do gặp gỡ.
Ngày 13-1-87, tại Vatican, Tướng
Jaruzelski đã trao tận tay Giáo hoàng bản báo cáo về cuộc nói chuyện mang “tư
duy mới” giữa ông và Gorbachev. Jaruzelski có vẻ vững tâm hơn khi bàn với Giáo
hoàng về tương lai của Ba Lan trên tinh thần hòa giải, một tương lai mà cả giáo
hội và phe đối lập đều có vai trò. Tháng 4-1987, tại Praha, Gorbachev tuyên bố:
“Mối quan hệ chính trị giữa các nước xã hội chủ nghĩa phải dựa trên một sự độc
lập tuyệt đối. Mọi quốc gia được chọn lựa con đường phát triển riêng, được quyết
định số phận và bảo vệ lãnh thổ cũng như các nguồn nhân công và tài nguyên
thiên nhiên của nó”.
Cho tới lúc đó, các nhà lãnh đạo Việt
Nam, kể cả Nguyễn Văn Linh, chưa có đủ sự nhạy cảm để nhận ra tuyên bố đó của Gorbachev
có giá trị như pháo hiệu “giải phóng” Đông Âu.
Cứu chủ nghĩa xã hội
Ngày 15-8-1989, tại Sài Gòn, khi phát
biểu khai mạc Hội nghị Trung ương Bảy, Nguyễn Văn Linh đã tự tin tuyên bố:
“Chúng đang hý hửng về điều mà Tổng thống Mỹ Bu-sơ (G.W.H. Bush) ngày đêm trông
đợi: ‘Chúng ta đang sống ở thời kỳ kết thúc một ý tưởng, sống ở chương cuối của
thể nghiệm cộng sản’. Đó là giấc mơ giữa ban ngày của bọn đại biểu
cho chủ nghĩa chống cộng khét tiếng, không đội trời chung với chúng ta”. Ngày
24-8-1989, khi ở Sài Gòn Hội nghị Trung ương Bảy về chống đa nguyên bế mạc, ở
Ba Lan, Công đoàn Đoàn kết chính thức lên cầm quyền. Ông Linh
không còn lòng dạ nào mà “hí hửng” và sau đó ông đã ứng xử rất “vội vàng”.
Ngày 25-8-1989, Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh triệu tập Bộ Chính trị họp khẩn cấp tại Cơ quan phía nam của Văn phòng
Trung ương (T78 - đường Lý Chính Thắng, Sài Gòn), thành phần mở rộng có cả Trưởng
Ban Tuyên huấn Trung ương Trần Trọng Tân. Theo ông Tân, Bộ Chính trị nhận định,
sự kiện Ba Lan là “đảo chính phản cách mạng”. Khi ấy Tổng Biên tập báo Nhân Dân
Hà Đăng đi vắng nên ông Linh nói với ông Tân: “Cậu phải viết ngay một bài xã luận”.
Ông Trần Trọng Tân ngồi ngay trong phòng họp Bộ Chính trị viết bài báo có tựa đề:
“Sự kiện chính trị ở Ba Lan và thái độ của chúng ta”. Theo ông Tân, bản thảo
bài báo được tất cả các ủy viên Bộ Chính trị dự họp thông qua rất kỹ.
Bài xã luận đăng trên báo Nhân Dân số
ra ngày 26-8-1989 nhấn mạnh: “Những người cộng sản, giai cấp công nhân, các tầng
lớp nhân dân Việt Nam từ lâu đã có tình cảm gắn bó với những người cách mạng
chân chính ở Ba Lan vô cùng căm phẫn và cực lực lên án hành động của những lực
lượng phản động chống phá chủ nghĩa xã hội ở Ba Lan”. Cùng ngày,
bài báo còn xuất hiện trên một số tờ báo Đảng địa phương. Theo ông Trần Trọng
Tân, sau khi báo ra, ở Hà Nội, Bộ Chính trị - Ban Bí thư còn cho các đoàn thể cử
người đến Đại sứ quán Ba Lan “thăm hỏi” với tinh thần là “tiếp sức cho họ”. Ông
Tân nói: “Tưởng tay đại sứ thuộc phe cộng sản, ai lường hắn thuộc phe lật đổ.
Tay đại sứ đã cự lại, và nói với đoàn của ta sự kiện ở Ba Lan không phải là lật
đổ mà chính là sự lựa chọn của nhân dân Ba Lan”.
Tình hình Liên Xô và Đông Âu trong
năm 1989 thay đổi từng ngày, từng giờ. Ngày 9-6-1989, Đại hội Đại biểu Nhân dân
Liên Xô bế mạc. Đây là cơ quan nghị viện nhân dân đầu tiên ở Liên xô được bầu cử
công khai với năm ứng cử viên cho một ghế dân biểu. Ba mươi lăm bí thư vùng của
Đảng đã không đắc cử trong cuộc bầu cử này.
Khi Liên Xô khai mạc đại hội vào ngày
25-5-1989, nhiều đại biểu đã kêu gọi thành lập “nhóm đối lập” trong đại hội.
Boris Yeltsin cũng bắt đầu xuất hiện ở đây như một chính trị gia khi ông đòi
thúc đẩy nhanh quá trình cải tổ: xây dựng hiến pháp mới, ra luật về đảng,…
Yeltsin bị 964 phiếu chống khi tranh cử vào Xô viết Tối cao Liên Xô, nhưng một
giáo sư đại học đã nhường lại ghế của mình cho Yeltsin và điều này đã được đại
hội chấp thuận.
Tổng Bí thư Gorbachev cũng đã phải
“tranh cử” từ một cuộc bỏ phiếu có hai ứng cử viên để trở thành chủ tịch Xô viết
Tối cao. Ông phát biểu trong phiên bế mạc: “Lần đầu tiên trong lịch sử Liên Xô,
tại đại hội này đã có thảo luận công khai. Đại hội đã đưa Liên Xô lên một giai
đoạn mới”. Một ủy ban cũng đã được thành lập để sửa đổi hiến pháp theo hướng
“xây dựng một nhà nước ngăn chặn sự xuất hiện trở lại ở Liên Xô tệ sùng bái cá
nhân, chế độ độc đoán và quản lý xã hội bằng mệnh lệnh hành chính”.
Ở Đức, từ cuối năm 1988 bắt đầu xuất
hiện những cuộc biểu tình đòi cải cách kinh tế. Mùa hè năm 1989, áp lực đòi cải
cách chính trị, đòi tự do ngôn luận, sửa đổi hiến pháp và đòi chính phủ từ chức
qua các cuộc biểu tình càng dâng cao. Ngay sau khi Hungary từ bỏ thể chế cộng sản,
mở cửa biên giới sang Áo, lập tức có mười nghìn người dân Đông Đức tràn vào đất
nước này và biến nó thành nơi để trốn qua các nước phương Tây. Làn sóng trốn chạy
khỏi các quốc gia cộng sản Đông Âu đã lên tới “một con số khổng lồ” vào mùa hè
năm 1989. Erich Honecker, tổng bí thư của Cộng hòa Dân chủ Đức phản đối việc mở
cửa biên giới sang Hungary, nhưng tiếng nói của ông vào lúc ấy không còn được
ai nghe nữa.
Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh tới Berlin dự lễ kỷ niệm bốn mươi năm ngày thành lập Nước Cộng hòa Dân chủ
Đức. Theo ông Lê Đăng Doanh: “Quyết địng đi dự 40 năm Quốc Khánh CHDC Đức là
quyết định trực tiếp của cá nhân anh Linh. Anh Linh đã bàn với Bộ Chính trị về
việc phải triệu tập một Hội nghị các Đảng Cộng Sản và Công nhân quốc tế để cứu
phong trào cộng sản, chống chủ nghĩa cơ hội. Anh sang Berlin là để gặp các đồng
chí để bàn về việc ấy và gặp Gorbachev. Trong một cuộc họp, anh Linh nhận xét:
Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành tinh này”.
Ngày 4-10-1989, từ Hà Nội, hãng
Interflug của Cộng hòa Dân chủ Đức dành cho ông Linh một ghế hạng thương gia,
các thành viên cao cấp khác - Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Trợ lý Tổng Bí thư Lê
Xuân Tùng, Phó Ban Đối ngoại Trịnh Ngọc Thái, Đại sứ Tạ Hữu Canh và thư ký Lê
Đăng Doanh - chỉ ngồi khoang hành khách thường.
9-1989, cuộc mit-tin lớn bắt đầu,
trên lễ đài: Honecker ngồi giữa, một bên là Gorbachev, một bên là một phó thủ
tướng, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc – Honecker muốn thể hiện
chính sách đề cao Trung Quốc làm đối trọng với Gorbachev; Ông Nguyễn Văn Linh
được ngồi hàng đầu nhưng ghế thứ hai từ ngoài vào, bên cạnh ghế hàng đầu cuối
cùng của Phó Thủ Tướng Lào. Trong suốt chuyến thăm chính thức ấy, phía CHDC Đức
không thu xếp cho ông Linh một buổi gặp chính thức nào với Honecker hay một nhà
lãnh đạo khác. Thế nhưng, điều đó đã không làm ông Nguyễn Văn Linh từ bỏ ý đồ
đóng vai trò trung tâm cứu nguy chủ nghĩa xã hội.
Trong ngày 6-10-1989, giữa Berlin rét
mướt, ông Nguyễn Văn Linh đã tìm gặp các nhà lãnh đạo cộng sản đến dự lễ quốc
khánh để thảo luận về một sáng kiến mà ông đưa ra: triệu tập hội nghị các đảng
cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Ông Linh nói: “Phe ta đang diễn biến
phức tạp. Hơn bao giờ hết, đòi hỏi quốc tế vô sản phải siết chặt hàng ngũ. Đảng
Cộng sản Việt Nam thấy nên có một hội nghị để thống nhất tư tưởng và hành động,
tăng cường tình đoàn kết”.
Đa số các đảng cộng sản làm ngơ đề
nghị của ông Linh, chỉ có Batmunkho Tổng Bí thư Mông Cổ, Phó Thủ Tướng
Hernandez của Cuba, Tổng Bí thư Ceaucescu của Rumania, Tổng Bí thư Đảng vừa thất
cử của Ba Lan Jaruzelski, Chủ tịch Đảng Cộng Sản Tây Đức (DKP) Herbert Mies là
chấp nhận gặp. Chỉ có Helbert Mies, lãnh tụ của một đảng không cầm quyền và Phó
thủ tướng Cuba Hernandez là tự tới nơi ông Linh ở. Theo ông Lê Đăng Doanh, những
người khác chỉ tiếp ông Nguyễn Văn Linh tại phòng riêng của họ.
Đến nơi ở của các nhà lãnh đạo khác mới
thấy cách đối xử của Erich Honecker với ông Nguyễn Văn Linh. Theo ông Lê Đăng
Doanh: Trong khi ông Linh chỉ được xếp một phòng đôi lớn hơn phòng các thành
viên khác trong đoàn một chút thì chỗ ở của Ceausesscu là một khu vực gồm nhiều
phòng. Ông Linh và tùy tùng phải đi qua một sảnh lớn nơi có một đội cận vệ 12
người bồng tiểu liên AK báng gập đứng chào. Ceaucesscu đã để ông Linh phải ngồi
chờ rất lâu. Ông Linh nói: “Mày liên hệ thế nào mà giờ không thấy nó”. Tôi bảo:
“Tính thằng này nó hình thức thế”. Một lúc sau thì Ceausesscu ra, chính ông ta
lại là người tỏ ra hăng hái ủng hộ sáng kiến của ông Nguyễn Văn Linh nhất.
Ceausesscu thậm chí còn đòi để Rumani đăng cai. Tuy nhiên, cả Ceausesscu và các
nhà lãnh đạo cộng sản khác đều nói với ông Linh: “Vấn đề là ông kia, nếu ông ấy
không đồng ý thì rất khó”. “Ông kia” đề cập ở đây là Gorbachev.
Trước khi ông Nguyễn Văn Linh rời Hà
Nội, Ban Đối Ngoại đã liên lạc với phái viên Liên Xô và được Gorbachev đồng ý sẽ
có cuộc gặp vào ngày 8-10-1989, hai bên đều mang theo phiên dịch Nga-Việt và Việt-Nga
cho cuộc gặp. Hôm đó, ông Linh đang đau rất nặng.
Từ 19 đến 21 giờ tối 6-10-1989, sau
phần đọc diễn văn, cuộc mit-tin được chuyển từ trong một lâu đài ra một lễ đài
ngoài trời duyệt quần chúng, thanh niên rước đuốc. Ông Lê Đăng Doanh kể: Đám
thanh niên tuần hành sôi lên sùng sục kêu tên Gorbachev, “Gorby! Gorby!”. Anh
Linh chỉ mặc bộ complet, tối nhiệt độ xuống khoảng 8C, cận vệ quên mang áo lạnh,
ông Nguyễn Văn Linh đứng run bần bật, kêu tôi: “Tao lạnh quá”. Tôi phải nói với
một viên tướng Đức đứng cạnh đấy: “Tổng Bí thư của tôi quên mang áo ấm”. Viên
tướng cho mượn tạm tấm áo choàng của ông ta.
Sáng hôm sau, 7-10-1989, theo lịch
trình, mười giờ sẽ có duyệt binh, nhưng tám giờ, ông Nguyễn Văn Linh triệu tập
họp Chi bộ Đảng thông báo tình hình sức khỏe: “Mình thấy có gì đó không bình
thường, không nhắm được mắt, miệng cứng, không ăn được”. Về sau bác sỹ xác định
đó là triệu chứng liệt dây thần kinh số 7. Mọi người đề nghị ông Linh không ra
lễ đài, ông Nguyễn Khánh thay ông Linh dự duyệt binh rồi báo với “bạn”. Phía
CHDC Đức mời ông Linh ở lại khám chữa bệnh và khuyên ông không nên về trong lúc
này. Tuy bệnh tình càng ngày càng nặng, nước mắt chảy ra nhiều, miệng có biểu
hiện bị méo và nói bắt đầu khó khăn, ông Nguyễn Văn Linh vẫn hy vọng rất nhiều
vào cuộc gặp với Gorbachev.
Cuộc gặp Gorbachev dự kiến diễn ra
lúc 10:30 sáng 8-10-1989, nhưng chờ đến mười một giờ cũng không thấy văn phòng
ông ta gọi lại. Ông Linh rất sốt ruột. Theo ông Lê Đăng Doanh: Trong khi đó,
sáng ngủ dậy, bệnh ông Linh càng nặng thêm. Khi ăn cơm, ông kêu tôi ra ngoài vì
không muốn tôi chứng kiến cảnh ông ăn rất chật vật. Hàm bên trái của ông Linh cứng
lại. Ông phải nhai ở phía bên phải sau đó dùng hai ngón tay đẩy thức ăn vào họng,
chiêu một ngụm nước mới nuốt được.
Cuộc gặp Gorbachev được lùi lại 2:30
rồi 5:30 chiều cùng ngày. Gorbachev, khi ấy vẫn là nhà lãnh đạo của cả phe xã hội
chủ nghĩa, được bố trí ở trong một tòa lâu đài. Nhưng, cuộc tiếp tổng bí thư Việt
Nam đã không diễn ra trong phòng khách riêng mà ở ngay một phòng rộng mênh mông
vừa dùng cho một tiệc chiêu đãi lớn, thức ăn thừa còn bề bộn trên các bàn. Nhân
viên dọn một góc, kê bàn để Gorbachev tiếp ông Nguyễn Văn Linh. Gorbachev ra
đón ông Linh ở sảnh và khi cửa xe mở, ông cúi đầu nói: “Kẻ cơ hội nhất hành
tinh kính chào đồng chí Nguyễn Văn Linh”.
Dù đang bệnh, ông Nguyễn Văn Linh vẫn
trình bày rất nhiệt tình, nhưng theo ông Lê Đăng Doanh: Sáng kiến nào của ông
Linh cũng được Gorbachev khen là “rất tốt” nhưng chỉ là những lời khen xã giao.
Ông Linh nói: “Tôi đã gặp một số đảng cộng sản anh em. Trong tình hình này, Đảng
Cộng sản Việt Nam muốn đồng chí đứng ra triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và
phong trào công nhân quốc tế”. Gorbachev liền giơ hai tay lên tươi cười: “Ý này
hay nhỉ. Để xem! Để xem! Rất tiếc là giờ tôi đang nhiều việc quá!”. Ông Linh
trân trọng mời Gorbachev đến thăm Việt Nam. Gorbachev lại kêu lên: “Hay quá nhỉ!
Cám ơn! Cám ơn! Nhưng, tôi đang có nhiều lời mời quá mà chưa biết thu xếp cái
nào trước”.
Cuối cùng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh đề cập đến truyền thống viện trợ của Liên xô và khi ông đề nghị Liên Xô tiếp
tục giúp đỡ cho Kế Hoạch 5 năm 1990-1995 của Việt Nam thì Gorbachev xua tay.
Không còn xã giao, lịch sự như phần trên nữa, Gorbachev nói: “Khó khăn lắm, khó
khăn lắm, các đồng chí Việt Nam tự lo thôi”. Theo ông Lê Đăng Doanh: Thế nhưng,
ngày hôm sau, báo Nhân Dân và Pravda đều đưa tin về cuộc gặp diễn ra trong
“tình hữu nghị thắm thiết”.
Tối 8-10-1989, từ lâu đài của
Gorbachev trở về, ông Nguyễn Văn Linh không dự chiêu đãi của Honecker mà đi thẳng
vào bệnh viện Chính phủ ở Berlin-Buch. Ông được điều trị tại “Station 7” - nơi
dành riêng cho Bộ Chính trị của CHDC Đức mỗi khu cho một bệnh nhân có nhiều
phòng cạnh nhau cho tùy tùng đi theo cùng ở. Trong “Station 7” được trang bị
truyền hình có thể bắt được các kênh phát đi từ Tây Đức. Thời gian đó, hàng
trăm nghìn người dân Đông Đức đã đổ xuống đường phố Leipzig và Đông Berlin đòi
phế truất Honecker.
Sau lễ mừng Quốc khánh, Honecker cũng
phải vào “Station 7”, nơi ông ta có một biệt thự riêng ở đó. Honecker cầu cứu
Gorbachev nhưng cũng như với Nguyễn Văn Linh, Gorbachev lại lịch sự từ chối.
Ông Lê Đăng Doanh kể: “Tôi dịch cho ông Linh những thông tin trên truyền hình:
Cảnh sát và người biểu tình đụng độ nhau ở khắp nơi. Cộng hòa Dân chủ Đức nói
đã có 160 cảnh sát.
Nhưng cảnh sát không thể ngăn chặn những
cuộc biểu tình của người dân Đức. Ngày 18-10-1989, Eric Honecker từ chức, Egon
Krenz, một ủy viên Bộ Chính trị trẻ tuổi, thay ông giữ chức bí thư thứ nhất.
Ông Lê Đăng Doanh kể: “Tình hình cũng không vì thế mà có cải thiện. Chúng tôi
lo lắng, nhỡ có chuyện gì xảy ra khi đang còn ở đây thì nguy, trong túi thầy
trò không hề có một đồng đô-la lận lưng nào cả. Tôi bảo bác sỹ có thuốc gì tốt
thì cấp cho xếp tao để ông đủ sức khỏe bay về”.
Vào lúc 11 giờ ngày 23-10-1989, trước
khi rời Berlin, ông Nguyễn Văn Linh đã đến chúc mừng Egon Krenz vừa lên nhận
cương vị mới. Cuộc gặp vừa để chúc mừng Egon Krenz, vừa để đưa tin công khai về
sự vắng mặt dài ngày của ông Linh. Ông Linh là vị nguyên thủ duy nhất kịp bắt
tay Krenz. Ngày 24-10-1989, toàn thể Bộ Chính trị và Đại Sứ CHDC Đức ra tận cầu
thang sân bay Gia Lâm đón Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Lễ đón rất trọng thị, mọi
người thăm hỏi sức khỏe và khuyên ông Linh nghỉ một thời gian để chữa bệnh tiếp.
Không chỉ có Erich Honecker và người
kế nhiệm, ông Egon Krenz, theo Gorbachev thì chính phương Tây cũng có nhiều nỗ
lực để ngăn chặn quá trình thống nhất nước Đức. Từ Thatcher (Anh), Mitterrand
(Pháp) cho đến Andreotti (Ý) đều “muốn ngăn chặn người Đức thống nhất thành một
quốc gia hùng mạnh trở lại và họ chờ đợi Liên Xô đưa xe tăng vào Đức cùng với
quân lính của Gorbachev”. Nhưng, theo Gorbachev: “Sự sụp đổ của bức tường
Berlin chỉ là hồi chót của một quá trình đã diễn ra từ rất lâu.
Khi Liên Xô bắt đầu tiến hành một loạt
thay đổi mang tính bước ngoặt, như tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên… Khi tiến trình
giải trừ quân bị bắt đầu giữa Nga và Mỹ để chấm dứt Chiến tranh Lạnh”.
Ngày 9-11-1989, biên giới giữa Đông
và Tây Đức được mở ra. Ngày 10-11-1989, người dân bắt đầu phá bỏ bức tường
Berlin. Vài tháng sau, chế độ cộng sản ở Đông Đức sụp đổ. Cũng trong ngày
10-11-1989, Todor Zhivkov cũng bị phế truất sau ba mươi năm trị vì ở Bulgaria.
Tại Praha, người dân đổ ra đường yêu cầu Husak từ chức. Alexander Dubcek, người
bị Liên Xô bắt giữ hồi “Mùa xuân 1968” bắt đầu xuất hiện cùng với đoàn người biểu
tình. Một tháng sau đó Husak từ chức. Ngày 29-12-1989, Vaclav Havel, được bầu
làm tổng thống đầu tiên của Tiệp khắc.
Ở Rumani, chế độ của nhà độc tài
Ceausescu đã phải sụp đổ trong một cuộc biểu tình đẫm máu. Lực lượng an ninh
Rumani tấn công những người biểu tình trong khi quân đội ủng hộ dân chúng. Hàng
trăm người dân bị giết chết. Chỉ hơn một tháng rưỡi sau khi tán đồng với Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh tổ chức một hội nghị quốc tế cứu vãn phe xã hội chủ
nghĩa, ngày 25-12-1989, Tổng Bí thư Nicole Ceausescu và vợ ông đã bị những người
biểu tình đem ra xử bắn.
“Đa nguyên, đa đảng”
Giữa năm 1987, Câu lạc bộ Những người
kháng chiến cũ ra đời. Sáng lập Câu lạc bộ là những người cộng sản lão thành
như Nguyễn Hộ, Đỗ Trung Hiếu, Trần Văn Giàu, Trần Nam Trung, Trần Bạch Đằng...
Nhưng, ngay từ đầu Câu lạc bộ Kháng chiến cũ đã gây lo ngại cho chính quyền bởi
những hoạt động như: “Hội thảo, mít tinh, kiến nghị, viết báo, ra báo nhằm các
mục tiêu cụ thể chống tiêu cực, quan liêu, cửa quyền, ức hiếp trù dập quần
chúng, tham nhũng, bè phái, bao che lẫn nhau vì đặc quyền, đặc lợi trong hàng
ngũ cán bộ đảng và nhà nước”.
Tháng 9-1988, Câu lạc bộ xuất bản tờ
Truyền Thống Kháng Chiến nhưng sau khi ra được hai số thì bị đóng cửa. Những
người chủ trương quyết định phát hành báo trong bí mật. Khi công an “tấn công
và thu hồi các bản in ở Sài Gòn”, Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng đưa tờ báo chạy xuống Mỹ
Tho, vừa làm chế bản xong thì Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy ra lệnh không cho nhà in
in báo. Những người kháng chiến cũ lại phải chạy xuống Cần Thơ. Nhưng hai mươi
ngàn tờ báo vừa mới in ra thì có lệnh tịch thu. Ngay sau đó chính quyền đóng cửa
vĩnh viễn Truyền Thống Kháng Chiến. Những người có vai vế như Trần Văn Trà, Trần
Bạch Đằng rút lui khỏi Câu lạc bộ. Ông Nguyễn Văn Linh lo sợ tất cả các hoạt động
dưới hình thức tổ chức cho dù tổ chức đó do ai lập ra.
Tháng 10-1988, hai đảng Dân chủ và Xã
hội bị ông Nguyễn Văn Linh giải tán bằng cách yêu cầu hai đảng này tự tuyên bố
“kết thúc hoạt động”. Cho dù, ông Linh biết rõ: “Tuy mang danh hiệu là Đảng Xã
hội (và Dân chủ) Việt Nam, nhưng đa số các đảng viên (của hai đảng này) đều có
mục đích và tôn chỉ hoạt động giống như những người cộng sản”.
Trên thực tế cả hai đảng đều được lập ra theo chỉ thị của Hồ Chí Minh nhưng
“máu mủ” không phải là điều mà ông Nguyễn Văn Linh tin là có thể đem ra đảm bảo.
Lễ tuyên bố kết thúc hoạt động của
các đảng Dân chủ và Xã hội được “tổ chức trọng thể” vào ngày 15-10-1988 tại Nhà
hát Lớn Hà Nội. Diễn văn “Tổng kết 42 năm hoạt động” của đảng Dân chủ được Tổng
thư ký Nguyễn Xiển đọc thừa nhận: “Đến thời kỳ này, hầu hết đảng viên Đảng Xã hội
Việt Nam đã tuổi cao, sức yếu”. Cho dù ông Nguyễn Xiển khẳng định “một lòng
trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa”, khi đọc diễn văn đáp lại, ông Nguyễn
Văn Linh vẫn cho rằng: “Các đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình”.
Sau tuyên bố này của Tổng Bí thư, tên tuổi hai đảng không bao giờ còn được nhắc
tới nữa.
Giải quyết xong tình trạng “đa đảng”,
ông Nguyễn Văn Linh bắt tay xử lý vấn đề “đa nguyên”. Các cuộc đụng độ trên mặt
trận này bao gồm cả con người chứ không chỉ đơn thuần lý luận.
Cho tới lúc đó, “đa nguyên” chưa xuất
hiện trên báo chí như là một vấn đề mang tính chính trị. Tháng 10-1988, nhân có
cuộc hội thảo diễn ra tại Hà Nội của các nhà khoa học xã hội đến từ các nước xã
hội chủ nghĩa, ông Trần Xuân Bách, với tư cách là ủy viên Bộ Chính trị phụ
trách Khoa-Giáo, đã tới dự và phát biểu khai mạc. Bài phát biểu của ông Trần
Xuân Bách bắt đầu chạm tới những vấn đề cốt lõi của lý luận và rồi sẽ bị coi
như là những “lệch lạc” bước đầu.
Ông Trần Xuân Bách cho rằng chủ nghĩa
xã hội mà Karl Marx dự báo “có những điểm không hoàn toàn khớp với hiện thực bảy
mươi năm qua”, trong khi: “Chủ nghĩa tư bản chứa đựng những mầm mống
và tiền đề vật chất-kỹ thuật cho xã hội mới”. Ông Bách cho rằng:
“Mô hình chủ nghĩa xã hội sẽ giảm tính thuyết phục, sức hấp dẫn, nếu năng suất
lao động thấp hơn chủ nghĩa tư bản, nếu mọi công dân không thực sự có quyền tự
do dân chủ. Những biểu hiện dân chủ hình thức chỉ làm nảy sinh sự thờ ơ, bàng
quan, làm giảm lòng tin”. Ông Bách kêu gọi: “Các nhà khoa học xã
hội Việt Nam cũng cần sử dụng đúng đắn quyền dân chủ và tự do sáng tạo của mình
để nghiên cứu sâu sắc hơn, đề xuất với Đảng những ý kiến mới và cụ thể hơn liên
quan đến thời kỳ quá độ… Khoa học xã hội có nhiệm vụ làm cho mọi người ý thức đầy
đủ quyền tự do dân chủ của họ, giúp họ thực hiện quyền đó”.
Theo ông Trần Trọng Tân, trong ngày
báo Nhân Dân công bố phát biểu trên đây, khi gặp nhau ở Văn phòng Trung ương Đảng,
ông Tân đã nói với ông Trần Xuân Bách: “Anh nói thế là sai”. Ông Bách chưa kịp
trả lời thì Đào Duy Tùng, ủy viên Thường trực Bộ Chính trị tới. Trần Xuân Bách
nhắc lại lời của ông Tân rồi nói: “Tôi phát biểu thế mà Hai Tân bảo sai?”. Đào
Duy Tùng trả lời: “Anh nói đại sai”.
Tháng 3-1989, tại Hội nghị Trung ương
6, vấn đề “đa nguyên” bắt đầu được đưa ra. Tuy Nghị quyết chỉ nêu ngắn gọn:
“Không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên”. Nhưng, trong bài phát biểu bế mạc, Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh: “Hội nghị Trung ương lần này đã tỏ rõ sự nhất
trí rất cao không chấp nhận tự do hóa tư sản, ‘chủ nghĩa đa nguyên’, đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập nhằm phủ nhận chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa xã hội
và vai trò lãnh đạo của Đảng. Không thể không thấy đó là âm mưu chính trị phản
động của kẻ thù giai cấp và dân tộc. Chúng ta quyết không mắc mưu xảo quyệt của
bọn đế quốc và các loại phản động”.
Không lâu sau đó, Trần Trọng Tân viết
bài nói rõ hơn quan điểm của Trung ương “Về chủ nghĩa đa nguyên”. Sau khi dẫn gốc
tiếng Anh (pluralism), tiếng Pháp (pluralisma) và ý nghĩa triết học của từ “đa
nguyên”, Trần Trọng Tân viết: “Nếu hiểu đa nguyên theo nghĩa triết học thì từ
lâu đã bị phê phán là sai lầm. Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên về
triết học và Nghị quyết Hội trong bối cảnh tranh luận về triết học… Chủ nghĩa
đa nguyên mà chúng ta không chấp nhận là chủ nghĩa đa nguyên mà cốt lõi của nó
là đòi sự tồn tại của đảng chống đối, của những tổ chức chính trị chống đối, bắt
đầu từ việc đả kích tiến đến làm vô hiệu hóa sự lãnh đạo của đảng, lái phong
trào đi chệch mục tiêu xã hội chủ nghĩa, đề xướng một kiểu dân chủ không cần tập
trung, dẫn tình hình xã hội đến chỗ hỗn loạn vô chính phủ”.
Mùa hè năm 1989, Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh trả lời phỏng vấn báo Trud của Liên Xô. Khi phóng viên thường trú của
báo này tại Đông Nam Á, Kalashnikov hỏi: “Đồng chí có cho rằng việc phản ánh
trên báo chí toàn bộ sự đa nguyên của các ý kiến là điều có thể có không?”. Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh trả lời: “Dân chủ cần phải tồn tại trong khuôn khổ tập
trung và phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng Marxist-Leninist, cần phải kiên
quyết tránh để xuất hiện trên báo chí các phát biểu vô chính phủ, xa lạ với chủ
nghĩa xã hội”.
Không giới hạn những tuyên bố của
mình trong phạm vi Việt Nam, ông Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh: “Chúng tôi không chấp
nhận chủ nghĩa đa nguyên như là sự đa dạng của các trào lưu chính trị khác
nhau, kể cả trào lưu tư sản. Chúng tôi phản đối chế độ đa đảng, phản đối sự tồn
tại của các đảng phản động, chống chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi bác bỏ những lời
kêu gọi đòi hỏi sự tồn tại tự do của các trào lưu chính trị khác nhau đã xuất
hiện ở một số nước. Sự đa dạng đó trên thực tế sẽ đưa đất nước chúng tôi khỏi
con đường xã hội chủ nghĩa và rời bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin... Chúng tôi chăm chú
theo dõi để những hiện tượng như vậy không xuất hiện ở Việt Nam. Chúng tôi cần
phải đề cao cảnh giác trước những âm mưu đen tối của một số nước đế quốc đang
tìm mọi cách để gây tình hình bất ổn trong sinh hoạt nội bộ của các nước xã hội
chủ nghĩa”.
Theo ông Hữu Thọ, khi ấy là phó tổng
biên tập báo Nhân Dân: “Ông Linh yêu cầu người phỏng vấn phải đăng nguyên văn
chứ không được cắt. Báo Trud đã phải cân nhắc khá lâu trước khi đăng”. Ông Hữu
Thọ kể: “Sau khi báo Lao Động đăng lại bài phỏng vấn này, ông Trần Xuân Bách
phê bình ông Linh là vi phạm nguyên tắc Đảng và nguyên tắc đối ngoại khi công
khai đưa ra quan điểm trái với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Cho tới
lúc ấy, Trung ương vẫn chưa chính thức có nghị quyết chống đa nguyên, đa đảng”.
Ngày 14-8-1989, trên báo Sài Gòn Giải
Phóng Trần Bạch Đằng sử dụng nguyên một trang khổ lớn để bàn về đa nguyên “dưới
góc độ triết học, kinh tế học và xã hội học”. Ông Đằng nhập đề khá mở: “Về
chính trị, xã hội, kinh tế, đa nguyên luôn chủ trương tính đa dạng, sự khác
nhau trong quan điểm, trong xu hướng. Với một nghĩa hẹp hơn, thuyết đa nguyên của
một số học giả cộng sản chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội không theo một mô
hình định sẵn”. Nhưng rồi ông kết luận: “Là những người theo chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của Marx-Lenin, các đảng viên cộng sản Việt Nam
xác định quan điểm triết học của mình và kiên trì bảo vệ nó. Coi nó là thế giới
quan, nhân sinh quan khoa học đứng vững qua thử thách 1,5 thế kỷ. Nói một cách
khác về triết học, chúng ta không chấp nhận thuyết đa nguyên”.
Về “đa đảng”, ông Trần Bạch Đằng viết:
“Đừng coi đa đảng như một thứ thời trang khi không có nhu cầu khách quan đó.
Cái then chốt của chúng ta là dân chủ. Xã hội và quần chúng đã có trong tay rất
nhiều công cụ để thực hiện dân chủ như quốc hội, hội đồng nhân dân, đoàn thể rồi”.
Ông Trần Bạch Đằng đặt câu hỏi: “Phải chăng đổi mới là phải xóa bỏ chế độ xã hội
chủ nghĩa và Đảng Cộng sản Việt Nam, phải có các sự kiện như Công đoàn Đoàn kết,
như khôi phục Imre Nagy, như va chạm sắc tộc ở Grudia, như đổ máu ở Thiên An
Môn?”. Rồi ông trả lời: “Không! Vẫn có con đường đổi mới đích thực mà không ồn
ào như vậy”.
Như để trả lời từng luận điểm của ông
Trần Bạch Đằng, ngày 15-8-1989, Tổng Biên tập Tô Hòa cho đăng trên Sài Gòn Giải
Phóng bài viết về “Dân Chủ” của Giáo sư Phan Đình Diệu. Giáo sư Diệu định nghĩa:
“Dân chủ là quyền tham gia vào việc tổ chức và quản lý xã hội, thể hiện ở quyền
tự do ứng cử và bầu cử, quyền tự do ngôn luận và các quyền tự do khác”. Giáo sư
Phan Đình Diệu cho rằng: “Thực tiễn cuộc sống ở đất nước ta cũng như thế giới
đang đặt ra những vấn đề to lớn mà không thể tìm ra lời giải đáp hoàn toàn ở bất
kỳ một học thuyết nào… Những gì xảy ra trong thế kỷ hai mươi là điều không thể
hình dung đối với những bộ óc, dù là vĩ đại, của giữa thế kỷ 19”.
Tuy không sử dụng khái niệm đa
nguyên, nhưng Giáo sư Phan Đình Diệu vẫn nêu đầy đủ “nội hàm” của nó: “Ta đang
đi tìm đường đi cho đất nước trong thế giới hiện đại. Nhiều nguồn tri thức phải
được tiếp thu, nhiều cách lý giải phải được đề xuất và thảo luận. Cái gì đã rõ
thì ta cũng theo, cái gì chưa rõ thì ta cần cùng nhau tìm cách làm rõ bằng việc
vận dụng trí tuệ của thời đại”. Sau khi đọc bài của Giáo sư Phan Đình Diệu, từ
Hà Nội, Bí thư Trần Xuân Bách gửi cho Tô Hòa một tấm danh thiếp của ông, mặt
sau danh thiếp ghi: “Chuyển giùm anh Phan Đình Diệu, tôi ca ngợi bài này”.
Đây là bài báo cuối cùng mà Tô Hòa
cho đăng với tư cách tổng biên tập Sài Gòn Giải Phóng. Ngày 12-8-1989, ông được
Bí thư Thành ủy Võ Trần Chí mời lên hỏi: “Trước anh có viết thư xin nghỉ, giờ
anh có giữ ý kiến không?”. Tô Hòa trả lời: “Tôi vẫn giữ”. Võ Trần Chí: “Vậy khi
nào anh nghỉ được?”. Tô Hòa: “Ngay hôm nay”. Theo ông Tô Hòa, sở dĩ ông đồng ý
nghỉ ngay là vì, nguồn tin của ông từ Hà Nội cho hay, ông Nguyễn Văn Linh “muốn
Tô Hòa rời Sài Gòn Giải Phóng trước khi Hội nghị Trung ương 7, bàn về chống đa
nguyên, khai mạc tại Sài Gòn vào ngày 15-8-1989”.
Trở về tòa soạn, Tô Hòa lặng lẽ viết
một lá thư chia tay đăng trên số báo ra ngày 13-8, tự quyết định là sẽ bàn giao
chức tổng biên tập vào ngày 15-8-1989 để có thời gian công bố hai bài viết của
Trần Bạch Đằng và Phan Đình Diệu mà ông đã có trong tay trước đó.
Từ ngày 15 đến ngày 24-8-1989, Trung
ương Đảng khóa VI kỳ họp thứ 7 ở Sài Gòn bàn “một số vấn đề cấp bách về công
tác tư tưởng”. Phát biểu trong phiên bế mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cho rằng,
hội nghị đã được nhóm họp với “sự nhạy cảm sâu sắc về chính trị”. Tình hình
trong nước và trên thế giới lúc ấy được Trung ương đánh giá là “diễn biến phức
tạp” và “trong một số ít cán bộ đảng viên đã xuất hiện một số tư tưởng lệch lạc,
sai lầm, nếu không sớm ngăn chặn và khắc phục có thể dẫn tới những tác hại
không nhỏ”.
Ông Nguyễn Văn Linh cho biết: “Hội
nghị Trung ương lần này đã tỏ rõ sự nhất trí rất cao không chấp nhận tự do hóa
tư sản, chủ nghĩa đa nguyên, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nhằm phủ nhận
chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng. Không thể
không thấy đó là âm mưu chính trị phản động của kẻ thù giai cấp và dân tộc.
Chúng ta quyết không mắc mưu xảo quyệt của bọn đế quốc và các loại phản động”.
Bài phát biểu của ông Nguyễn Văn Linh được đăng công khai, ít ai hiểu, những lập
luận sắt đá đó còn là để đáp trả một phát biểu của ủy viên Bộ Chính trị Trần
Xuân Bách chủ trương: “Kinh tế thị trường và đa nguyên chính trị”.
Cách chức Trần Xuân Bách
Ông Bách sinh năm 1926, cùng quê với
ông Lê Đức Thọ. Cuối năm 1977, khi Lê Đức Thọ được Lê Duẩn giao phụ trách “công
tác đặc biệt” - tên gọi của một kế hoạch bí mật chuẩn bị cho cuộc tiến đánh Pol
Pot trên đất Campuchia - Trần Xuân Bách được tham gia với vai trò phụ tá. Cuối
năm 1978, ông Bách được cử làm phó chính ủy của chiến dịch.
Ông Trần Xuân Bách ở lại Phnom Penh
cho tới năm 1982 với chức danh chính thức là “Trưởng Đoàn B68”, chuyên gia giúp
Đảng và Nhà nước Campuchia. Năm 1982, ông Trần Xuân Bách được bầu vào Ban Bí
thư kiêm giữ chức chánh Văn phòng Trung ương Đảng. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI,
ông được bầu vào Bộ Chính trị.
Vợ ông, bà Trần Thị Đức Thịnh cho biết:
“Trước Đại hội VI (1986), lấy phiếu thăm dò tổng bí thư, anh Bách hơn phiếu Phạm
Hùng và chỉ kém Nguyễn Văn Linh hai phiếu”. Theo ông Nguyễn Đình Hương, phó Ban
Tổ chức Trung ương khóa VI: “Khi ông Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ chọn Nguyễn
Văn Linh làm tổng bí thư, ông Trần Xuân Bách phản đối. Ông Bách cho rằng Nguyễn
Văn Linh chẳng có trình độ gì, khi ông Linh làm tổng bí thư rồi, ông Bách vẫn
coi thường ra mặt”. Cố vấn kinh tế của Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói: “Trần Xuân Bách được Lê Đức Thọ rỉ tai: Nguyễn
Văn Linh là nhân vật quá độ. Ông Linh chỉ làm nửa khóa rồi đưa ông Bách lên”.
Trong Trung ương lúc bấy giờ bắt đầu có tin Bí thư Trần Xuân Bách ngầm xung đột
với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Khi đề cập đến vấn đề “đa nguyên”
trong Hội nghị Trung ương 6, tháng 3-1986, và sau đó đưa ra Hội nghị Trung ương
7, tháng 8-1989, như một nội dung chính của kỳ họp, không những ông Nguyễn Văn
Linh có thể làm suy yếu Trần Xuân Bách mà còn có thể tập hợp được sự ủng hộ của
một nhà lý luận miền Bắc: Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Đào Duy Tùng. Tất
nhiên, “chống đa nguyên” còn phản ánh quan điểm của ông Nguyễn Văn Linh trước
những gì diễn ra trong phe xã hội chủ nghĩa ở thời điểm ấy.
Những diễn tiến quốc tế ấy giải thích
thêm vì sao sau Hội nghị Trung ương VII (8-1989) một nhà chính trị kinh nghiệm
như ông Trần Xuân Bách vẫn tiếp tục trình bày công khai quan điểm của ông về đa
nguyên. Theo ông Lê Đăng Doanh: “Những lời rỉ tai của Lê Đức Thọ và sức khỏe của
ông Nguyễn Văn Linh có lẽ là một nguyên nhân khiến ông Trần Xuân Bách nghĩ rằng
thời cơ đã đến để Việt Nam có thể đi theo xu thế chung của thời đại”.
Trong năm 1989, ông Nguyễn Văn Linh
đã từng phải đi Liên Xô làm phẫu thuật cắt một đoạn ruột. Ngày 23-10-1989, khi
từ Berlin trở về, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh được đón tiếp rất trọng thể. Toàn
bộ các ủy viên trong Bộ Chính trị đã ra sân bay đón ông. Nhưng, ngay sau khi xuống
sân bay, ông Linh đã phải vào bệnh viện. Theo ông Lê Đăng Doanh: “Ông Trần Xuân
Bách càng đẩy nhanh các hoạt động của mình”.
Ông Lê Đăng Doanh cho rằng, Văn phòng
Trung ương cho tới sau này vẫn in dấu ấn của Trần Xuân Bách, người thiết lập một
mô hình và cung cách làm việc khá là khoa học kể từ khi nhậm chức chánh văn
phòng. Sau Đại hội V, theo ông Lê Đăng Doanh: “Thường Lê Đức Thọ không dự họp Bộ
Chính trị. Họp xong, ông Bách đi báo cáo cho ông Thọ và ông Thọ thường cho những
ý kiến khác khiến ông Bách phải tìm cách lèo lái”.
Năm 1989, với tư cách là người phụ
trách công tác lý luận của Đảng, ông Trần Xuân Bách chính thức hình thành một
nhóm nghiên cứu gồm năm người: Lê Hồng Tâm, nhà kinh tế, Vũ Cao Đàm, viện trưởng
Viện Nghiên cứu Chính sách thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, Bùi Thế Vĩnh, viện
trưởng Viện Hành chính học, Học viện Hành chính Quốc gia, Nguyễn Mạnh Tôn,
chuyên viên Ngân hàng Ngoại thương và Nguyễn Thanh Sơn, chuyên viên Ban Công
nghiệp Trung ương.
Theo ông Vũ Cao Đàm: “Anh Bách giao
cho mỗi người chúng tôi phụ trách một chuyên đề: Lê Hồng Tâm nghiên cứu về
chính sách kinh tế để phục hưng đất nước. Bùi Thế Vĩnh nghiên cứu biện pháp giải
phóng lực lượng sản xuất. Vũ Cao Đàm nghiên cứu hệ thống chính trị trong tiến
trình cải cách kinh tế. Nguyễn Thanh Sơn nghiên cứu chính sách phát triển nhân
lực. Nguyễn Mạnh Tôn nghiên cứu biện pháp chống lạm phát”.
Ông Vũ Cao Đàm nói: “Trước khi khai mạc
Hội nghị Trung ương 7, anh Trần Xuân Bách chuẩn bị bài phát biểu, trong đó đề cập
hai nội dung về kinh tế thị trường và đa nguyên chính trị. Anh đưa bài phát biểu
cho nhóm chúng tôi thảo luận để đóng góp ý kiến. Khi đó, tôi có nêu câu hỏi:
‘Anh cân nhắc thêm, xem phát biểu bây giờ liệu có quá sớm không?’. Anh Bách đã
trả lời ý là không quá sớm và cũng không quá muộn”.
Bà Trần Thị Đức Thịnh kể, ông tỏ ra rất
quyết tâm. Khi bà Thịnh khuyên: “Anh ơi, chưa đúng lúc, anh đưa ra bây giờ
không ai ủng hộ đâu”. Ông suy nghĩ một lúc rồi nhỏ nhẹ nói với vợ: “Hay để anh
lo nhà cửa cho ba mẹ con em rồi chúng ta li dị để ba mẹ con em không phải liên
lụy nhé!”. Họ đã không li dị cho dù sau đó ông Trần Xuân Bách vẫn phát biểu về
“đa nguyên” trước Trung ương.
Theo ông Vũ Cao Đàm, ông Trần Xuân
Bách có hai lần đưa quan điểm của mình thảo luận trong khuôn khổ những diễn đàn
rộng hơn: một lần với các nhà khoa học tại phòng họp của Liên hiệp các hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam ở số 53 Nguyễn Du, Hà Nội; một lần cũng với các nhà
khoa học tại phòng họp của Ban Khoa giáo Trung ương Đảng ở số 10 Nguyễn Cảnh
Chân. Còn một cuộc nói chuyện công khai nữa của ông Bách ở Ký túc xá Ngô Gia Tự,
Sài Gòn, thì ngay cả những người giúp việc cũng không biết đến. Theo ông Kiều
Xuân Long, vụ phó Vụ Công tác phía Nam của Ban Khoa giáo Trung ương tại Thành
phố Hồ Chí Minh, người đưa ông Trần Xuân Bách xuống Ký túc xá Ngô Gia Tự: “Chuyến
đi của ông Trần Xuân Bách làm cho Thành ủy và nhiều người không thích. Về sau
ông Bách bị quy kết là đã thực hiện mục đích lôi kéo sinh viên”.
Trong số các sinh viên dự nghe ông Trần
Xuân Bách có Nguyễn Sơn Thủy Hùng, người bị bắt trong vụ Công viên Kỳ Hòa mùa
hè năm 1989. Sau khi được tạm tha, Hùng cùng ba sinh viên khác bị “cấm đi khỏi
nơi cư trú”, bởi vậy, suốt mùa hè năm 1989, anh phải ở lại ký túc xá Ngô Gia Tự
tuy đã hoàn thành năm học cuối cùng. Nguyễn Sơn Thủy Hùng kể: Vào một ngày mưa
lâm râm giữa tháng 9-1989, cô Mai Vinh, trưởng Ban Quản lý Ký túc xá mời các
sinh viên đến hội trường “nghe lãnh đạo nói chuyện”. Từ khi được báo cho đến
khi ông đến chỉ trong vòng 15 phút, khoảng 200 sinh viên trong ký túc xá ngồi
nghe ông Bách nói chuyện suốt gần ba giờ.
Theo ông Kiều Xuân Long, ông Trần
Xuân Bách rất ấn tượng khi thấy không có sinh viên nào nói đến cơm áo gạo tiền
cho dù lúc đó các em rất thiếu thốn. Sinh viên đặt những câu hỏi, nêu những vấn
đề ở tầm quốc tế, quốc gia, cho thấy các em rất quan tâm tới chính trị và tình
hình đất nước.
Bằng một phong thái nhẹ nhàng, ông Trần
Xuân Bách phân tích tình hình Liên Xô và Đông Âu với sinh viên. Ông nói: “Xu hướng
thời đại giờ đây là phải chống độc đoán. Xã hội muốn phát triển thì phải có đấu
tranh giữa các mặt đối lập. Muốn có đấu tranh, phải phát huy dân chủ, muốn dân
chủ thì phải tôn trọng nhân quyền. Mô hình các nước xã hội chủ nghĩa thực chất
là đã không tuân thủ các nguyên tắc này. Hôm nay, chú chỉ nói với các cháu xu
hướng của thời đại, của thế giới. Các cháu lớn rồi, tự các cháu suy nghĩ và quyết
định”.
Cũng như khi nói chuyện ở Ký túc xá
Ngô Gia Tự, trong cuộc nói chuyện ở 53 Nguyễn Du, ông Trần Xuân Bách không hề sử
dụng trực tiếp từ “đa nguyên”. Dù rằng ông đã khéo léo để trình bày khá đầy đủ
quan điểm của ông: “cải cách kinh tế phải đi đôi với cải cách chính trị”.
Ông Trần Xuân Bách nhắc lại điều mà ông nói trước cuộc hội thảo của các nhà xã
hội học tháng 10-1988 rằng, “chủ nghĩa tư bản hiện đại, có nhiều cái khác với
thời Mác”. Ông nói, phải có tư duy khoa học chứ “tụng từng câu Kinh Thánh trong
sách Mác không bảo vệ được chủ nghĩa Mác đâu”.
Cuộc nói chuyện ở 53 Nguyễn Du vào
ngày 13-12-1989 được coi như “giọt nước tràn ly”. Phát biểu của ông Trần Xuân
Bách được Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ lược ghi, quay ronéo và phổ biến.
Bài viết định đăng trên tờ báo Khoa Học & Tổ Quốc của Liên hiệp các hội
Khoa học và Kỹ thuật, số ra ngay sau đó nhưng không thành. Tới số 3-1990, Khoa
Học & Tổ Quốc mới cho đăng một tin ngắn về sự kiện Trần Xuân Bách nói chuyện
tại 53 Nguyễn Du, đồng thời trên hai số liên tiếp, 3 và 4-1990, Khoa Học &
Tổ Quốc cho đăng hai bài viết, một của ông Đỗ Đức Dục, cựu tổng thư ký Đảng Dân
chủ và ông Đặng Kim Giang, ký tên là Lương Dân, nói về “đa nguyên, đa đảng”.
Tổng thư ký tòa soạn tờ Khoa Học
& Tổ Quốc lúc đó, ông Phạm Quế Dương, kể: “Đoạn cuối trong bài của ông Đỗ Đức
Dục kêu gọi ‘đa nguyên, đa đảng’, tôi định cắt nhưng ông Trần Văn Giàu khi đó
là chủ tịch danh dự của Liên hiệp hội đọc và không cho tôi cắt. Báo vừa ra thì
bị tịch thu và công an khởi tố vụ án”.
Đầu năm 1990, sau khi chủ nghĩa xã hội
sụp đổ ở Đông Âu, các tổ chức “người Việt chống Cộng” ở nước ngoài, kể cả các tổ
chức trước đó chủ trương vũ trang lật đổ, cũng bắt đầu ra nhiều tuyên ngôn,
tuyên cáo, kêu gọi “chuyển lửa về quê hương”. Đặc biệt là bức tâm thư của nhóm
các “trí thức thiên tả” ở nước ngoài, những người một thời đã đứng về phía Mặt
trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Ngọc Giao, một trí thức
Việt kiều tại Pháp đã từng phiên dịch cho Lê Đức Thọ thời kỳ Hội đàm Paris:
“Ngay trong nội bộ phong trào Việt kiều ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng
đã có ít nhất bốn bản tâm thư kêu gọi dân chủ hóa đời sống chính trị Việt Nam,
song bản tâm thư mà chúng tôi công bố có tiếng vang hơn cả, có lẽ vì nó tập hợp
rộng rãi những thành viên tiêu biểu ở các nước, nội dung thể hiện một lập trường
chân thành và trách nhiệm, kiên quyết mà ôn hòa”.
Ngày 22-1-1990, nhóm Nguyễn Ngọc Giao
gửi về Việt Nam bản Tâm Thư kêu gọi cải cách với mức khởi đầu có ba mươi người
ký, gồm: Vĩnh Anh (Canada), Lê Văn Cát (Tây Đức), Huỳnh Trí Chánh (Nhật), Nguyễn
Văn Chuyển (Nhật), Lê Văn Cường (Pháp), Nguyễn Ngọc Giao (Pháp), Lê Thành Khôi
(Pháp), Lâm Thành Mỹ (Pháp), Bùi Văn Nam Sơn (Tây Đức), Phạm Ngọc Thuần (Pháp),
Trương Phước Trường (Úc)….
Đầu năm 1990, bệnh tình của Lê Đức Thọ
bắt đầu chuyển nặng trong khi sức khỏe của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã được
cải thiện nhiều.
Theo ông Lê Đăng Doanh: “Ông Nguyễn
Văn Linh bắt đầu ra tay. Ông Đỗ Mười ủng hộ. Để có thể bàn việc kỷ luật Trần
Xuân Bách mà không có Trần Xuân Bách, thay vì Bộ Chính trị họp chính thức, ông
Linh có sáng kiến để cho Phạm Văn Đồng, lúc này là cố vấn Ban Chấp hành Trung
ương, mời các ủy viên Bộ Chính trị tới nhà ông họp. Cuộc họp đầu tiên của Bộ
Chính trị để phê phán Trần Xuân Bách bắt đầu vào ngày 2-2-1990 tại nhà riêng Phạm
Văn Đồng”.
Trần Xuân Bách bị phê phán nặng nề suốt gần một
tuần và theo ông Lê Đăng Doanh, người có mặt tại Nhà Rùa trong suốt mười lăm
ngày hội nghị: “Trong hai lần phát biểu ý kiến vào ngày 17 và 27-3-1990, ông
Bách đã đơn thương, độc mã phê bình Nguyễn Văn Linh gay gắt”.
Phía những người muốn loại trừ ông
Bách cũng có những cân nhắc, theo ông Trần Trọng Tân: “Tôi có nói với Võ Chí
Công là kỷ luật Trần Xuân Bách phải nên tính toán thế nào để tránh bị bên ngoài
lợi dụng. Võ Chí Công nói Bộ Chính trị đã có tính toán. Lúc đầu Ủy ban Kiểm tra
cũng dự kiến chỉ khiển trách trong Trung ương. Nhưng, Trần Xuân Bách cương quá
lại còn nói như dạy cho các ủy viên khác về đa nguyên nên nhiều người tức”.
Ngày Chủ nhật 25-3-1990, Bộ Chính trị
lại họp tại nhà Phạm Văn Đồng. Cố vấn Phạm Văn Đồng được Bộ Chính trị nhờ làm
trung gian thương lượng với Trần Xuân Bách. Ngày 27-3-1990, vào lúc 6 giờ 30
sáng, Phạm Văn Đồng gọi Trần Xuân Bách sang gặp, nói: “Nếu hôm nay anh nhận lỗi
thì sẽ giữ anh lại trong Trung ương. Nếu không nhận lỗi thì anh chỉ còn là đảng
viên thường thôi”. Trần Xuân Bách đứng lên: “Tôi có lỗi gì đâu”. Phạm Văn Đồng
khuyên: “Có lúc cũng phải mềm dẻo để tồn tại, khi gặp thời thế lại đứng lên”.
Nhưng, Trần Xuân Bách nói: “Tôi có lỗi thì mới nhận được, không có lỗi mà nhận
sẽ tạo ra một tiền lệ xấu cho những đồng chí khác”. Rồi Trần Xuân Bách đi về
nhà, chọn bộ đồ sang trọng nhất: sơ mi trắng, vét đen mặc vào, đàng hoàng đi ra
Nhà Rùa. Hôm ấy Trung ương biểu quyết, kỷ luật cách hết mọi chức vụ của ông.
Vợ ông, bà Trần Thị Đức Thịnh được
tin chồng mình bị kỷ luật vào tối 28-3-1990, qua Đài Tiếng nói Việt Nam khi
đang công tác ở Quảng Ninh. Phần cuối “Thông báo của Ban Chấp hành Trung ương”
được đọc trên Đài và đăng trên các báo vào sáng hôm sau viết: “Hội nghị lần thứ
8 Ban Chấp hành Trung ương (Khóa VI) đã quyết định cách chức ủy viên Bộ Chính
trị, bí thư Trung ương, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với đồng chí
Trần Xuân Bách, vì đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của Đảng,
gây ra nhiều hậu quả xấu”.
Bà Thịnh kể: Tối hôm đó về tới nhà,
anh kêu tôi ngồi xuống: “Em bình tĩnh, để anh nói em nghe”. Tôi bảo: “Trên ô tô
em đã nghe Đài nói rồi. Anh đã không đội ghế lên đầu, từ bỏ những điều mà mình
tin là đúng. Anh yên tâm, anh của em sẽ có sự nghiệp”. Anh ôm lấy tôi, nước mắt
hai hàng: “Thịnh ơi anh đã không nhầm khi chọn em”. Đêm ấy, khi dọn
đồ, bà Thịnh nhìn thấy một gói nhỏ trong có hai bộ quần áo màu cứt ngựa, hai áo
may ô, hai quần đùi, vài thứ thông dụng và một mảnh giấy: “Nếu người ta đưa anh
đi luôn thì em gửi mấy thứ này vào cho anh”. Bà sững sờ, thì ra, trong buổi
sáng 27-3-1990, sau khi gặp Phạm Văn Đồng, Trần Xuân Bách đã chuẩn bị cho mình
khả năng bị bắt. Ngay lúc đó, bà Thịnh tự nhủ: “Mình phải không để cho ai biết
là mình buồn, mình khổ, nhất là những người ghét chồng mình nhất”. Bà nói với
ông Bách: “Kể cả em phải ra đường bưng mẹt thuốc lá để bán em cũng ráng nuôi
con ăn học, anh yên tâm”. Trong thời gian Trung ương đang kiểm điểm Trần Xuân
Bách, bà Thịnh cho biết: “Ông Nguyễn Văn Linh mấy lần nhắn tôi sang nói chuyện
để về thuyết phục anh Bách. Nhưng tôi không sang”.
Tuy vẫn được ở lại tòa biệt thự cũ
thêm một thời gian, nhưng năm ngày sau Hội nghị Trung ương 8, tiêu chuẩn sữa
tươi cho ủy viên Bộ Chính trị, 2 lít/ngày, mà Ban Tài chính Quản trị Trung ương
vẫn cung cấp cho ông, bị cắt. Khi ông Bách còn tại chức, ngày nào cửa hàng Tôn
Đản cũng mang tới tận nhà ông nào thịt, nào cá tươi, gạo ngon, sau khi ông ra
khỏi Trung ương, mọi thứ không còn nữa.
Từ năm 1984-1989, bà Thịnh vừa làm việc
ở Ban Tài chính Quản trị Trung ương vừa đi học Đại học Thương mại tại chức. Khi
ông Trần Xuân Bách còn đương chức, đích thân một thứ trưởng Bộ Thủy sản đến tận
nhà “xin” bà Trần Thị Đức Thịnh về công tác tại Seaprodex. Quyết định điều động
bà Thịnh về Seaprodex được ký vào ngày 15-2-1990. Chưa kịp bố trí chức vụ cho
bà thì ông Trần Xuân Bách mất chức. Bà Thịnh nhớ lại: “Họ cử tôi ra đứng vỉa hè
giữ xe gắn máy cho khách đến liên hệ với cơ quan”. Bà nói: “Tôi không để anh ấy
biết, tôi không muốn anh ấy bị hẫng. Tôi tự đi mua sữa tươi, vẫn ngày hai lít.
Anh tưởng tôi vẫn lấy sữa của Trung ương, kiên quyết bảo tôi phải từ chối. Suốt
ba năm người ta không trả lương cho anh, còn tôi thì cả năm không được giao việc”.
Để nuôi chồng và hai con ăn học, bà
Thịnh kể: “Tối tối, tôi xin đi rửa chén ở các nhà hàng. Tôi phải đi xa, trùm
khăn kín mặt cả mùa đông lẫn mùa hè để không có ai nhận ra. Có thời gian, cứ nửa
đêm, tôi nhận đi áp tải các xe chở sắt cho các công trường xây dựng. Chở sắt
sang Gia Lâm, tôi được trả ba đồng một đêm. Anh thấy tôi đi sớm, về khuya, tưởng
tôi vẫn được trọng dụng”. Bà Thịnh kể tiếp: “Mấy năm sau, có người bạn cũ gặp lại
mời tôi đi ăn bún chả. Tôi ăn một mạch hết hai bát, không còn nhớ đến có ai ở
xung quanh. Ăn xong, tôi thú thật với bạn tôi, suốt hai năm trời tôi không hề
được ăn một miếng thịt vì có miếng nào lại để dành cho chồng, cho con. Thỉnh
thoảng, đợi anh đi ngủ tôi mới lấy miếng cơm cháy, rưới ít mỡ vào, đốt lên bếp
may xo, ngồi ăn cho đỡ thèm chất mỡ. Nhưng, điều khó khăn nhất của tôi là chứng
kiến sự ghẻ lạnh. Kể từ sau khi anh mất chức, những ai đã từng cười với tôi mấy
lần ở đâu, tôi vẫn còn nhớ rõ và vô cùng biết ơn họ”. Hơn một tháng sau ngày
Trung ương kỷ luật Trần Xuân Bách, tại miền Nam, Tạ Bá Tòng, Hồ Hiếu, Đỗ Trung
Hiếu bị bắt. Một người ủng hộ Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ, ông Lê
Đình Mạnh, sau đó cũng bị bắt theo. Trước đó, vào ngày 21-3-1990, ông Nguyễn Hộ
bỏ Sài Gòn về Phú Giáo, một vùng đất cách Sài Gòn sáu mươi cây số. Ngày
7-9-1990, khi ông Nguyễn Hộ đang bơi xuồng trên sông Sài Gòn thì bị bắt. Ông bị
giam tại Xuân Lộc bốn tháng, sau đó được đưa về quản thúc tại nhà riêng trên đường
Võ Văn Tần.
Dù vậy, các nhà trí thức trong nước vẫn
lên tiếng mạnh mẽ: Hà Sĩ Phu viết bài Dắt Tay Nhau Đi Dưới Những Tấm Biển Chỉ
Đường Của Trí Tuệ. Hoàng Minh Chính viết Góp Ý Kiến Về Dự Thảo Cương
Lĩnh. Lương Dân “Bàn Về Sự Lãnh Đạo Của Đảng”. Phan Đình Diệu “Kiến
Nghị Về Một Chương Trình Cấp Bách Nhằm Khắc Phục Khủng Hoảng Và
Tạo Điều Kiện Lành Mạnh Cho Sự Phát Triển Đất Nước”. Trần Quốc Vượng
viết Nỗi Ám Ảnh Của Quá Khứ. Nữ nhà văn Dương Thu Hương dự đoán “nếu Đảng
không cải cách sẽ có một cuộc lưu huyết”.
Cuối năm 1990, Đại tá Bùi Tín, phó tổng
biên tập báo Nhân Dân, quyết định ở lại Paris sau chuyến đi Pháp dự lễ kỷ niệm
ngày thành lập báo Humanité. Từ Paris, vào lúc 21 giờ 30 ngày 26-11-1990, Đại
tá Bùi Tín gửi về nước “Bản Kiến nghị của một công dân” và sau đó liên tục trả
lời phỏng vấn Trưởng ban Việt ngữ BBC Đỗ Văn, kêu gọi “xây dựng một chế độ dân
chủ thực sự có tính chất nhân dân” và đề nghị “đổi tên nước thành Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam, thực hiện hòa giải dân
tộc, thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị không liên kết và hợp tác với tất
cả các dân tộc”.
Trong khi dân chúng, đặc biệt là cán
bộ đảng viên, lặng lẽ đón nghe từng buổi phát thanh của đài BBC, nhân bản các
phát biểu của nhà báo Bùi Tín, truyền đọc và bình luận thì Ban Bí thư có hai
thông báo cho rằng “Bùi Tín đã có những hoạt động sai trái ở Pháp”. Sau
khi nhắc lại “một số quan hệ nam nữ bất chính” của Bùi Tín và tố cáo ông
“có con trai chạy sang Hồng Kông giữa năm 1989 nhưng không báo cáo với
cơ quan và chi bộ Đảng”, Ban Bí thư cho rằng: “Các thế lực phản động
đã lợi dụng và lôi kéo Bùi Tín để phục vụ âm bình, bôi xấu Đảng và
Nhà nước ta, chia rẽ nhân dân và Đảng”. Sự kiện Bùi Tín càng
củng cố những lo lắng của ông Nguyễn Văn Linh đối với giới văn nghệ sỹ.
Cũng trong thời gian đó, một số tổ chức
Việt kiều và các nhà văn nước ngoài bắt đầu liên lạc gặp gỡ, mời các nhà văn
trong nước đi ra nước ngoài. Trong một số lần gặp gỡ những chức sắc văn nghệ,
ông Nguyễn Văn Linh cho rằng những người này đã được các “thế lực phản động nước
ngoài nuôi dưỡng”. Các văn kiện chính thức cũng xếp những phát biểu này vào
danh mục những “bài nói, bài viết chống đối chế độ và sự lãnh đạo
của Đảng”. Trước Đại hội lần thứ VII, tháng 6-1991, Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh ra lệnh bắt giam nhà văn Dương Thu Hương.
Kết thúc “trăng mật” với
báo giới
Năm đầu tiên trên cương vị tổng bí
thư, ông Nguyễn Văn Linh được gọi là “người đổi mới”. Không chỉ vì truyền thông
nhà nước có truyền thống chỉ nói những điều tốt đẹp về các nhà lãnh đạo, cá
nhân Nguyễn Văn Linh cũng tạo được nhiều thiện cảm với báo chí. Ông xuất hiện ở
Hà Nội như một chính khách thay vì với cung cách “lãnh tụ” như những người tiền
nhiệm.
Thời bao cấp, du lịch là một khái niệm
không tồn tại đối với thường dân. Những cán bộ có thành tích lâu lâu mới được
công đoàn cho đi “nghỉ mát”. Những khu du lịch nổi tiếng thường chỉ đón các nhà
lãnh đạo đến làm việc và nghỉ ngơi. Những biệt thự tốt nhất ở Đồ Sơn, Tam Đảo,
Sapa và sau năm 1975, ở Vũng Tàu, Đà Lạt thường được dành riêng để “xuân thu nhị
kỳ” lãnh đạo và gia đình đến ở. Dưới thời Nguyễn Văn Linh, quỹ biệt thự này được
giao cho Ban Tài chính Quản trị làm “kinh tế Đảng” thay vì giữ cho lãnh đạo sử
dụng riêng. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cũng không dùng chuyên cơ khi đi lại giữa
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Ông và tùy tùng chỉ mua một khoang riêng; máy
bay chở tổng bí thư vẫn được quyền bán vé phần ghế dư ra cho khách.
Trước và sau thời ông Nguyễn Văn
Linh, những người giữ các chức danh tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng, chủ
tịch quốc hội thường sử dụng một máy bay riêng khi đi lại. Những chuyến bay này
gọi là chuyên cơ. Chi phí một chuyến chuyên cơ từ Hà Nội vào Sài Gòn theo thời
giá thập niên 1980 lên đến 160 triệu đồng, trong khi chi phí mua khoang của Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh chỉ mất mười sáu triệu.
Năm 1989, khi Trung ương họp tại
Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Linh đã yêu cầu các ủy viên Trung ương phải
đi tàu hỏa. Tuy nhiên, quy định này của ông Linh chỉ áp dụng được một lần do có
nhiều ủy viên Trung ương phản ứng và do đi tàu vừa mất thời gian vừa tốn kém vì
ngành đường sắt không thể bán vé cho thường dân vào buồng bốn ghế nằm đã có một
hai “ông Trung ương” ở đó.
Khi nhậm chức, Nguyễn Văn Linh vẫn sử
dụng một chiếc xe hơi hiệu Lada của Liên Xô đã cũ thay vì tiêu chuẩn của tổng
bí thư phải là “Volga đen” hoặc Toyota. Theo ông Bùi Văn Giao, trợ lý của Nguyễn
Văn Linh: “Ông không biết rằng, để Lada có thể chở tổng bí thư, Văn phòng phải
gắn thêm máy lạnh. Vì tải thêm máy lạnh mà tuổi thọ của những chiếc Lada này bị
giảm đi rất nhanh, cứ sau một hai năm là phá luôn giàn máy. Một lần ông Linh đi
công tác về tỉnh, chiếc máy lạnh tự chế phát nổ. May mà khi đó, ông Linh đang
ngồi trong phòng họp còn chiếc xe thì đậu ngoài sân”. Ông Linh dùng Lada thì
các vị lãnh đạo khác cũng phải Lada. Không ai dám nói với tổng bí thư, tuy tiền
mua Lada rẻ hơn các loại "xe tư bản" nhưng tuổi thọ xe ngắn và lượng
xăng sử dụng tốn hơn rất nhiều so với “xe tư bản”.
Trong chế độ Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam, mọi hoạt động của tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng và chủ
tịch quốc hội đều được báo Nhân Dân, Thông tấn xã Việt Nam và Đài Truyền hình
đưa tin. Tần suất xuất hiện của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trên truyền thông
nhiều hơn vì phong cách năng động và mối giao hảo cá nhân giữa ông và báo giới.
Tuy nhiên, dưới thời Nguyễn Văn Linh, trí thức, văn nghệ sỹ bắt đầu tư duy độc
lập, kể cả độc lập trong cách nhìn và đánh giá vị tổng bí thư đã hô hào “cởi
trói”.
Đầu tháng 6-1988, trong chuyến đi tìm
hiểu về “cải tiến cơ chế khoán trong công nghiệp” ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đưa ra khái niệm “xử lý hộp đen”.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cho rằng: “Xử lý hộp đen là cải tiến quản lý và cải
tiến kỹ thuật là khâu quan trọng lúc này cũng như về lâu dài”.
Trước đó, ngày 10-6-1988, báo Nhân
Dân tổ chức cuộc trao đổi ý kiến với nhiều giám đốc về vấn đề: “Làm thế nào để
xử lý hộp đen có hiệu quả theo tinh thần các nghị quyết của Đảng và nhà nước mới
ban hành”. Cuộc trao đổi do tổng biên tập báo Nhân Dân chủ trì với sự tham gia
của hơn hai mươi tổng giám đốc và giám đốc các doanh nghiệp lớn. Từ đó cho tới
đầu tháng 7-1988, báo Nhân Dân lần lượt đăng phát biểu của nhiều giám đốc, ai
cũng trăn trở: “Làm thế nào để xử lý hộp đen”. Mặc dù, ý kiến của họ cho thấy
không ai thực sự hiểu như thế nào là “hộp đen” cả.
Không thể ngồi nhìn “hộp đen” cứ
“quay”, Giáo sư Hoàng Tụy và Giáo sư Phan Đình Diệu đành phải viết thư gửi báo
Nhân Dân. Hai nhà khoa học nói thẳng rằng, các thuật ngữ, xuất hiện thường
xuyên trên báo Nhân Dân và các báo lớn, như “hộp đen”, “xử lý hộp đen” và “quay
hộp đen” đã “bị hiểu sai lạc và sử dụng tùy tiện”. Sau khi dẫn các giải thích của
các nhà lãnh đạo cũng như một số “nhà khoa học” đăng trên các báo, Giáo sư
Hoàng Tụy và Phan Đình Diệu kết luận: “Không có một nhà điều khiển học đứng đắn
nào, không có một nhà kinh tế học nghiêm chỉnh nào lại có thể hiểu về hộp đen
như thế”.
Thoạt tiên, Giáo sư Hoàng Tụy và Phan
Đình Diệu gửi ý kiến của mình đến báo Nhân Dân. Nhưng báo Nhân Dân lờ đi. Họ gửi
tới Văn phòng Trung ương, nhưng không ai đủ dũng cảm để nói với tổng bí thư.
Trong các cuộc họp, tổng bí thư vẫn tiếp tục “xử lý hộp đen”. Hoàng Tụy và Phan
Đình Diệu đành phải đưa bài tới cho nhà văn Nguyên Ngọc. Nguyên Ngọc kể, ông đã
gọi điện cho Tổng Biên tập báo Nhân Dân Hà Đăng, nhưng Hà Đăng nói: “Tôi không
dám đăng”. Nguyên Ngọc nghĩ: “Một bài báo mấy trăm chữ mà hai bậc đại trí thức
của Việt Nam phải đồng ký tên. Cái sai không chỉ là của một cá nhân tổng bí thư
nữa mà có nguy cơ trở thành ‘kiến thức’ phổ thông. Nếu mình cũng sợ không đăng
thì người ta sẽ nghĩ là cả nước Việt Nam không biết”. Ngày 30-7-1988, Nguyên Ngọc
cho đăng bài Hộp Đen Và Quay Hộp Đen trên báo Văn Nghệ. Từ hôm đó, trên báo
Nhân Dân, khái niệm “hộp đen” biến mất.
Không chỉ vì vụ “hộp đen”, cuối năm
1988, mối quan hệ giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Tướng Trần Độ, người ủng
hộ báo Văn Nghệ và khuynh hướng tự do sáng tạo của văn nghệ sỹ, cũng bắt đầu rạn
nứt. Theo Trần Độ: “Trước Nghị quyết 05 mối quan hệ này ấm cúng bao nhiêu thì
sau Nghị quyết 05, giá lạnh bấy nhiêu. Đối với tôi đây là một điều đau xót,
không chỉ trong việc chung mà cả tình cảm riêng tư”.
Cùng lúc với sự ra đời của nhiều tác
phẩm văn học, nghệ thuật được dư luận xôn xao đón nhận, trong chính trường bắt
đầu xuất hiện những chỉ trích các tác phẩm này, coi đó là những “lệch lạc”
trong văn nghệ. Nghị quyết 05 bị ngầm quy kết là đã góp phần tạo ra những “lệch
lạc” ấy. Sự quy kết không chỉ nhắm đến Tướng Trần Độ mà còn trở thành công cụ
chính trị hướng tới Nguyễn Văn Linh. Trong khi đó, trong vụ cấm vở kịch Em Đẹp
Dần Lên Trong Mắt Anh, Trần Độ lại giữ thái độ không khoan nhượng ngay cả khi
ông Nguyễn Văn Linh đã có ý kiến.
Theo ông Trần Trọng Tân, trưởng Ban
Tuyên huấn Trung ương khóa VI: “Ông Linh đã định kiến ai thì gỡ ra rất khó.
Nhưng việc Nguyên Ngọc bị mất chức tổng biên tập báo Văn Nghệ vào tháng 12-1988
và vai trò của Trần Độ bị giảm đi không chỉ vì mối quan hệ cá nhân giữa ông
Nguyễn Văn Linh và họ”.
Bên cạnh những phóng sự “trực diện với
đời sống” của Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang, Hồ Trung Tú,... phần sáng tác công
bố trên tuần báo Văn Nghệ “thời Nguyên Ngọc” cũng gây nhiều tranh cãi. Không chỉ
có những truyện ngắn lạ và mượt mà của Nguyễn Huy Thiệp như Những Ngọn Gió Hua
Tát, Sang Sông..., Văn Nghệ còn cho đăng những truyện ngắn mới của ông như Vàng
Lửa và Phẩm Tiết, đưa ra một góc nhìn về các nhân vật lịch sử như Quang Trung,
Gia Long khác với đánh giá của nền giáo dục và chính trị đương thời. Cùng lúc,
Văn Nghệ cũng cho công bố truyện ngắn Năm Ngày của Phạm Thị Hoài, một tác phẩm
làm rộ lên những lời phê bình trái ngược nhau gay gắt. Đặc biệt, mảng “lý luận
phê bình” bắt đầu chạm vào những lằn ranh chính trị.
Từ Moscow, Lê Ngọc Trà gửi về bài viết
đầu tiên, Văn Nghệ Và Chính Trị, nhắc nhở vai trò gần như độc lập của các văn
nghệ sỹ. Để rồi sau đó, Nguyên Ngọc triển khai mở rộng phần lý luận nói về mối
quan hệ giữa văn nghệ và hiện thực. Ngày 5-12-1987, Văn Nghệ cho công bố bài viết,
gây chấn động ngay từ đầu đề, của nhà văn Nguyễn Minh Châu: Hãy Đọc Lời Ai Điếu
Cho Một Giai Đoạn Văn Nghệ Minh Họa, giai đoạn mà theo Nguyễn Minh Châu, các
“nhà văn hiền lành, vô sự, chỉ biết ca ngợi”.
Ngày 21-11-1988, khi trả lời phỏng vấn
báo Văn Nghệ, Nguyễn Minh Châu cho rằng “chúng ta đã tự trói mình”. Ông nói:
“Cái lỗi lớn nhất của mỗi người chúng ta là đã khiếp hãi trước cái xấu và cái
ác. Và, lâu dần dường như không làm gì được thì chúng ta coi như không có nó -
cuộc đời không có cái xấu và cái ác đang hoành hành, đang chi phối số phận con
người, coi như cuộc đời không có oan khiên, oan khuất”.
Cũng trong thời gian đó, Liên Xô xét
lại nhiều vụ án văn nghệ được dựng lên dưới thời Stalin. Ngày 23-1-1988, Văn
Nghệ cho trích dịch bài viết trên tờ Tin Moscow số ra ngày 20-12-1987 đề cập đến
nhiều cuốn sách của các nhà văn Nga “bị vùi dập qua nhiều thập kỷ”. Tác giả bài
báo bình luận: “Kẻ nào giấu kín quá khứ sẽ không yên lành được với tương lai”.
Ngày 16-4-1988, trên tờ Văn Nghệ, Trần
Độ dẫn một tuyên bố từ tạp chí Người Cộng Sản của Liên Xô: “Ngăn đường một tác
phẩm có tài nhưng không phù hợp với cái nhất thời là vô nghĩa”. Một giáo viên ở
Nghĩa Bình viết: Sau khi đọc những phóng sự như Cái Đêm Hôm Ấy… Đêm Gì? của
Phùng Gia Lộc, Suy Nghĩ Trên Đường Làng của Hồ Trung Tú…, làm sao chúng tôi có
thể làm cho học sinh tin vào những điển hình xã hội chủ nghĩa như “Biền” trong
Tầm Nhìn Xa, như Anh Chủ Nhiệm…
Ngày 16 và 23-7-1988, trên hai số báo
liền, Nguyên Ngọc cho đăng lại bài tường thuật hội thảo bàn tròn do báo Văn Học
Liên Xô tổ chức: “Liệu chúng ta có từ bỏ chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”.
Bài viết dẫn lời các nhà văn Nga cho rằng: “Chủ nghĩa hiện thực đã bị Stalin áp
đặt một cách tàn bạo và giáo điều hóa”. Bài viết trích lời của một nhà văn Nga:
“Thời đại bị lợi dụng cho lời cầu phúc và thời đại đã nói dối, giết người rồi
biện minh cho tính chất vô sản của chủ nghĩa anh hùng chúng ta”.
Không khí cải tổ trong Hội Nhà văn
Liên Xô tác động một cách trực tiếp lên công tác chuẩn bị Đại hội lần thứ V Hội
Nhà văn Việt Nam. Liên tục trên nhiều số, Văn Nghệ cho đăng bài kêu gọi đổi mới
từ nội dung cho tới phương thức tổ chức đại hội của Hội Nhà văn. Ngày 4-6-1988,
Văn Nghệ đăng tuyên bố của nữ nhà văn Dương Thu Hương: “Đại hội này là dịp cuối
cùng để thế hệ 40 giành lấy quyền nói tiếng nói quyết định trong các vấn đề văn
học và nhất là trong công việc của Hội, trước khi nó trở nên già cả và bảo thủ”.
Trí thức, văn nghệ sỹ có vẻ như đang
bộc lộ nhu cầu mở cái “nút thắt cuối cùng: dân chủ - tự do”, thay vì chỉ có vấn
đề sáng tác. Theo Nguyên Ngọc, Ban Thư ký Hội Nhà văn bắt đầu đòi can thiệp vào
bài vở của tuần báo Văn Nghệ. Nhưng Nguyên Ngọc không chấp nhận, ông tuyên bố:
“Tôi là tổng biên tập, tôi chịu trách nhiệm”.
Mối lo ngại không còn chỉ đến từ Ban
Thư ký, từ ngày 5 đến ngày 9-9-1988, Ban Chấp hành Hội Nhà văn họp có Ủy viên Bộ
Chính trị Đào Duy Tùng đến dự. Theo “Bản tin chi tiết” của Hội Nhà văn đăng
trên báo Văn Nghệ ngày 1-10-1988, tại cuộc họp, Ban Chấp hành Hội Nhà văn kết
luận: “Văn Nghệ đã có một số đóng góp tích cực trong công cuộc đổi mới. Song
bên cạnh đó, tuần báo đã có những khuyết điểm và lệch lạc nghiêm trọng”. Trước
đó, tờ báo bị phê phán là: “Đã đăng những ý kiến phủ nhận cả giai đoạn văn học
trước đây, nói Hội Nhà văn có cũng như không, nói chưa bao giờ văn nghệ sỹ bị
khinh rẻ như bây giờ. Nhiều ý kiến nêu rõ đổi mới nhưng không thể tách rời khỏi
tình hình xã hội hiện nay. Đổi mới nhưng không được làm đổ vỡ lòng tin vào sức
sống của chủ nghĩa xã hội”.
Bên trong, theo Nguyên Ngọc, ông bị
Trưởng Ban Tuyên huấn Trần Trọng Tân phê bình: “Làm báo là làm chính trị, làm
chính trị thì phải nhạy cảm chính trị, trước hết nhạy cảm với kẻ thù”. Nguyên
Ngọc cãi lại: “Nhạy cảm chính trị trước hết là nhạy cảm với nỗi đau của nhân
dân. Chính những kẻ làm đau khổ nhân dân mới là kẻ thù”. Đào Duy Tùng dàn hòa:
“Tôi thấy anh Tân và anh Ngọc không khác nhau, chỉ khác nhau ở cách diễn đạt”.
Nguyên Ngọc không khoan nhượng: “Không anh, chúng tôi khác nhau về cơ bản”.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cảnh báo
trước Ban Chấp hành Hội: “Đối xử với Tổng Biên tập Văn Nghệ cũng là đối xử với
đổi mới… Đối với nhà văn, nơi tranh giành là trang giấy. Cái ghế không có giá
trị văn học”. Nhưng, Tổng Thư ký Nguyễn Đình Thi vẫn kết luận: “Ban Chấp hành
giao cho Ban Thư ký uốn nắn, chấn chỉnh tờ báo cả về nội dung và tổ chức”.
Những tuần sau đó, Nguyên Ngọc vào
Sài Gòn họp cộng tác viên, giới văn nghệ miền Nam đã “đổ thêm dầu vào lửa” khi
ca ngợi tờ Văn Nghệ là “đã nói tiếng nói lương tri của người cầm bút” và khen tờ
báo đã “không còn hướng thượng” nữa. Ngày 12-11-1988, Tướng Trần Độ xuất hiện
trên Văn Nghệ bằng một bài báo đăng trọn trang, nhìn nhận một số “thiếu sót
không thể tránh khỏi” của tờ báo, đồng thời trích dẫn ý kiến của dư luận và một
nhận định cũ của Ban Bí thư “Văn Nghệ lành mạnh và có triển vọng”. Rồi Trần Độ
kết luận: “Văn Nghệ cần tiếp tục đổi mới”. Nhưng, tiếng nói của Tướng Trần Độ
vào lúc này chỉ có tác dụng chứng minh cho những chỉ trích mà “Bản tin chi tiết
của Hội Nhà văn” đã từng đề cập: “Một số hội viên đảng viên thuộc cơ quan Hội
Nhà văn cho rằng báo Văn Nghệ dựa vào ô dù ở trên để vô hiệu hóa Ban Thư ký”.
Trong số báo ra ngày 3-12-1988 (trên
thực tế đã phát hành từ ngày 1-12) Nguyên Ngọc cho đăng lại quyết định ngày
20-10-1988 của Bộ Chính trị Liên Xô “thừa nhận sai lầm của Nghị quyết ngày
14-8-1946”, xóa án cho Zoshchenko và Akhmatova, lãnh đạo hai tờ tạp chí Ngôi
Sao và Leningrad. Zoshchenko và Akhmatova từng cho đăng những bài viết bị quy kết
là “bôi đen chế độ Xô viết”. Đặc biệt, Nghị quyết 14-8-1946 cũng đã từng sử dụng
cụm từ “lệch lạc nghiêm trọng” mà ngày 1-10-1988 Nguyễn Đình Thi dùng để phê
bình Văn Nghệ. Đây là số báo cuối cùng của Nguyên Ngọc.
Ngay trong ngày 2-12-1988, Nguyễn
Đình Thi và Chính Hữu thay mặt Ban Thư ký Hội Nhà văn trực tiếp xuống trụ sở
báo Văn Nghệ. Nguyên Ngọc nhớ lại: “Các vị ấy đã chuẩn bị nhiều phương án. Đầu
tiên, Chính Hữu rút ra tờ quyết định thuyên chuyển tôi về làm phó Ban Trù bị Đại
hội. Tôi nói, việc đó thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành. Chính Hữu liền rút ra
quyết định bổ nhiệm tôi làm trưởng Ban Trù bị. Tôi cười bảo, các anh cứ làm quyết
định cách chức đi”. Nhưng không hiểu sao Ban Thư ký Hội Nhà văn đã không dám
dùng từ “cách chức”.
Trong số báo tiếp theo, ra ngày
10-12-1988, báo Văn Nghệ để trống mục “Tổng Biên tập” và cho đăng bài của Nguyễn
Đình Thi giải thích sự “lệch” sinh ra “lạc” của tờ Văn Nghệ thời Nguyên Ngọc.
Báo chí Sài Gòn và miền Trung ngay sau đó đã có nhiều tin bài phản đối Hội Nhà
văn. Ngày 20-12-1988, báo Tuổi Trẻ đăng hàng loạt ý kiến của giới văn nghệ phía
Nam “phản đối việc thuyên chuyển tổng biên tập báo Văn Nghệ”. Trong đó, nhà thơ
Thanh Thảo viết: “Tôi kịch liệt phản đối quyết định cách chức tổng biên tập báo
Văn Nghệ. Chỉ có Đại hội Hội Nhà văn mới có thẩm quyền quyết định vấn đề này”.
Cũng trong tuần lễ đầu của tháng
12-1988, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh chủ trì họp Bộ Chính trị bàn “một số vấn đề
trước mắt trong công tác tư tưởng”. Tuy không chỉ ra “những sai phạm” của báo
chí, nhưng trong “bài phát biểu tại Hội nghị Bộ Chính trị” Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh yêu cầu: “Cần thông tin đầy đủ và đúng đắn về tình hình đất nước… Cần
làm rõ, dân chủ phải có lãnh đạo, mở rộng dân chủ phải nhằm nâng cao ý thức giữ
vững kỷ luật và tuân thủ pháp luật”.
Tại hội nghị này, Bộ Chính trị cũng
đã quyết định thành lập một “Ủy Ban công tác tư tưởng của Đảng” nhằm giúp Ban
Bí thư “đánh giá tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và tâm trạng chính trị của
quần chúng để báo cáo định kỳ”. Tổng Bí thư kêu gọi: “Luôn luôn tỉnh táo, hết sức
coi trọng công tác tư tưởng”. Không chỉ đề cập đến tình hình Việt Nam, Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Linh còn nói đến chính sách cải tổ của Liên Xô. Có thể nói, ông
là nhà lãnh đạo cộng sản đầu tiên nhận ra tiến trình cải tổ là vô cùng “phức tạp”.
Ba tháng sau, Hội nghị Trung ương 6,
tháng 3-1989, đã nhấn mạnh những lo ngại chính trị trong “quá trình phát huy
dân chủ”, kêu gọi “phải tỉnh táo đấu tranh chống lại những lực lượng lợi dụng
việc mở rộng dân chủ để chống chế độ ta”. Hội nghị Trung ương 6 cho rằng, “tự
do tư tưởng, thảo luận và tranh luận thẳng thắn” phải đi đôi với việc “ngăn ngừa
và uốn nắn những biểu hiện lợi dụng dân chủ, công khai để xuyên tạc sự thật,
kích động, phá hoại công cuộc đổi mới”. Sau khi “phê phán những khuynh hướng phủ
nhận hoặc hạ thấp” vai trò của Đảng, Hội nghị Trung ương 6 tuyên bố: “Không cho
phép ra báo tư nhân và lập các nhà xuất bản tư nhân”. Nghị quyết Hội nghị Bộ
Chính trị tháng 12-1988 và Hội nghị Trung ương 6 thể hiện rõ quan điểm Nguyễn
Văn Linh: mở ra có mức độ về kinh tế, nhưng kiên định về lập trường chính trị.
Những người như Nguyên Ngọc hay Tổng
Biên tập Sài Gòn Giải Phóng Tô Hòa có thâm niên cộng sản. Họ tham
gia cách mạng vì lý tưởng chủ nghĩa xã hội và đổi mới cũng vì nhận ra những sai
lầm do áp dụng những nguyên lý không tưởng đó. Thế hệ Tô Hòa, Nguyên Ngọc tự nhận
lấy phần trách nhiệm của mình trong những chính sách sai lầm của Đảng thay vì
chỉ đổi mới trong chừng mực mà Đảng cho phép mở ra. Sau khi Nguyên Ngọc bị mất
chức tổng biên tập Văn Nghệ, những nhà lý luận văn học cấp tiến như Trần Hữu
Tá, Lê Ngọc Trà có được chỗ dựa ở Tô Hòa. Tờ báo Đảng dưới thời Tô Hòa tiếp tục
tự cởi trói cho mình trong khi “vòng dây” bên ngoài vẫn âm thầm siết lại.
Sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên
bố tại Hội nghị Trung ương 6: “Dân chủ phải có lãnh đạo”, trên trang nhất Sài
Gòn Giải Phóng, ông Tô Hòa cho đăng ý kiến của “một bạn đọc” có tên là Trần
Nghiên nói rằng “không ít người lo lắng là điều đó sẽ làm cho dân chủ bị chựng
lại”. Trần Nghiên nêu ví dụ, tại đại hội ở một quận, nhân danh
“dân chủ có lãnh đạo”, chủ tịch đoàn đã “gò ép, hạn chế đến thô bạo quyền dân
chủ tối thiểu của đại biểu là được trình bày ý kiến”. Ngày 2-7-1989, ông Tô Hòa
cho đăng bài của Tiến sỹ Lê Ngọc Trà, bày tỏ khá rõ ràng lựa chọn của tờ Sài
Gòn Giải Phóng: “Đấu tranh cho một xã hội tốt hơn, cho chủ nghĩa xã hội đích thực,
cho dân chủ và công khai, cho đổi mới cũng là một cuộc cách mạng nhân danh con
người, vì con người. Bởi vậy, đứng ở đâu trong cuộc đấu tranh này là cả một thử
thách đau đớn, là thước đo cách hiểu về văn chương, quan niệm về con người và
chính ngay nhân cách của bản thân những ai cầm bút”.
Cũng như khi Nguyên Ngọc bị cách chức,
sự ra đi của Tô Hòa cũng được những người đổi mới coi như là một tổn thất. Nhiều
người đọc thư Tô Hòa đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 13-8-1989 đã rất
bất ngờ, kể cả ông Võ Văn Kiệt, người bổ nhiệm Tô Hòa giữ chức vụ này từ năm
1981. Một bạn đọc gửi tới ông bài thơ: Được thư anh viết chia tay/ Tôi băn
khoăn mãi thế này là sao/ Lý do anh tuổi đã cao/ Hay còn nguyên cớ khác nào nữa
đây/ Báo đang đổi mới hàng ngày/ Sao người cầm chịch chia tay bất ngờ…
Đứng bên cạnh tờ Sài Gòn Giải Phóng,
những tờ báo như Thanh Niên, Tuổi Trẻ lúc ấy cũng đã như những “cánh tay nối dài”
của tờ Văn Nghệ thời Nguyên Ngọc. Tuổi Trẻ Chủ Nhật thường đăng lại những tác
phẩm gây xôn xao dư luận trên báo Văn Nghệ như truyện ngắn Tướng Về Hưu, phóng
sự Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì?... và tự mình thực hiện nhiều điều tra, phóng sự.
Nếu như những bài báo đăng trên tờ
Văn Nghệ biểu lộ sự thức tỉnh của những người làm báo xã hội chủ nghĩa, những
trang viết của họ là những bản tự kiểm, đụng chạm không chỉ niềm tin cá nhân mà
còn cả thần tượng và ý thức hệ thì những người làm báo ở Tuổi Trẻ, cuối thập
niên 1980, vẫn mang sự nhiệt thành của những thanh niên ở trong độ tuổi hồn
nhiên. Đội ngũ lãnh đạo Tuổi Trẻ lúc bấy giờ gồm những người đã từng hoạt động
trong phong trào sinh viên học sinh trước 30-4-1975 tại miền Nam. Cho dù vẫn giữ
sự đồng hành với Đảng, niềm say mê nghề nghiệp, khát khao đổi mới đã khiến họ đấu
tranh không mệt mỏi bảo vệ “dân sinh” và hào hứng với các trào lưu dân chủ.
Nếu như trước đó, Tuổi Trẻ, Sài Gòn
Giải Phóng thường chỉ khai thác thời sự quốc tế qua báo chí Liên Xô hoặc qua
Thông tấn xã Việt Nam, thì lúc bấy giờ bắt đầu khai thác cả “báo chí tư bản” để
tường thuật các diễn biến trên thế giới. Báo chí không chỉ giúp người dân, đặc
biệt là sinh viên, thanh niên, hiểu được những gì đang xảy ra xung quanh mà còn
khai thác những thông tin ấy theo hướng tác động trực tiếp vào những sự kiện
đang xảy ra trong nước.
Giữa năm 1987, bằng cách đưa tin của
mình, báo Tuổi Trẻ đóng vai trò quan trọng làm thay đổi kết quả bầu cử ở đại hội
Đoàn Thanh niên Cộng sản Thành phố Hồ Chí Minh. Các đại biểu đã bầu Lê Văn Nuôi
làm bí thư thay vì bầu Phạm Phương Thảo như phê chuẩn ban đầu của Thành ủy.
Ngay sau khi đắc cử, Lê Văn Nuôi chủ trương “bầu trực tiếp bí thư Đoàn trường học
sinh” và tuyên bố: “Tổ chức của giới nào phải có thủ lĩnh của giới đó”. Trước đó,
Lê Xuân Khuê, trưởng Ban Trường học Thành Đoàn, phát biểu trên báo Tuổi Trẻ
ngày 2-7-1987 rằng: sinh viên không còn muốn tiếp tục bị coi là những đứa trẻ bị
thầy cô cầm tay chỉ việc, thậm chí làm thay cả công tác Đoàn nữa. Khuê nói:
“Chúng tôi không muốn bị coi là bé, là trẻ người non dạ mãi”.
Cho dù tất cả những sự kiện đó đều
như những giọt nước tích tụ vào ly nhưng chỉ bị đánh giá là thiếu bản lĩnh
chính trị chứ chưa bị coi là lệch lạc. Theo ông Nguyễn Sơn, phó Ban Tuyên huấn
Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh trong thập niên 1980-1990: “Kim Hạnh, tổng biên
tập báo Tuổi Trẻ, cũng như Thế Thanh, tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, cùng
bị coi là chịu ảnh hưởng của những nhân vật đổi mới cực đoan như Trần Độ, Dương
Thu Hương, Nguyên Ngọc… nhưng lúc đầu, Thành ủy thấy có thể quản lý được. Tuy
nhiên, loạt bài về Bình Nhưỡng và ‘thư Nguyễn Ái Quốc gửi vợ’ đăng trên Tuổi Trẻ
đã chạm đến hai vấn đề thiêng liêng: niềm tin vào lãnh tụ và chủ nghĩa xã hội”.
Năm 1989, sau khi dự “Liên hoan Thanh
niên, Sinh viên” tại Bình Nhưỡng trở về, nhà báo Vũ Kim Hạnh đã có loạt bài mô
tả Bắc Triều Tiên như một thành phố không còn gương mặt con người: dân chúng
không được tiếp xúc với người nước ngoài; radio, tivi chỉ bắt được đài nhà nước...
Chủ nghĩa xã hội được mô tả như một thứ trại tập trung có quy mô toàn quốc. Lỗi
này sẽ được “ghim” lại cho đến ngày 18-5-1991.
Ngày 18-5-1991, Tổng Biên tập Vũ Kim
Hạnh cho đăng trên trang nhất Tuổi Trẻ một bài báo về bức thư của Nguyễn Ái Quốc
“gửi vợ” Tăng Tuyết Minh. Bài báo cùng lúc được gửi đăng trên tờ Nhân Dân Chủ
Nhật (số ra ngày 19-5-1991, nhưng là: “Một số tư liệu nói về đời riêng của Nguyễn
Ái Quốc”; thì tựa trên tờ Tuổi Trẻ của Vũ Kim Hạnh lại là: “Thư của Nguyễn Ái
Quốc gửi vợ năm 1928”.
Thông báo số 245 ngày 22-5-1991 do
Phó Bí thư Thành ủy Nguyễn Võ Danh ký cho biết: “Đảng viên và quần chúng rất phẫn
nộ. Liên tiếp trong các ngày 19, 20, 21, 22-5, nhiều quận huyện, nhiều người gửi
văn bản, gửi thư hoặc đến trực tiếp Văn phòng Thành ủy bày tỏ thái độ bất bình
và phẫn nộ… Nhiều đồng chí cán bộ hưu trí, lực lượng công an thành phố đề nghị
khởi tố vụ án”.
Một tháng trước khi ông Nguyễn Văn
Linh kết thúc nhiệm kỳ, nhà báo Vũ Kim Hạnh bị cách chức tổng biên tập với
“hình phạt bổ sung” không công khai: vĩnh viễn không cho làm báo. Gần như các
nhân tố mới xuất hiện kể từ sau khi ông Linh hô hào cởi trói đều bị truy bức.
Có người bị trói lại bằng “còng”. Cho dù không thể đưa một xã hội đã bắt đầu thức
tỉnh quay trở lại lồng, ông Nguyễn Văn Linh đã bỏ lỡ cơ hội để được lịch sử
đánh giá như một tổng bí thư đổi mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét