Phần III : Dấu ấn Nguyễn Văn Linh
Chương XII : Cởi trói
Cho dù tuyên bố “cởi trói” của Nguyễn
Văn Linh là “ngứa miệng kêu” như ông nhận, hay là sách lược được áp dụng khi mới
cầm quyền, thì sự thật là các hoạt động văn nghệ và báo chí sau đó đã bắt đầu
được đặt trong một không gian mà tự do chỉ mở dần ra chứ không thể nào bóp lại.
Những Việc Cần Làm Ngay
Chiều chủ nhật 24-5-1987, tòa soạn
chuyển lên Ban Biên tập báo Nhân Dân một phong thư, nói là của một “người đứng
tuổi nhờ đưa ngay cho đồng chí tổng biên tập”. Bảo vệ mô tả, “người đứng tuổi”
đi xe Lada và có một người cận vệ nói giọng miền Nam.
Chi tiết quan trọng nhất để Ban Biên
tập báo Nhân Dân liên hệ giữa bút danh N.V.L., ký trong thư, với Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh là chiếc xe Lada. Theo nhà báo Hữu Thọ: “Khi ấy các
ông trong Bộ Chính trị đều đi xe Volga hết”. Sáng 25-5-1987, trên trang nhất
Nhân Dân xuất hiện một bài báo với đầu đề in chữ đậm “Những việc cần làm ngay”.
Không phải là một thông điệp chính trị
như một vị nguyên thủ quốc gia, bài báo đầu tiên của Tổng Bí thư yêu cầu: “Trật
tự giá cả cần phải được tôn trọng”. Dẫn ra các “nguyên nhân bất chính” làm tăng
giá như “bọn phá hoại lâu lâu lại phao tin lên lương đổi tiền”, “nhiều địa
phương, nhiều cấp tự ý lên giá bất hợp pháp”, “nhiều cơ sở ghìm hàng gây khan
hiếm giả tạo”,… ông Linh coi lập lại trật tự giá cả “thật sự là một việc cấp
bách, cần phải làm ngay”. Ông Linh yêu cầu “các cơ quan tuyên truyền phải chỉ
đích danh những cá nhân, những cơ quan, những tổ chức làm các việc trái với Nghị
quyết Trung ương”; đòi “các cơ quan pháp luật phải lôi các vụ việc sai trái lớn
ra nghiêm trị” và đồng thời đưa kết quả xử lý “lên các cơ quan ngôn luận cho
dân biết”.
Bài báo thứ hai, đăng vào ngày
26-5-1987, của Tổng Bí thư cũng chỉ nhặt từ một thông tin đăng trong mục “Ý kiến
bạn đọc” của báo Nhân Dân, số ra ngày 21-5-1987, về việc “kho lạnh Bến Bính Hải
Phòng làm hỏng 360 tấn tỏi khô trị giá khoảng 20 triệu đồng”. Sau khi đặt câu hỏi:
“Ai là người phải chịu trách nhiệm? Hình phạt sẽ ra sao?”, Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh đã đưa ra khái niệm “im lặng đáng sợ” để chỉ thái độ bất chấp của các
cơ quan nhà nước trước “nhiều vụ việc sai phạm rất lớn do quần chúng phát hiện”
và được “báo chí từ Bắc chí Nam” đăng tải.
Một tuần sau khi N.V.L. khởi đăng “những
việc cần làm ngay”, ngày 2-6-1987, báo Tuổi Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh cho đăng
lại loạt bài “Vật tư rơi vào tay ai” của báo Hàng Không Việt Nam. Đây là loạt
phóng sự điều tra của một nhóm nhà báo dũng cảm viết về tiêu cực của hai cán bộ
cấp cục, đăng trên chính tờ báo của ngành.
Bằng những tư liệu điều tra chuẩn
xác, các nhà báo đã công khai danh tánh cục trưởng và cục phó Cục Quản lý bay,
nhân được tổng cục trưởng Hàng không cấp 500 nghìn đồng để xây nhà, đã lập ra một
“Ban Kiến thiết” gồm bảy cán bộ, trong đó có một trung tá làm trưởng ban để “lo
việc xây dựng nhà riêng cho mình”. Đội xây dựng do Cục Quản lý bay lập ra đã
lao động trong vòng nửa năm mới xây xong hai ngôi nhà. Theo bài báo thì chỉ
riêng việc vận chuyển vật tư, Cục đã phải “huy động 150 chuyến xe ô tô, tiêu
hao 4.800 lít xăng”. Kết quả là “hai căn villa lớn, khá đẹp cạnh nhau, nổi hẳn
lên giữa những căn nhà thấp lè tè của cán bộ, công nhân viên sân bay Gia Lâm”.
Loạt bài điều tra này đã được đăng phần
đầu trên báo Hàng Không Việt Nam từ ngày 7-4-1987, nhưng phần tiếp theo thì
không thể đăng vì “ban biên tập đã bị nhiều sức ép”.
Ngay sau khi Nguyễn Văn Linh cho đó
là sự “im lặng đáng sợ”, một đoàn kiểm tra đã được lập ra. Báo Tuổi Trẻ ngày
7-7-1987 cho đăng kết luận của đoàn, xác nhận: “Một số cán bộ có chức có quyền ở
ngành Hàng không đã gây thiệt hại cho tài sản xã hội chủ nghĩa”. Đặc biệt đoàn
kiểm tra nhấn mạnh, việc cho ngưng loạt bài điều tra là “xâm phạm quyền tự do
báo chí” và tuyên bố: “Báo Hàng Không sẽ đăng tiếp phần còn lại”.
Kể từ bài báo đầu tiên đăng ngày
26-5-1987 cho đến ngày 30-5, ngày nào Nguyễn Văn Linh cũng có bài đăng trên mục
“Những việc cần làm ngay”. Nhịp độ này tuy có thưa ra trong tuần lễ thứ hai,
nhưng trong tháng 6-1987, gần như tuần nào ông Nguyễn Văn Linh cũng gửi tới báo
Nhân Dân ít nhất là một bài báo ngắn. Hễ cứ báo Nhân Dân cho đăng “những việc cần
làm ngay” là các báo Tuổi Trẻ, Lao Động, Thanh Niên và các tờ báo Đảng tại các
địa phương lại đăng lại nguyên văn trên đầu trang nhất.
Việc Tổng Bí thư viết báo, nay đề nghị
“quản lý giá cả”, mai đề nghị “phải đưa những cán bộ, đảng viên tốt vào ngành
thương nghiệp quốc doanh”, làm nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau. Trong Ban Bí
thư, theo nhà báo Hữu Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Thanh Bình đã can ngăn
ông Linh đừng viết nữa. Ngày 10-7-1987, ông Nguyễn Văn Linh đã công khai trả lời
sự can ngăn này.
Báo Nhân Dân cho đăng xã luận “Hưởng ứng
những việc cần làm ngay”. Để rồi, ngay sau đó, các báo mở chuyên mục thường
xuyên và gần như bất cứ chỉ thị nào của các bộ, ngành, địa phương cũng bắt đầu
bằng khẩu hiệu “Hưởng ứng những việc cần làm ngay” mà báo Nhân Dân đưa ra ngày
13 tháng 7.
Tại Sài Gòn, Thành ủy ra nghị quyết
yêu cầu các cấp ủy, ban ngành, đoàn thể từ thành phố đến phường, xã phải tổ chức
xem xét và “xử lý ngay những vấn đề mà đồng chí N.V.L. nêu”; các ngành, các cấp
của Thành phố “phải học tập đồng chí N.V.L. tự mình nêu ra những việc cần làm
trong ngày, tuần, tháng không chỉ trong mặt trận chống tiêu cực mà trên nhiều
lĩnh vực hoạt động khác”. Ngày 25-6-1987, khi sơ kết cuộc vận động,
mọi thành tích trên các lĩnh vực khác nhau đều được Thành ủy coi là nhờ hưởng ứng
“những việc cần làm ngay” mà có.
Báo chí, từ chỗ đang viết những bài
ca ngợi, chuyển sang “phanh phui” những gì bị coi là tiêu cực. Những vụ việc ở
“Phòng thuế quận Tư”, ở “Tổng cục Trang bị Kỹ thuật, Bộ Nông nghiệp” đã được
đăng trên báo và bị quên lãng, khi có “Những việc cần làm ngay” của Nguyễn Văn
Linh, bắt đầu được “cày, xới” lại. Báo chí không ngại ngần nêu đích danh cả những
ủy viên Trung ương như Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Hà Trọng Hòa.
Ngày 19-9-1987, Hội Nhà báo tổ chức hội
thảo khẳng định “báo chí nhất định thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực”.
Ngày 21-9-1987, Ban Bí thư ra Chỉ thị 15, đánh giá: “Hoạt động vừa qua của báo
chí chống tiêu cực bước đầu đem lại niềm tin cho quần chúng, thúc đẩy các vụ
tiêu cực được xử lý nhanh hơn”. Ban Bí thư phê phán “một số cán bộ lãnh đạo địa
phương chưa biết sử dụng và ủng hộ báo chí làm công cụ chống tiêu cực”. Ngày
4-9-1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng kêu gọi báo chí “phát huy mạnh
mẽ sức mạnh của mình”.
Sau khi thuyết phục được báo giới,
ông Nguyễn Văn Linh chuyển sang tìm kiếm ảnh hưởng của mình trong giới văn nghệ.
Người giới thiệu ông Linh với văn nghệ sỹ là Tướng Trần Độ, Trưởng
Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương. Trần Độ lúc đó cũng đang cần sự ủng hộ của Tổng
Bí thư cho một nghị quyết mà ông thai nghén nhằm “đổi mới vai trò lãnh đạo của
Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ”. Nghị quyết của Trần Độ về sau nổi tiếng
với tên gọi: “Nghị quyết 05”.
Ngay từ giai đoạn chuẩn bị Nghị quyết
05, không khí dân chủ trong xã hội đã được khởi động bởi nhiều cuộc hội thảo
và, đặc biệt, cuộc đối thoại với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Theo Tướng Trần Độ
thì chính ông Nguyễn Văn Linh muốn có cuộc gặp này để ông “trực tiếp nghe tiếng
nói của anh em” văn nghệ.
Cuộc gặp giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh với các văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa diễn ra trong hai ngày 6
và 7-10-1987. Hơn 100 đại biểu được coi là “tinh hoa” của giới đã về dự. Mở đầu
cuộc làm việc, Tổng Bí thư chỉ nói trong chừng năm phút. Ông nêu băn khoăn,
“hình như từ sau ngày giải phóng văn học nghệ thuật của chúng ta nghèo hơn” rồi
đề nghị các nhà văn tìm nguyên nhân: có phải do có sự kiểm duyệt hay có sự hạn
chế gì? Khi thấy các nhà văn cứ vòng vo, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói: “Còn
rào đón thì chưa chuyển biến được đâu!”.
Được Tổng Bí thư mở lời, nhà nghiên cứu
Nguyễn Khắc Viện thừa nhận, văn học nghệ thuật còn bị trói buộc, sự lãnh đạo
văn nghệ còn thô sơ, tác giả và tác phẩm dễ dàng bị kết án. Ông nói: “Bản án nào
cũng có kỳ hạn, mãn hạn tù, còn bản án văn học thì cứ mãi treo lơ lửng, có khi
còn hại đến cả con cháu”. Những người phát biểu gay gắt như Nguyễn Khắc Viện,
Dương Thu Hương đều được Tổng Bí thư đứng dậy bắt tay. Thái độ của Tổng Bí thư
đã đánh thức sỹ khí của những người từ lâu sống trong sợ hãi.
Họa sĩ Phan Kế An gọi những sai lầm đối
với văn học nghệ thuật là “Maoist”. Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ chỉ trích tình
trạng “một người suy nghĩ cho mọi người, một cái đầu tối cao suy nghĩ cho mọi
cái đầu”. Ông Vũ nói: “Sự độc đoán về tư tưởng bóp chết sáng tạo, làm khô kiệt
văn học và nghệ thuật”. Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng: “Chiến tranh quá dài đã
khiến chúng ta nói quá nhiều, quá sâu về Đảng, về nhân dân, về kẻ thù và gần
như trong một thời gian rất dài không nói gì với các cháu bé, về cha mẹ, về gia
đình... Chiến tranh đã khiến cho cả giáo dục, cả văn học nghệ thuật, thậm chí cả
những phạm trù khoa học như sử học, đạo đức học, tâm lý học đều nhất loạt bị đồng
nhất với chính trị”. Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh ví văn nghệ sỹ như những
“con chim bị trói”. Theo ông Mạnh: “Có thời lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ
sĩ. Mà con người bị coi thường, khinh bỉ thì tự nhiên thấy mình như cũng hèn
kém, nhỏ lại”.
Trong năm mươi phút phát biểu sau
cùng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đồng ý là phải “cởi trói” mới phát huy hết khả
năng của văn nghệ sỹ. Mặc dù thừa nhận: “Trước hết, tôi nghĩ Đảng phải cởi
trói. Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách trong các quy chế, chế độ”,
nhưng ông Linh vẫn cho rằng: “Không thể có ai khác hơn là các đồng chí phải tự
làm. Nghe các đồng chí nói, tôi rất thông cảm. Chính vì thông cảm mà sáng nay
tôi đã ngứa miệng kêu: hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu”.
Ông Nguyễn Văn Linh chia sẻ: “Tôi
không phải là nhà văn nghệ, nhà báo nhưng ngứa ngáy quá nên vừa rồi mới viết
"Những việc cần làm ngay". Nhiều người hoan nghênh, hưởng ứng nhưng
không phải không có những người cho rằng: sao lại bôi đen chế độ”. Không khí cuộc
gặp và phát biểu của Tổng Bí thư đã khiến cho ông Nguyễn Kiên, một nhà văn được
coi là trầm tĩnh nhất cũng phải thốt lên: “Có cảm giác là chúng ta đã bắt đầu
bước sang một thời kỳ khác”.
Không phải tự nhiên ông Nguyễn Văn
Linh chọn báo chí, văn nghệ, thay vì chọn hệ thống tổ chức mà ông đứng đầu để
gây ảnh hưởng chính trị cho mình. Ông Linh hiểu mình ở đâu trong bàn cờ Hà Nội.
Khi mới được bầu làm tổng bí thư, ông Nguyễn Văn Linh nói trước Ban Chấp hành
Trung ương: “Trước đây, tổng bí thư thường hơn các đồng chí khác trong Bộ Chính
trị một cái đầu; nay, chúng tôi chỉ hơn kém nhau sợi tóc”.
Ông Nguyễn Văn Linh mới được bổ sung
vào Bộ Chính trị tháng 6-1985 và được cử làm thường trực Ban Bí thư từ tháng
7-1986. Cho đến khi ấy, ông Linh chỉ thực sự có sáu tháng kinh nghiệm xử lý
công việc ở tầm quốc gia. Theo ông Trần Phương: “Sinh thời, anh Ba không đánh
giá cao Nguyễn Văn Linh”. Việc ông Linh bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị
tại Đại hội V là ý kiến của chính Tổng Bí thư Lê Duẩn. Tháng 12-1981, ông Nguyễn
Văn Linh bị đưa trở lại Sài Gòn làm bí thư, một chức vụ mà ông đã giữ từ năm 1945.
Nhưng Sài Gòn không phải là chặng đường cuối cùng của sự nghiệp Nguyễn Văn Linh
như nhiều người lúc bấy giờ dự đoán.
Sài Gòn năm 1981 là một thành phố lớn,
bộ máy công an, quân đội, báo chí và vị trí của nó có thể đưa ảnh hưởng chính
trị của người lãnh đạo vượt ra khỏi khuôn khổ địa phương. Khác với những lần
làm bí thư bí mật, và sau nhiều năm giữ những chức vụ chỉ có danh, ông Nguyễn
Văn Linh có được trong tay một chính quyền thực sự. Cũng như Võ Văn Kiệt, ông
đã khai thác rất tốt lợi thế ấy.
Năm 1985, nhân dịp kỷ niệm một thập
niên sau “ngày giải phóng”, ông Nguyễn Văn Linh cho xuất bản cuốn Thành Phố Hồ
Chí Minh 10 Năm, phê phán sự “choáng ngợp trước thắng lợi” và chỉ trích những
cán bộ tiếp quản miền Nam hồi năm 1975 là “thừa nhiệt tình và thiếu kiến thức”.
Cuốn sách - được biên soạn bởi những người thạo việc viết lách nhất của Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh, được Nhà Xuất bản Sự Thật in tới 30.200 cuốn - đã gây được
uy tín rộng rãi cho người đứng tên. Tuy nhiên, những gì gây chú ý
trong cuốn sách này của Nguyễn Văn Linh chủ yếu nằm trong luồng gió “chống bệnh
duy ý chí” mà ông Trường Chinh đang bắt đầu. Từ đó cho đến Đại hội VI, Nguyễn
Văn Linh gần như không có đóng góp gì thêm cho “đổi mới”.
Ngay sau Đại hội VI, vừa lo lắng cho
người kế nhiệm, vừa lo lắng cho sự nghiệp thực thi những chính sách mà mình mới
đưa ra, Trường Chinh nói với Nguyễn Văn Linh: “Anh lên, công việc bề bộn, phải
có người giúp việc. Nếu anh muốn, tôi sẽ nhường Trần Nhâm, Hà Nghiệp cho anh”.
Nhưng theo Trần Nhâm, ông Linh lạnh lùng: “Tôi không muốn người ta nói tôi được
rút ra từ trong lò Trường Chinh”.
Công chúng càng ít biết đến Trường
Chinh như một kiến trúc sư đổi mới bao nhiêu, lại càng gắn vai trò này cho Nguyễn
Văn Linh bấy nhiêu. Nguyễn Văn Linh nắm được lợi thế đó và trong
khoảng thời gian ngắn ngủi lúc đầu, ông đã truyền được thêm cảm hứng cho đổi mới.
Đặc biệt trong những bước đi đầu nhiệm kỳ, sau khi Nguyễn Văn Linh chạm tay vào
“đèn xanh”, giới văn nghệ sỹ đã phá vỡ không ít xiềng xích mà họ đã bị tròng
vào hơn hai thập niên trước đó.
Xiềng xích “Nhân văn”
Báo chí xuất hiện ở Việt Nam chỉ ba
năm sau khi người Pháp đặt chân lên “Lục tỉnh”. Ngày 1-2-1865, tại Sài Gòn,
Trương Vĩnh Ký cho xuất bản Gia Định Báo. Tiếp theo đó là sự ra đời của Phan
Yên Báo, Nông Cổ Mín Đàm. Đầu thế kỷ 20, giới phụ nữ Việt Nam cũng đã có tiếng
nói riêng với tờ Nữ Giới Chung do bà Sương Nguyệt Anh làm chủ bút.
Báo chí miền Bắc ra đời muộn hơn.
Nhưng, ở đây lại là nơi bắt đầu các phong trào: Tự Lực Văn Đoàn, năm 1933; Tiểu
Thuyết Thứ Bảy, năm 1934; Thơ Mới, cuối thập niên 1930… Đến năm 1939, Việt Nam
có 48 nhật báo, 68 tập san và 292 tác phẩm xuất bản bằng quốc ngữ.
Đi cùng văn chương, báo chí, là âm nhạc và hội họa. Các tác phẩm đỉnh cao của
âm nhạc Việt Nam từng xuất hiện trong thời tiền chiến.
Nhưng tháng 8-1945, những người cộng
sản cướp chính quyền. Ở đâu có đảng cộng sản cầm quyền, ở đó bắt đầu có cách mạng
về văn hóa.
Từ ngày 25 đến 28-3-1943, Ban Thường
vụ Trung ương mở hội nghị tại làng chài Võng La thuộc huyện Đông Anh, Phúc Yên,
nhằm phản ứng với tình hình trong nước và trên thế giới. Cũng trong những ngày ấy,
Trường Chinh viết Đề Cương Văn Hóa Việt Nam, nêu rõ quan điểm của Đảng Cộng sản
Đông Dương: Văn hóa là một trong ba mặt trận (cùng với kinh tế, chính trị) ở đó
người cộng sản không chỉ làm cách mạng chính trị, mà còn phải làm cách mạng văn
hóa nữa.
Cũng từ năm 1943, Trường Chinh đã đưa
những quan điểm này vào công cuộc lãnh đạo các hoạt động văn hóa cứu quốc. Đây
là đường lối dựa trên các nguyên lý văn nghệ của Mao Trạch Đông: bắt văn nghệ
phục vụ chính trị, lấy mục tiêu sáng tạo văn nghệ là phục vụ công nông binh, phục
vụ tuyên truyền như là một mệnh lệnh tuyệt đối cho văn nghệ sĩ. Đề cương Văn
hóa của Trường Chinh thoạt đầu chưa phải đã có khả năng chi phối, ngay cả với
những người làm “văn hóa cứu quốc”.
Tại Hội nghị Quốc dân Tân Trào, tháng
8-1945, Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi, những nhà lãnh đạo Hội Văn hóa Cứu
quốc, từng đưa ra những quan điểm khác hẳn với Trường Chinh. Quan điểm của Nguyễn
Hữu Đang và Trường Chinh càng trở nên khác nhau hơn trong các cuộc tranh luận tại
Hội nghị Văn hóa Cứu quốc toàn quốc, tháng 10-1946.
Lúc bấy giờ, Chính phủ Hồ Chí Minh chỉ
gồm một lực lượng kháng chiến ẩn chưa hành xử như một người cầm quyền. Nhiều cuộc
tranh luận vẫn được diễn ra dân chủ. Nhưng, tháng 7-1948, tại Hội nghị Văn hóa
toàn quốc lần thứ II, Hội Văn hóa Cứu quốc đã bị giải tán để thành lập Hội Văn
nghệ Việt Nam theo quỹ đạo của đường lối văn nghệ mà Mao Trạch Đông áp dụng với
người Trung Quốc. Tổng thư ký Hội Văn hóa Cứu quốc Nguyễn Đình Thi được làm phó
tổng thư ký Hội Văn nghệ.
Sau Hội nghị Việt Bắc, 1949, nơi tất
cả văn nghệ sỹ kháng chiến được triệu tập về ngồi kiểm điểm nhau suốt ba ngày.
Sau “thơ không vần” của Nguyễn Đình Thi cùng với “tranh lập thể” của Tạ Tỵ, Văn
Cao trở thành mục tiêu phê phán công khai; sau khi đưa ra khẩu hiệu “Cách mạng
hóa tư tưởng, Quần chúng hóa sinh hoạt, Kháng chiến hóa văn hóa”, Tố Hữu yêu cầu
văn nghệ sỹ, sau ba năm kháng chiến, phải loại trừ hết những gì còn rơi rớt của
cái gọi là “tiểu tư sản”. Trong số đầu tiên của Tạp chí Văn Nghệ, Nguyễn Đình
Thi gần như đã lặp lại những gì Tố Hữu nói: “Bước vào năm thứ ba của cuộc kháng
chiến, văn nghệ sỹ phải nhận rõ đường đi”.
Cho dù bị Nguyễn Đình Thi bỏ rơi,
Nguyễn Hữu Đang vẫn cùng Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Tô Ngọc Vân, Văn Cao, Sỹ
Ngọc tiếp tục tranh luận về dân chủ và tự do sáng tác. Nhiều văn nghệ sỹ kháng
chiến khác cũng tự nhận thấy con đường của mình. Những đợt sinh hoạt chính trị
này, từ tháng 7-1948, đã đẩy hàng loạt văn nghệ sỹ bỏ về thành vì không chấp nhận
đường lối văn nghệ chủ trương phân chia giai cấp. Sau năm 1954 những người này
lại đã tiếp tục đi tới Sài Gòn.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đặt
Việt Nam trước một khúc quanh. Nhưng chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Hoa
năm 1949, mới thực sự đẩy số phận dân tộc Việt Nam bước hẳn vào con đường cộng
sản. Mao đã giúp Hồ Chí Minh tiếp cận với Stalin, đồng thời viện trợ vũ khí và
chuyên gia để Hồ Chí Minh tiếp tục kháng chiến chống Pháp.
Chiến dịch Biên giới năm 1950 là một
chiến thắng quân sự có tầm cỡ chiến lược của quân đội Tướng Giáp. Nhưng, đồng
thời, cũng từ năm 1950, biên giới phía Bắc đã được mở ra với phe xã hội chủ
nghĩa và từ đây bỏ ngỏ để các “nguyên lý cách mạng” của Mao và Stalin mặc sức
tràn sang. Đặc biệt, từ năm 1953, cung cách “chỉnh huấn, chỉnh quân” của Mao bắt
đầu được áp dụng, đặt những người kháng chiến trong đó có các văn nghệ sỹ trong
thế đương đầu với một cuộc “khủng bố” tinh thần khốc liệt.
Nếu như đầu những năm 1950, theo
Nguyên Ngọc, những người kháng chiến vẫn còn có thể hát Suối Mơ, Thiên Thai thì từ sau “chỉnh huấn, chỉnh quân”, ở đâu cũng
chỉ nói đến “đấu tranh giai cấp”. Nguyên Ngọc nhớ lại: “Khi đó, trí thức phải tự
coi mình như ‘cục phân”. Tôi hai mươi mốt tuổi chưa kịp gây ra
khuyết điểm gì đành phải tự kiểm vì đã âm thầm mơ đến yêu đương, dục vọng”.
Những văn nghệ sỹ đã nổi tiếng trước
đó thì phải “bới lông tìm vết” trong chính các tác phẩm của mình. Hoài Thanh tự
phê phán tác phẩm quan trọng nhất cuộc đời ông: Thi Nhân Việt Nam. Nguyễn Tuân
xin từ “ba đứa con tinh thần”: Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Thiếu Quê Hương, Vang
Bóng Một Thời. Thái độ này của các bạn văn đã khiến cho những người chính trực
trong giới văn chương ngao ngán.
Ngày 17-6-1953, người dân biểu tình tại
Cộng hòa Dân chủ Đức. Các nhà văn Đức phê phán chính sách văn nghệ chuyên chính
của Đảng và Nhà nước. Tháng 7-1954, ở Trung Quốc, Hồ Phong công bố bức thư ngỏ
gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng, gọi chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc
đối với Văn nghệ là “ lưỡi dao đâm vào óc các nhà văn cách mạng”.
Tháng 10-1954, Trần Dần, Đỗ Nhuận và
Hoàng Xuân Tùy được cử đi Trung Quốc viết lời bình cho phim tài liệu về Điện
Biên Phủ. Họ ở lại Trung Quốc cho đến ngày 12-12-1954, trong thời gian đó,
không khí yêu cầu cải cách dân chủ ở Trung Quốc được cho là có ảnh hưởng không
ít đến Trần Dần và Đỗ Nhuận. Tháng 1-1955, ở Hungary, sáu mươi ba nhà văn lên
tiếng phản đối chế độ độc tài. Trong khi đó, ngày 4-3-1955, Phòng Văn nghệ quân
đội do Trần Dần, Tử Phác cùng Hoàng Cầm, Lê Đạt, tổ chức thảo luận phê bình tập
thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Cuộc thảo luận có mặt Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ
nhiệm Tổng cục Chính trị. Thơ cách mạng của Tố Hữu bị coi là “nhỏ” hơn thơ Tố Hữu
ngày xưa. Tố Hữu còn bị phê phán sùng bái Hồ Chí Minh. Báo Văn Nghệ số 65
1955, rộng ra và chuyển sang nhiều báo khác.
Hội Văn nghệ, dưới sự lãnh đạo của Tố
Hữu, tổ chức hai buổi tọa đàm. Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông
ca ngợi Việt Bắc, coi Tố Hữu là ngọn cờ đầu của thơ kháng chiến. Hoàng Yến cho
rằng thơ Tố Hữu ngày nay có nhiều đoạn giả tạo công thức. Hoàng Cầm chê: thơ Tố
Hữu thiếu chất sống thực tế, nhạt nhẽo, hời hợt và không đột phá được vào một
khía cạnh nào của tâm hồn.
Tháng 4-1955, Trần Dần, Tử Phác,
Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh và Trúc Lâm ký bản “Dự thảo đề nghị cho một
chính sách văn hoá”, đòi quyền tự do sáng tác và yêu cầu cải cách chính sách
văn nghệ trong quân đội. Bản dự thảo sắp được thông qua, thì cuối năm 54, đầu
55, Phòng Văn nghệ quân đội tổ chức một cuộc thảo luận về việc thay đổi chính
sách văn nghệ với sự có mặt của Tướng Nguyễn Chí Thanh. Trong buổi thảo luận,
Trần Dần đòi trả lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, bỏ mọi “chế độ quân sự
hiện hành” trong văn nghệ quân đội. “Nghe xong đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò
anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi
chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ, còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm.
Trần Dần và vài người khác thì lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản”.
Bị phê bình, Trần Dần viết đơn xin ra
khỏi Đảng, xin giải ngũ đồng thời quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Khuê, con một
gia đình Thiên Chúa giáo di cư, bất chấp sự phản đối của quân đội. Từ ngày
13-6-1955, Trần Dần bị phạt “giữ tại trại” hơn ba tháng để kiểm thảo. Người vợ
Công giáo, con của một gia đình tư sản, không thể nào xin được việc làm trên
“thiên đường miền Bắc” .
Tháng 1-1956, Hoàng Cầm, Lê Đạt cho
xuất bản sách dạng tạp chí có tên là Giai Phẩm Mùa Xuân, đăng bài của Lê Đạt,
Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Quán và bài thơ Nhất
Định Thắng của Trần Dần. Ngay lập tức, Giai phẩm bị tịch thu. Hội Văn nghệ
tổ chức hội nghị phê bình bài thơ Nhất Định
Thắng của Trần Dần với 150 văn nghệ sĩ tham dự.
Trần Dần bị kết án là “đồ đệ của Hồ
Phong, mất lập trường giai cấp, đi ngược lại đường lối văn nghệ của Đảng”. Theo
lệnh của Tố Hữu, Trần Dần và Tử Phác bị giam ba tháng tại Hỏa Lò, Trần Dần dùng
dao lam cứa cổ tự tử. Tướng Nguyễn Chí Thanh can thiệp, hai người được thả.
Ngày 7-3-1956, báo Văn Nghệ đăng một bài viết của Hoài Thanh có tựa đề “Vạch trần
Tính chất Phản động trong bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần”.
Tháng 3-1956 tập thơ Việt Bắc vẫn được
Giải Nhất Giải thưởng Văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Dư luận văn
nghệ sĩ bất bình về việc trao Giải thưởng Văn nghệ 1954-1955. Trong khi những
tác phẩm có tiếng vang trong kháng chiến thì không được giải. Ban giám khảo “tự
chấm rất nhiều giải cho mình” trong đó có nhiều tác phẩm chưa xứng đáng của Tố
Hữu, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Huy Tưởng, Trần Kim Trắc, Hồ Khải Đại,…
Cũng trong thời gian đó, tại Đại hội
lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, ngày 24-2-1956, Khrushchev cho công bố “các tội
ác của Stalin”. Liên Xô phục hồi danh dự cho các văn nghệ sĩ bị kết án và bị giết
dưới thời Stalin. Chủ tịch Hội Nhà văn Liên Xô Phadeiev tự sát. Ở
Trung Quốc, Mao Trạch Đông phát động phong trào “Trăm hoa đua nở trăm nhà đua
tiếng”. Chút ít không khí dân chủ xuất hiện.
Tháng 9-1956, khi kiểm điểm những sai
lầm trong cải cách ruộng đất, Hội nghị Trung ương 10 nhấn mạnh việc “tăng cường
mở rộng tự do dân chủ”. Trường Chinh, tác giả Đề Cương Văn Hóa Việt Nam, phải từ
chức tổng bí thư. Người hùng Điện Biên Võ Nguyên Giáp được cử đứng ra “xin lỗi
nhân dân về những sai lầm trong cải cách”.
Giữa lúc ấy, “lãnh tụ” của khuynh hướng
đòi tự do, Nguyễn Hữu Đang, được giao tổ chức lớp học dân chủ mười tám ngày cho
Hội Văn nghệ. Tại đây, các văn nghệ sĩ đã chỉ trích gay gắt đường lối lãnh đạo
văn nghệ của Đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi “thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng
và hứa hẹn sửa chữa”. Hoài Thanh viết bài “Nhận lỗi tả khuynh trong phê bình Trần
Dần”. Tháng 10-1956, Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam ra thông báo nhận sai lầm
trong việc phê bình bài thơ Nhất Định Thắng. Nhưng ngày vui đã không kéo dài.
Trước đó, ngày 29-8-1956, Giai Phẩm
Mùa Thu tập I ra đời đăng bài Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ của Phan Khôi. Báo Nhân Văn số
1, đã phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề nỗ lực mở rộng tự do,
dân chủ.
Phan Khôi là một chí sỹ chủ trương đấu
tranh bất bạo động, gắn bó cuộc đời hoạt động của mình với phong trào Duy Tân.
Năm 1925, khi Phan Châu Trinh về Việt Nam, Phan Khôi được coi như là người đón
nhận “di sản tinh thần” cụ Phan. Cùng với Trương Tửu, Phan Khôi phê phán bệnh
sùng bái cá nhân. Ông phê phán đích danh tác phong lãnh đạo văn nghệ quan liêu,
hách dịch, bè phái của Trường Chinh, Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi. Phan
Khôi còn chỉ trích việc Hồ Chí Minh viết truyện mẫu định cho các nhà văn viết theo.
Đây là giai đoạn mà theo Trương Tửu:
“Một số văn nghệ sĩ non gan… biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục
lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư trĩu nặng
hờn oán và uất ức… Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và
đường lối lãnh đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị trù, bị
hành hạ, bị gạt sang một bên”.
Ngày 20-10-1956, báo Trăm Hoa bộ mới
do nhà thơ Nguyễn Bính làm chủ nhiệm kiêm chủ bút ra số 1. Trong thời gian tồn
tại của mình, với mười một số, Trăm Hoa đã đăng: “Vì những sai lầm nghiêm trọng
cần phải xét lại toàn bộ Giải thưởng văn học 1954-1955”, bài “Chúng tôi đề nghị
bỏ lệ khai báo trong chính sách quản lý hộ khẩu”. Trăm Hoa cũng cho công bố
Thông báo của Hội nghị Trung ương 10 về sai lầm trong Cải cách ruộng đất và viết
bài “Để phát triển chế độ ta, phải bảo đảm cho nhân dân được tham gia quản lý
kiểm soát tích cực mọi công việc của nhà nước”,…
Tháng 11-1956, ở trong nước người dân
ở vùng Công giáo Quỳnh Lưu, Nghệ An, tổ chức bạo loạn. Ở Hungary, chính phủ của
Thủ tướng Nagy tuyên bố Hungary trung lập. Liên Xô đưa quân sang, các phong
trào dân chủ bị dập tắt.
Ngày 20-11-1956, Nhân Văn xuất bản số
5: Lê Đạt với bút danh Người quan sát viết Bài Học Ba Lan Và Hungary; trong bài
Hiến Pháp Việt Nam Năm 1946 Và Hiến Pháp Trung Hoa Bảo Đảm Tự do Dân Chủ Thế
Nào, Nguyễn Hữu Đang viết: “Nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba Lan và
Hungary là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là vì thiếu chuyên chính?”.
Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký “Sắc lệnh về chế độ báo chí”, buộc người dân ra báo phải xin phép, chấm dứt
trên miền Bắc thời kỳ ai muốn làm báo chỉ cần đăng ký mà người dân An Nam được
hưởng gần một thế kỷ dưới thời thực dân Pháp.
Ngay trong ngày báo Nhân Dân công bố
sắc lệnh của Hồ Chí Minh, 15-12-1956, tờ Nhân Văn số 6 bị giữ lại ở nhà in.
Ngày 18-12-1956, Ủy ban Thành phố Hà Nội có quyết định ngưng phát hành báo Nhân
Văn, Giai Phẩm cùng các ấn phẩm khác của nhóm, đồng thời Nhà Xuất bản Minh Đức
bị đóng cửa. Tháng 1-1957, Trăm Hoa bị đình bản. Một chiến dịch báo chí cũng được
tung ra để hạ uy tín các tờ báo và những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm.
Cuối tháng 12-1956 Minh Đức vẫn cho
ra tập san Tự Do Diễn Đàn và ngay lập tức ấn phẩm này bị cấm. Tập san bị cấm có
các bài: "Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết với cuộc đấu tranh Văn nghệ"
của Nguyễn Hữu Đang, "Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích Chính
sách" của Phan Ngọc, "Sinh hoạt Văn hóa" của Trương Tửu và Trần
Đức Thảo. Đặc biệt, tờ Tự Do Diễn Đàn đã cho công bố bản tham luận gây chấn động
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường: "Qua
sai lầm của Cải cách ruộng đất, Xây dựng Quan điểm Lãnh đạo".
Đầu năm 1957, Minh Đức còn xuất bản Sách Tết, với gần đủ mặt nhóm Nhân Văn-Giai
Phẩm.
Ngày 20-2-1957, khai mạc Đại hội Văn
nghệ toàn quốc lần thứ II, Trường Chinh kêu gọi “đập nát luận điệu phản động
Nhân Văn Giai Phẩm”. Ngày 28-2-1957, “Đại hội bế mạc. Cụ Hồ đến. Nhiều công an
quá. Mấy công an đi theo dõi mấy văn nghệ sĩ, nghe họ nói đổng về báo cáo là có
kẻ phá hoại. Nhao cả lên”. Thời gian này, Trường Chinh vừa bị mất
chức tổng bí thư. Sau lời kêu gọi của ông, “bọn Nhân Văn Giai Phẩm” vẫn nhiều
người được bầu vào ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam và
các hội thành viên.
Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông phát động
chiến dịch “chống phái hữu”. Nhiều nhà văn bị phê phán như Trần Xí Hà, Đặng
Thác; nữ nhà văn Đinh Linh, người được Giải thưởng văn học Stalin, bị khai trừ
khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc và bị bắt. Cũng trong thời gian ấy,
nhân chuyến thăm Liên Xô, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên, Hồ Chí Minh ghé Bắc Kinh.
Khi ông trở về, Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường được cử sang Trung Quốc học tập
kinh nghiệm đấu tranh “chống phái hữu”. Tờ Nhân Dân xuất hiện nhiều bài viết
“chống phái hữu” ký tên Trần Lực, một bút danh của Hồ Chí Minh.
Ngày 6-1-1958, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết 30 về việc chấn chỉnh công tác Văn nghệ. Cuối tháng 1-1958,
Lớp học đấu tranh tư tưởng lần thứ Nhất được tổ chức tại ấp Thái Hà với 272 văn nghệ sĩ đảng viên tham dự.
Từ 3-3 đến 14-4-1958, cũng tại ấp Thái Hà, diễn ra Lớp học đấu tranh tư tưởng lần
Hai với 304 cán bộ văn hóa. Theo Đại tá Thái Kế Toại: “Hai lớp học này đã dùng
thủ đoạn đấu tố và áp lực tâm lý tập thể, vu cáo, bịa đặt tội lỗi cho những
thành viên nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Kết quả là không cần điều tra người ta đã
có đầy đủ tội trạng của các nhân vật để quyết định bắt họ, kỷ luật họ”.
1958, trước Hội nghị Ban Chấp hành Hội
Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Tố Hữu, người chủ trì chiến dịch ấp Thái Hà đã “tổng
kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm”. Bài “tổng kết” của Tố
Hữu được ví như một “cáo trạng”, như một “nhát gươm chính thức kết liễu số phận
Nhân Văn Giai Phẩm trên công luận với sự hằn học ghê gớm của một tên đao phủ”.
Ngày 5-6-1958, dưới sự chủ trì của Tố
Hữu, “800 văn nghệ sỹ” đã ký vào một nghị quyết “hoan nghênh kết quả thắng lợi
của cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm”. Ngày 7-7-1958 Ban Chấp hành Hội
Nhà văn ra thông báo “kỷ luật nhóm Nhân Văn”. Số văn nghệ sỹ, gọi
là “tham gia Nhân Văn Giai Phẩm” tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản
lý, khoảng 170 người. Số bị xử lý nặng khoảng gần 100 người, còn
“số bị đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên toàn miền Bắc ở tất cả
các lĩnh vực phải tới hàng ngàn”.
Người nặng thì bị đi tù, nhẹ hơn thì
đi cải tạo lao động trong vòng từ ba đến sáu tháng tại các nhà máy, nông trường,
hợp tác xã. Một số văn nghệ sỹ phải cư trú lâu dài tại các địa phương như Hoàng
Tố Nguyên, Nguyễn Bính, Hải Bằng, Trần Lê Văn, Nguyễn Khắc Dực… Đầu năm 1961,
Phùng Cung bị bắt, do: “Tiếp tục sáng tác các truyện ngắn có nội dung bất mãn,
chống đối, phản động”.
Lê Đạt gọi thời kỳ “hậu Nhân Văn” là
những ngày “khôn ngoan không dám làm người”. Phần lớn các nạn nhân, vốn là những
văn nhân tài hoa, đều phải cúi đầu, tự mình viết bài xỉ vả mình. Họ
được ở lại Hà Nội và sau một thời gian lao động phần lớn được trở lại hành nghề.
Cũng có những nhà văn, nhà thơ bỏ về rừng như Hữu Loan, Nguyên Hồng. Nhưng, cái
giá mà họ và gia đình họ phải trả là vô cùng đau đớn.
Theo Nguyên Ngọc: “Sau một đêm,
Nguyên Hồng vứt hết chức tước, tem phiếu, đưa gia đình về định cư ở vùng Yên Thế.
Ông nói: tao không chơi được với chúng mày nữa”. Hữu Loan bỏ Hà Nội về quê Thanh
Hóa. Từ đó, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim đi thồ đá, người vợ hiền của ông vừa
cày hai sào ruộng vừa xay bột làm bánh. Ba người con trai lớn thì hàng ngày phải
dậy từ ba giờ sáng, kéo ba chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ cách
hai cây số bán rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ bảy cây số đi học. Vì lý lịch
cha mẹ mà một người con của Hữu Loan thi đạt điểm du học nước ngoài vẫn không
được đi, những người con khác của ông cũng không ai được vào đại học.
Tố Hữu gọi Văn Cao, tác giả của Quốc
Ca, là một đảng viên mang “chủ nghĩa cá nhân”, “chịu ảnh hưởng nặng nề của tư
tưởng chính trị đối địch và đường lối văn nghệ tư sản trụy lạc, đã câu kết và
tích cực giúp sức cho bọn phá hoại hoạt động, làm ‘tay trong’ cho chúng”.
Tháng 11-1959, Văn Cao “được phân công dịch sách tại garage Hội Nhà văn cùng với
Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Khắc Dực”. Năm 1960, có hai lần ông bị đưa đi cải tạo
lao động tại khu gang thép Thái Nguyên, tháng 8 ốm nặng, được về. Từ đó, sống
âm thầm tại Hà Nội bằng nghề dịch sách và tô ảnh màu, đứng ngoài mọi sinh hoạt
văn nghệ chính thống”.
“Văn Cao bị một ám ảnh là luôn luôn
thấy có người theo dõi. Tâm trạng bệnh tật. Càng ngày càng bất mãn”.
Ngày 18-10-1959, Nguyễn Huy Tưởng gặp Văn Cao: “Khổ vì tập Vạch Mặt Nhân Văn
nêu tên Văn Cao từ đầu chí cuối. Bị thành kiến. Trong khi đó thì ốm, chỗ dạ dày
bị mổ thỉnh thoảng lại đau... Phải nuôi mẹ già và một em. Khổ nhất là có một đứa
con mới đẻ, lao. Tốn vào đó. Không đi đâu được. Rơm rớm nước mắt nói: vợ lại chửa.
Vẫn phải đi làm để nuôi thân. Văn Cao phải ở nhà ẵm con. Bấn không đi đâu được.
Lo cái chết trước mặt. Thấy có nhiều khả năng để làm việc, và thấy phải làm việc,
làm một cái gì. Suốt ngày đánh đàn. Nhưng khuya, vợ hét”.
Tác giả của những câu thơ: Yêu ai cứ
bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói
yêu thành ghét./ Dù ai cầm dao dọa giết/ Cũng không nói ghét thành yêu…",
ông Phùng Quán, đã phải mất hai thập kỷ sống bằng “cá trộm, văn chui, rượu lủi”,
có lúc đã định tự sát, không dám làm đám cưới vì không có tiền và vì… không ai
dám in tên một “tên Nhân Văn” lên… thiệp cưới.
Nguyễn Hữu Đang được coi là người Việt
Nam duy nhất không hề nếm mùi “chiến tranh chống Mỹ”. Ông bị bắt từ năm 1958, bị
đưa lên một nhà tù ở tận Hà Giang cho đến năm 1973. Năm 1930, Nguyễn Hữu Đang
cũng từng bị thực dân Pháp bắt khi hoạt động trong Hội Sinh viên thị xã Thái
Bình, một tổ chức của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Khi đó,
ông thoát án giam vì chưa tới tuổi thành niên. Nhưng sau “Cách mạng”, ông đã bị
tù đày không một ngày ân xá.
Năm 1973 ra tù, Nguyễn Hữu Đang bị
đưa trở lại quê cũ Thái Bình, làm ruộng. Giữa thập niên 1985, ông lại bị bắt và
bị tạm giam bốn tháng vì “tự tiện sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà
một đối tượng mà công an đang theo dõi”. Nguyễn Hữu Đang - người
xây đài Độc lập, để trong ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đứng trước nhân dân tuyên
ngôn về tự do - kể từ khi được tạm tha, được “sống trong trại lợn của hợp tác
xã”.
“Tội” của Nguyễn Hữu Đang là đã đích
thân bán từng bộ áo quần lấy tiền để nhóm Nhân Văn ra báo đăng những
ý kiến tâm huyết đề nghị Đảng xây dựng một nền pháp trị thay cho đảng trị; đề
nghị nhà nước “cần phải chính quy hơn”.
Thời hoạt động công khai, Nguyễn Hữu
Đang từng “ăn vận sang trọng như công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ
chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, có thể đến bất
kì một nhà tư sản Hà Nội giàu có nào, vay vàng, tiền cho cách mạng mà những người
trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì”.
Nguyễn Hữu Đang của năm 1988, khi Phùng Quán đến Thái Bình thăm, không vợ,
không con, không cửa không nhà, rách rưới và tiều tụy.
Vụ “Nhân Văn Giai Phẩm” từ lâu bị coi
như là một vụ án văn chương và gần như chỉ có số phận các nạn nhân nhà văn là
được quan tâm. Trong khi đó, theo Đại tá Thái Kế Toại: “Các đợt học tập chỉnh
huấn tại các trường Sư phạm và Tổng hợp Hà Nội các Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường,
Đào Duy Anh, Trương Tửu, Trần Đức Thảo cũng bị đưa ra cho giáo viên và sinh
viên đấu tố, bị miễn nhiệm thôi giảng dạy. Ngoài ra còn nhiều người khác cũng
chịu kỷ luật như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc, Cao Xuân Huy. Một số sinh viên cũng bị
kỷ luật như Bùi Quang Đoài (Thái Vũ), Văn Tâm, Phan Kế Hoành, Hà Thúc Chỉ”.
Trong thập niên 1950, đại học Việt
Nam có được những trí thức ưu tú nhất của nền giáo dục Pháp. Giáo sư Hoàng Tụy
đang dạy toán ở Đà Nẵng đã ra Việt Bắc chỉ vì nghe ở đó có nhà toán học Lê Văn
Thêm bỏ Pháp về Việt Nam theo kháng chiến. Nhiều sinh viên, giảng viên đại học
chỉ mong được nhìn thấy những trí thức tên tuổi như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức
Thảo.
Mô hình tự chủ đại học được Tạ Quang
Bửu, Đào Duy Anh, Trương Tửu chủ trương từ rất sớm. Người đứng đầu ngành đại học
lúc đó là Tạ Quang Bửu muốn xây dựng một nền đại học tạo cơ hội như nhau cho mọi
người nhưng từ chối thêm điểm vào đại học cho giai cấp công, nông. Quan điểm của
ông bị phê phán là “tinh hoa chủ nghĩa”. Chỉ vì ủng hộ những quan điểm này mà
Giáo sư Hoàng Tụy đã bị kiểm điểm tới…tám mươi cuộc.
Sau những cuộc đấu tố liên miên đó,
nhiều giáo sư như Trần Đức Thảo, Lê Văn Thêm đã luôn bị tự kỷ ám thị. Đêm đêm,
Giáo sư Trần Đức Thảo vẫn nằm dưới gậm giường vì sợ. Còn Nguyễn Mạnh Tường thì
từ năm 1958 không những bị tước hết mọi chức vụ mà hơn ba mươi lăm năm, vị luật
sư tài ba có hai bằng tiến sỹ Pháp ấy và gia đình đã phải sống trong đói khát.
Năm 22 tuổi, Nguyễn Mạnh Tường đã bảo
vệ thành công luận án tiến sĩ luật tại Đại học Montpellier. Một tháng sau, ông
bảo vệ thành công luận án tiến sĩ văn chương. Khi Nguyễn Mạnh Tường “vinh quy”,
người Pháp đã gặp và gợi ý đưa ông vào làm thượng thư trong Triều Bảo Đại nhưng
ông từ chối.
Những người như Nguyễn Mạnh Tường, Trần
Đức Thảo có thể đã trở thành những trí thức được sủng ái nếu như không lên tiếng
phê bình những sai lầm của chế độ.
Lúc còn học ở trường Albert Sarraut,
Trần Đức Thảo đã để lại không ít huyền thoại về sự thông minh. Ông đỗ tú tài
triết học năm 1935, và năm sau ông đỗ đầu trong kỳ thi vào trường Normale
Superieure của Pháp. Trần Đức Thảo tốt nghiệp thạc sĩ triết học hạng nhất tại
Pháp năm 1942, khi mới hai mươi lăm tuổi. Ông được nhiều thế hệ trí thức Việt
Nam ngưỡng mộ từ huyền thoại “kết thúc cuộc tranh luận với nhà hiện sinh
Jean-Paul Sartre trên thế thắng”.
Sau Hội nghị Fontainebleau, Hồ Chí
Minh đã tìm gặp và đề nghị Trần Đức Thảo về Việt Nam. Cuối 1951, sau khi lấy
xong tiến sỹ, vì say mê chủ nghĩa Marx, Trần Đức Thảo đã về nước theo hành
trình Paris - London - Praha - Moscow - Bắc Kinh - Tân Trào. Thế nhưng, khi
cùng tham gia viết về dân chủ trên báo Nhân Văn, Trần Đức Thảo đã bị Tố Hữu xếp
chung với “bọn gián điệp, phản động”. Báo Nhân Dân sau đó đã đăng
nhiều bài báo bôi nhọ ông.
Cho dù đã phải “khấu đầu tạ tội”
trên báo Nhân Dân, Trần Đức Thảo vẫn bị “đưa ra khỏi biên chế” nhà nước, phải
“cải tạo tư tưởng” bằng nhiều tháng đi lao động ở Tuyên Quang, phải đi chăn bò ở
nông trường Ba Vì. Đã có những lúc triết gia nổi tiếng Paris này phải đi vác từng
bao bột mì để nhận lại vài ổ bánh mà sống.
Những người ưu tú nhất bị đặt ra
ngoài cuộc như Lê Văn Thiêm, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo. Con cái các nhà
tư sản, địa chủ, con cái của những người bị chế độ coi là có vấn đề đều không
được vào đại học. Nhưng nền giáo dục sau Cách mạng tháng Tám 1945 không chỉ chịu
những tổn thất ấy. Sau vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm, nhiều thế hệ sinh viên, học
sinh Việt Nam đã được dạy dỗ trong một nền giáo dục gần như chỉ biết vâng lời.
Thập niên 1930, đầu thập niên 1940,
đang khao khát trưởng thành thì nhận được “vết chém ngang lưng”.
Chính trị và các tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa bắt đầu ngự trị các chương
trình giảng dạy văn chương, nghệ thuật. Những giá trị căn bản của người Việt
Nam không chỉ bị phá vỡ ở “thượng tầng”, từ trong từng ngõ ngách làng xã, trong
mỗi gia đình cũng đã nhận được biết bao bi kịch.
Miền Nam “giải phóng”
Thật khó có thể hình dung điều gì sẽ
xảy ra cho miền Bắc Việt Nam nếu như không có sự kiện 30-4-1975. Cuộc chiến được
nói là để giải phóng miền Nam đã thực sự mở mắt cho người dân miền Bắc. Tuy
chính quyền miền Nam tìm mọi cách để hạn chế báo chí đối lập, nhưng Sài Gòn trước
ngày 30-4 vẫn là một nơi có luật pháp để phục vụ quyền tự do ngôn luận.
Những tờ tạp chí in bốn màu, những bộ
tiểu thuyết diễm tình, đồng hồ Seiko, máy nghe nhạc cassette, akai, tivi, tủ lạnh
và những con búp bê biết khóc được các anh bộ đội đưa về đã đánh thức nhu cầu
văn hóa của người dân miền Bắc. Miền Nam bắt đầu có vô tuyến truyền hình từ năm
1965, trước miền Bắc hơn một thập niên. Nhưng điều quan trọng là các chương
trình phát thanh, truyền hình ở miền Nam được phát đi một cách đa dạng và phong
phú.
Công cuộc giải phóng nào cũng phải mất
thời gian. Những chuyển động của điện ảnh, sân khấu, văn chương, báo chí không
xuất hiện ngay sau 1975, nhưng nó âm ỉ từ bên trong, thay đổi dần dần và căn bản.
Có lẽ vì sự thay đổi chế độ ở Sài Gòn
trong ngày 30-4-1975 được tiến hành bằng những chiếc tăng T54 thay vì bằng một
hiệp định đình chiến như Hà Nội vào năm 1954; cũng có lẽ bởi người Sài Gòn đã học
được bài học “Nhân Văn Giai Phẩm”; nên, kể từ ngày 30-4-1975, không hề có bất cứ
một nhà xuất bản, một tờ báo tư nhân nào còn hoạt động, cho dù ở Sài Gòn trước
đó có hơn hai mươi tờ nhật báo, hàng trăm tạp chí và nhà xuất bản. Một số lớn
văn nghệ sỹ, đội ngũ báo chí Sài Gòn kịp di tản trước khi quân đội miền Bắc kéo
vào. Số ở lại cho dù không phải đi cải tạo thì sự nghiệp của nhiều người cũng
coi như chấm dứt.
Ngày 23-4-1975, Tố Hữu thay mặt Ban
Bí thư điện vào Trung ương Cục: “Đề nghị các anh cho chuẩn bị khẩn trương để kịp
ra báo Cờ Giải Phóng ngay từ đầu khi mới giải phóng Sài Gòn”. Tuy
tờ Cờ Giải Phóng sau đó không ra kịp ngày “Sài Gòn giải phóng”. Nhưng, không chỉ
có hai phát thanh viên mặc quân phục xuất hiện trên đài truyền hình vào tối
1-5-1975, một thế hệ những người viết mặc áo lính, theo các cánh quân từ R kéo
về hoặc từ miền Bắc lần lượt được điều vào, đã “cách mạng triệt để” nền báo chí
Sài Gòn, nền báo chí đã có tờ báo đầu tiên từ 110 năm trước đó.
Ngày 1-5-1975, ông Võ Văn Kiệt triệu
tập một nhóm cán bộ tuyên huấn, báo chí gồm Tô Hòa, Trần Bạch Đằng, Nguyễn
Thành Lê,… đến trường Petrus Ký, nơi Đảng ủy Đặc biệt của Ủy ban Quân quản Sài
Gòn đang tạm đóng. Cuộc họp đi đến thống nhất, Đảng bộ Thành phố sẽ ra một tờ
báo lấy tên là Sài Gòn Giải Phóng. Tuyên huấn Trung ương Cục tạm thời làm “chủ
quản”. Lê Điền, một cán bộ của báo Nhân Dân, làm tổng biên tập. Nguyễn Thành Lê
phụ trách nội dung.
Ngày 5-5-1975, Sài Gòn Giải Phóng ra
số đầu tiên, chủ yếu đăng lại những mệnh lệnh của Ủy ban Quân quản. Sau mười
hai số báo đầu tiên, Sài Gòn Giải Phóng được giao về cho Thành ủy. Tổng biên tập
thứ hai của báo là ông Võ Nhân Lý, thường gọi là Bảy Lý, một người tâm phúc của
ông Nguyễn Văn Linh, có nhiều năm làm phó cho ông Linh ở Ban Tuyên huấn Trung
ương Cục. Ngoài truyền hình và phát thanh, báo chí cách mạng xuất bản tại Sài
Gòn ngay sau 30-4-1975 còn huấn Trung ương Cục. Ngoài truyền hình và phát
thanh, báo chí cách mạng xuất bản tại Sài Gòn ngay sau 30-4-1975 còn 7-1975, Tuổi
Trẻ, 2-9-1975.
Đội ngũ văn nghệ sỹ, báo chí từ Việt
Bắc trở về Hà Nội năm 1954 và tạo ra một phong trào “Nhân Văn” gồm những người
trở về từ một cuộc chiến tranh giành độc lập, tiếp tục khát vọng dân chủ tự do.
Còn đội ngũ từ R hoặc từ miền Bắc trở về Nam năm 1975 đã thấm nhuần chủ nghĩa
Marx-Lenin. Đúng như Tố Hữu viết trong công điện ngày 23-4-1975, họ là một thế
hệ “cán bộ viết báo”.
Về Sài Gòn, nhiều người trong số những
“cán bộ viết báo” ấy tiếp tục làm báo với tư thế của những người chiến thắng.
Những người chiến thắng chưa muốn chấm dứt cuộc chiến “ai thắng ai” với “ngụy
quân, ngụy quyền”, với “tư sản mại bản”, và các “tàn dư của chế độ cũ”. Nhiều
báo vẫn lấy những bài vở được sản xuất từ bộ máy tuyên huấn R.
Sau khi các tờ báo quốc doanh đã hoạt
động ổn định, Bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản Võ Văn Kiệt triệu tập một
cuộc họp, nêu yêu cầu: “Thành phố cần phải cho ra một số tờ báo tư nhân”. Theo
ông Tô Hòa, người phụ trách nội dung từ số 13 của tờ Sài Gòn Giải Phóng: “Kể từ
khi từ miền Bắc trở về, tôi chưa từng nghĩ là mình lại có báo tư nhân, nhưng tư
tưởng của Sáu Dân là như vậy. Trung ương Cục và Thành ủy bàn tới, bàn lui cuối
cùng quyết định sẽ cho ra ba tờ báo tư nhân: một tờ sẽ giao cho nhóm Ngô Công Đức,
Hồ Ngọc Nhuận, một tờ giao cho ông Nam Đình, tờ thứ ba lúc bấy giờ chưa biết
giao cho ai cả”.
Cho tới lúc đó, ông Võ Văn Kiệt và những
đồng chí khác của ông như Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng chưa thực sự làm việc
trong môi trường xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp của họ là vận hành cuộc chiến
tranh ở miền Nam cả bằng đấu tranh võ trang và đấu tranh chính trị, bao gồm cả
những công cụ như biểu tình, báo chí. Họ hiểu khá rõ sự khác biệt giữa các nhóm
dân chúng miền Nam đối với chế độ mới và nhận thức được vai trò của báo chí
trong việc thuyết phục các tầng lớp dân chúng ủng hộ công cuộc của những người
cách mạng. Theo ông Võ Văn Kiệt: “Ý tưởng cho ra báo tư nhân được anh Lê Đức Thọ
và anh Lê Duẩn ủng hộ”.
Thế nhưng phía “tư nhân” lại không nồng
nhiệt đón nhận sáng kiến này. Nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba vốn
là những nghị sỹ đối lập với chính quyền Sài Gòn thì nhận lời. Trong khi đó Nam
Đình, một “Việt Cộng nằm vùng”, thì từ chối. Theo ông Tô Hòa: “Nam Đình giải
thích: tôi, chính trị không biết, làm báo kiểu này trên đe dưới búa thôi!”. Ông
Tô Hòa nhận xét: “Nam Đình chỉ cần nói thế đủ thấy ông ta hiểu chế độ mới và rất
cáo già về chính trị”.
Ba tháng sau, chính quyền thuyết phục
được hai nhóm nhân sỹ nhận giấy phép ra báo tư nhân: Nhóm linh mục khuynh tả
Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, làm tờ Đối Diện trước 1975, nhận Giấy phép số 01,
ngày 4-7-1975, ra tờ bán nguyệt san Đứng Dậy. Cùng ngày 4-7-1975, nhóm linh mục
Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh nhận Giấy phép số 02, ra tờ Công Giáo & Dân
Tộc. Phải tới ngày 22-7-1975, nhóm dân biểu đối lập Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận,
mới nhận Giấy phép số 03 ra tờ Tin Sáng.
Ông Hồ Ngọc Nhuận nhớ lại: “Tôi và
Ngô Công Đức gặp nhau sớm. Chúng tôi cũng rất bối rối vì tình hình mới chưa hiểu
sẽ như thế nào. Nhưng, đích thân ông Võ Văn Kiệt gặp nói: Anh Sáu Thọ cũng rất
sốt ruột”. Theo ông Nhuận: “Khi tình hình chưa ổn định, chính quyền muốn có một
tờ báo được lòng quần chúng mà thân mấy ổng. Tôi hỏi: làm thì làm như thế nào?
Trần Bạch Đằng bảo: làm y như cũ”.
Đúng như nhận xét của Giáo sư Trần
Văn Giàu: “Các anh làm báo cộng sản như… cộng sản”. Ngay từ những ngày đầu,
Đúng như nhận xét của Giáo sư Trần Văn Giàu: “Các anh làm báo cộng sản như… cộng
sản”. Ngay từ những ngày đầu, 1975, Hồ Ngọc Nhuận được đưa ra Hà Nội trong
“Đoàn đại biểu miền Nam dự Hội nghị Hiệp thương Thống Nhất”. Khi trở về, trong
bài Đi Thăm Một Làng Quê Miền Bắc, ông Nhuận viết: “Chúng tôi tin rằng, độc lập
dân tộc và thống nhất tổ quốc phải được gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Chủ nghĩa xã hội là một thực thể chỉ
có thể hiểu được một cách đầy đủ bằng sự trải nghiệm. Nếu nhà văn Pháp có
khuynh hướng cộng sản, A. Gide (1869-1951), năm 1936 không tới Liên Xô thì có
thể ông đã không viết sách chỉ trích Liên Xô. Nếu Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Ngọc
Lan không làm báo sau 1975 thì không thể hiểu đầy đủ “tự do báo chí” dưới thời
Cộng sản.
Trước năm 1975, trong mười năm, có
360 lần tờ Tin Sáng bị tịch thu báo, sáu lần bị đóng cửa. Nhưng, cho dù hà khắc,
Sài Gòn vẫn là một chế độ có luật pháp. Những bài báo có khuynh hướng ủng hộ Mặt
trận Giải phóng và chống Mỹ có thể bị kiểm duyệt. Nhưng một nhà báo thường viết
cho không chỉ một tờ và các chủ báo, đặc biệt là các chủ báo chính trị như Hồ
Ngọc Nhuận, thường có đôi ba tờ báo, nên chính quyền thu tờ này thì viết lên tờ
kia phản đối.
Năm 1969, khi Hồ Chí Minh từ trần,
ngay giữa Sài Gòn, tờ Đất Nước dám ra một số riêng cho “người nằm xuống”, với tất
cả các bài viết trong đó đều nói về Hồ Chí Minh, “kẻ thù” của chính quyền miền
Nam. Sau Hiệp định Paris, linh mục Trương Bá Cần còn có thể cho đăng trên tờ Đối
Diện bài viết “Hai mươi năm xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc”. Còn Giáo sư
Nguyễn Văn Trung thì viết trên tờ Đất Nước: “Cộng sản, người anh em của tôi”.
Tháng 3-1975, trên tờ Đối Diện, hai vị Linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan dám
vẽ bản đồ Việt Nam, đánh dấu những nơi đã nằm trong tay quân miền Bắc rồi chú
thích: “Này anh em ơi/ Quốc gia đến ngày giải phóng”.
“Giải phóng” xong, đội ngũ làm báo từ
trước 30-4-1975 bắt đầu tan tác: một số kịp di tản, một số bị đưa đi cải tạo hoặc
bị bắt do tham gia các “tổ chức phản động”, số có may mắn được làm báo như Đối
Diện, Tin Sáng chỉ chiếm một phần rất nhỏ nhoi. Những người làm báo chí, phát
thanh, truyền hình quân đội như Phan Lạc Phúc, Tô Thùy Yên phải đi cải tạo từ
mười đến mười ba năm. Nhà báo Trần Tuấn Nhậm, một trong những người chủ trương
làm tờ Trình Bầy, năm 1971, khi ra tranh cử nghị sỹ đã dùng khẩu hiệu “Chống Mỹ
cứu nước” với tranh minh hoạ hình Nixon vẽ râu Hitler. Năm 1979, ông Nhậm vượt
biên nhưng bị bắt, và sau đó chết trong trại giam Bến Sắn.
Nhà báo Nguyễn Khắc Nhân, thư ký tờ
Tiền Tuyến, chỉ phải đi cải tạo một năm nhờ có anh rể là Trưởng ban Tuyên huấn
Thành ủy Trần Trọng Tân. Nhưng khi vừa từ trại về, ông Nguyễn Khắc Nhân đã được
anh rể lấy tình thân nói thẳng: “Cậu làm tờ báo phản động nhất miền Nam, cậu
không thể nào làm báo dưới chế độ này được”.
Chính quyền mới không có chế độ kiểm
duyệt báo chí. Thậm chí khi Tin Sáng làm công văn xin Ban Tuyên huấn đưa người
tới viết xã luận và duyệt bài, chính quyền cũng không thèm cử người. Trong khi
đó, Thành ủy lại còn “chăm sóc về vật chất rộng rãi hơn” so với nhiều ngành nghề
hoạt động khác: “Riêng về xăng, ta đã cung cấp cho họ mỗi quý hơn 7.000 lít năm
1979, và 5.650 lít năm 1980”.
Nhưng, trong nội bộ tờ báo, an ninh
đã cài vào không ít đặc tình. Trong một báo cáo gửi “anh Sáu Dân,
anh Chín Đào”, Văn phòng Thành ủy đã yêu cầu: “Cơ quan an ninh cần tăng cường
các biện pháp nghiệp vụ chặt chẽ hơn và tinh tế hơn nữa, để nắm chắc mọi hoạt động
của các đối tượng trọng điểm trong Tin Sáng”. Nhiều bài viết của tờ
báo này bị phát hiện ngay khi chưa kịp lên khuôn.
Tư Trời Biển Ngô Công Đức trước 1975
dám viết bài đả kích tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Cũng Tư Trời Biển ấy, năm
1979, chỉ định viết bài cho báo Tết nhân danh bà hàng xóm ước mong: “Ngày mồng
Một ra đường được gặp một nụ cười xuân, Nụ cười xuân nở trên môi anh cảnh sát”,
đã lập tức bị “đặc tình” tố cáo. Ngày 11-1-1979, Phòng An ninh Bảo vệ Cơ quan
Văn hóa PA 25 đã gửi công văn khẩn lên Thành ủy, “yêu cầu xử lý” Tư
Trời Biển vì cho rằng bài báo ám chỉ “xã hội ngày nay mất cả nụ cười”.
Năm 1978 tờ Đứng Dậy phải đóng cửa.
Cuộc chơi báo tư nhân còn kéo dài tới năm 1981. Nhưng, Hồ Ngọc Nhuận thừa nhận
không làm báo ở đâu căng thẳng như làm báo trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Khác với bán nguyệt san Đứng Dậy, Tin
Sáng là tờ nhật báo có lượng độc giả lớn nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh lúc
Khác với bán nguyệt san Đứng Dậy, Tin Sáng là tờ nhật báo có lượng độc giả lớn
nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh lúc 1981, tại Hội nghị Công tác Tư tưởng toàn quốc,
Lê Đức Thọ nêu một số dấu hiệu đáng lo trên tờ Tin Sáng.
Ngày 23-4-1981, Văn phòng Thành ủy dự
thảo một bản báo cáo để ông Võ Văn Kiệt gửi Trung ương. Cho đến
lúc này, ông Võ Văn Kiệt và Thành ủy vẫn muốn “tiếp tục duy trì tờ Tin Sáng với
bề ngoài như hiện nay để phục vụ một cách có lợi nhất cho yêu cầu chính trị của
ta nhằm tuyên truyền tác động một cách có hiệu quả vào một số đối tượng quần
chúng mà một tờ báo Đảng công khai thâm nhập vào khó hơn, ít tác dụng hơn”.
Tuy nhiên, ngay trong báo cáo ngày
23-4-1981, Thành ủy đã lo rằng: “Hoạt động của họ bộc lộ ý thức gây ảnh hưởng,
tạo thế chính trị trong trí thức, nhân sĩ, Việt kiều và cả trong một số cán bộ
trí thức của ta”. Cũng trong năm 1981, lực lượng Công đoàn Đoàn kết liên tục tổ
chức biểu tình ở Ba Lan, cho dù quân đội Ba Lan đã bỏ tù hàng nghìn người trong
đó có Lech Walesa và thiết quân luật trên toàn quốc. Sự kiện Công đoàn Đoàn kết
đã đặt Hà Nội trong một sự cảnh giác cao độ hơn. Thường vụ Thành ủy sợ rằng: “Nếu
có tình hình đột biến do địch gây ra, thì Tin Sáng có thể gây tác hại, vì những
người cầm đầu này chưa phải là người đã nhập cuộc với chế độ ta, tuy họ có thể
viết nhiều bài ca ngợi chế độ, ca ngợi chủ nghĩa xã hội”.
Tháng 6-1981, ông Võ Văn Kiệt đi Hà Nội.
Sau khi gặp trực tiếp Tố Hữu và ông Trường Chinh, ông Kiệt nhận rõ “thái độ với
Tin Sáng” của Trung ương là rõ ràng và ý kiến “chấm dứt hoạt động Tin Sáng” của
ông Trường Chinh phải được hiểu là một quyết định thay vì một lời gợi ý. Sáng sớm
ngày 29-6-1981, ông Võ Văn Kiệt cho mời ban lãnh đạo Tin Sáng lên gặp. Ngô Công
Đức và Dương Văn Ba đi. Ông Kiệt nói ngắn gọn: “Các anh ở Hà Nội có ý là Tin
Sáng nên ngưng. Nhưng, ngưng ngay hay kéo dài thêm một tháng để chuẩn bị dư luận
thì các anh Tin Sáng cho ý kiến”. Cả Dương Văn Ba và Ngô Công Đức lập tức đồng
ý ngưng ngay. Hồ Ngọc Nhuận khi nghe báo lại cũng tán thành. Sau gần sáu năm
làm báo cộng sản cả ba đã vô cùng mệt mỏi.
Trong một hội nghị cán bộ, diễn ra
ngay trong sáng 29-6-1981, sau khi thừa xác định kinh tế còn năm thành phần,
nhưng văn hóa chỉ có một là văn hóa dân tộc và xã hội chủ nghĩa. Đã đến lúc tất
cả những tiếng nói đều phải là tiếng nói yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội để chiến
đấu và chiến thắng, không có tiếng nói khác được”.
Trong “Thư gửi bạn đọc”, đăng trong số
báo “hoàn thành nhiệm vụ” ra ngày 30-6-1981, Ngô Công Đức viết: “Chia tay, bạn
đọc cũng như anh chị em Tin Sáng đều có những ngậm ngùi của tình cảm. Nhưng
chia tay ở đây để sẽ còn gặp lại ở một vị trí mới, trong cái chiến tuyến chung
của tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta”. Trong các “công điện mật”
trao đổi giữa Thường vụ Thành ủy và Ban Bí thư sau ngày 29-6-1981, chính quyền
tỏ ra hài lòng với phản ứng của những người làm Tin Sáng.
Tờ báo bị đóng cửa nhưng đội ngũ nhà
báo giàu kinh nghiệm ở đó đã được ông Võ Văn Kiệt thu xếp đưa về các tờ báo của
Thành phố như Tuổi Trẻ, Phụ Nữ và cả tờ Sài Gòn Giải Phóng. Họ đã trở thành
nòng cốt trong việc tạo ra một môi trường báo chí thực sự trong các tờ báo của
Sài Gòn, đặc biệt là tờ Tuổi Trẻ. Trước đó, trong văn học, nghệ
thuật cũng đã âm thầm chuyển động.
Trong những thời khắc bị đưa tới tận
cùng, lịch sử, tự thân nó, lại thai nghén những nhu cầu thay đổi. Cuối thập
niên 1970 trí thức, văn nghệ sỹ miền Bắc bắt đầu suy ngẫm về những giá trị mà họ
có thể tiếp cận ở miền Nam, qua sách báo, tivi, tủ lạnh.
Trong khi tại Sài Gòn, Vũ Hạnh, Trần
Trọng Đăng Đàn, Thạch Phương, Trần Văn Giàu… viết sách, viết báo,
lăng mạ văn nghệ sỹ miền Nam thì ở miền Bắc, thanh niên bắt đầu tìm đọc các tác
phẩm của họ. Từ trước khi chiến tranh kết thúc, nhiều nhà văn miền Bắc đã thay
đổi cách nhìn hiện thực và có không ít người cảm thấy xấu hổ với những trang viết
của mình.
Năm 1969, khi viết Dấu Chân Người
Lính, thông qua bi kịch của một nhân vật là đại đội trưởng Việt Cộng yêu một phụ
nữ từng có chồng là “lính ngụy”, Nguyễn Minh Châu đã nhận ra, có những vùng “đất
giải phóng” nhưng con người vẫn không được giải phóng. Năm 1972, khi viết Lửa Từ
Những Ngôi Nhà, Nguyễn Minh Châu cảnh báo: một người hùng trong chiến tranh,
khi trở về có thể thành người đốn mạt!
Cũng trong năm 1972, Hoàng Cát viết
Cây Táo Ông Lành; Nguyễn Đỗ Phú viết Một Đêm Đợi Tàu, đưa ra một cách tiếp cận
khác về chiến tranh. Năm 1974, Ngô Văn Phú có Sẹo Đất, Vũ Tú Nam có Cảm Hứng,
Nguyễn Khải có Đối Mặt và đặc biệt Phạm Tiến Duật có Vòng Trắng, với những câu
thơ mô tả chiến tranh thật hơn: "Khói bom lên trời thành những vòng đen/
Và dưới mặt đất sinh ra bao vòng trắng/ Tôi với bạn tôi đi trong im lặng/ Khăn
tang trên đầu như một số không".
Ở thời điểm này, những tác phẩm đó đã
bị coi là có “không khí nhân văn mới”. Cách mô tả nông thôn miền Bắc qua câu
chuyện của hai người lính trong Một Đêm Đợi Tàu đã bị Trường Chinh phản ứng.
Hoàng Cát khốn khổ vì Cây Táo Ông Lành. Lành là bí danh của Tố Hữu còn cây táo,
thì ai đã từng học phổ thông ở miền Bắc cũng đều biết cây táo đầu nhà Tố Hữu
lúc nào cũng “rung rinh quả ngọt”. Cám cảnh trước sự bầm dập của Hoàng Cát - một
thương binh cụt chân, các đồng nghiệp của ông đã nhắn Tố Hữu bằng thơ: “Hoàng
Cát không làm gì hung/ Anh Lành chớ gây điều dữ”.
Phạm Tiến Duật khi ấy, đang được “cơ
cấu” làm lãnh đạo và đang nổi như cồn với những bài thơ viết về Thanh niên xung
phong, về “tiểu đội xe không kính”, đã bị theo dõi và có nguy cơ bị bắt. May mắn
cho họ là Chiến thắng 30-4-1975 đã mang tới niềm vui như thác lũ cho các nhà
lãnh đạo để “lỗi lầm” của các văn nghệ sỹ tạm được quên đi.
Nhưng đấy là một sự thức tỉnh chứ
không chỉ là những phút giây xúc động. Tiểu thuyết Những Người Đi Từ Trong Rừng
Ra và tập tiểu luận Trang Giấy Trước Đèn của Nguyễn Minh Châu xuất bản sau năm
1975 bắt đầu cho thấy một cái nhìn mới. Ông cho rằng: “Lâu nay ta viết về chiến
tranh không thật. Ta không viết cái thực sự xảy ra mà viết cái ta muốn nó xảy
ra”.
Năm 1979, khi lý luận hóa ý kiến của
Nguyễn Minh Châu trong tiểu luận Về Một Đặc Điểm Văn Hóa Nước Ta, nhà phê bình
văn học Hoàng Ngọc Hiến đã gọi điều mà Nguyễn Minh Châu phê phán là “chủ nghĩa
hiện thực phải đạo”. Bài viết của Hoàng Ngọc Hiến bị đánh tơi bời, vẫn bởi những
“công cụ” mà Tố Hữu đã sử dụng thời “Nhân Văn”. Hoàng Ngọc Hiến bị coi là “đã
xúc phạm đến máu, đến một nền văn học xây bằng máu đấu tranh cho độc lập tự
do”. Cũng trong năm 1979, đời sống văn nghệ xôn xao trước bản “Đề dẫn” của
Nguyên Ngọc.
Khi Nguyên Ngọc, một nhà văn quân đội
đeo quân hàm đại tá, được đưa về trường Nguyễn Ái Quốc, ông lọt vào “mắt xanh”
của Tố Hữu. Ở thời điểm này, Tố Hữu có ý định thay thế số lãnh đạo nhà văn từng
lập công thời “Thái Hà ấp” như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi bằng một thế hệ
nhà văn “trưởng thành qua chiến tranh”. Nguyên Ngọc, người có mười ba năm ở chiến
trường miền Nam, được chọn.
Tháng 11-1978, ông được đưa về làm
phó tổng thư ký kiêm bí thư Đảng-Đoàn Hội Nhà văn. Nguyên Ngọc gần như chắc chắn
có một “ghế” ở Trung ương nếu ông thuận theo cơ cấu của Tố Hữu. Nhưng, chưa đầy
hai tháng sau khi Nguyên Ngọc nhận chức, kế hoạch này đã phá sản vì bài phát biểu
về sau gọi là bản “Đề dẫn” do Nguyên Ngọc đọc tại hội nghị đảng viên của Hội
Nhà văn bàn về sáng tác, tổ chức tại Hà Nội ngày 10-3-1979.
Trong bài “Đề dẫn” này, sau khi đánh
giá lại chặng đường gần hai mươi năm của văn học Việt Nam là khá mờ nhạt,
Nguyên Ngọc cho rằng sở dĩ có sự “chậm trễ, thô thiển” kéo dài là do: “Phê
bình, lý luận đã dung tục hóa mối quan hệ giữa hiện thực và văn học, tuyệt đối hóa
hiện thực, và kết quả là buộc văn học phải khiếp nhược trước hiện thực, người
nghệ sĩ phải khiếp nhược trước đời sống. Như vậy thực chất là nó phủ nhận khả
năng cải tạo trở lại hiện thực của con người, của văn học. Nó hạ thấp văn học
xuống thành một sự sao chép hiện thực, coi giá trị văn học cao nhất là làm sao
cố sao chép cho đúng nguyên hiện thực”. Cũng phê phán “chủ nghĩa hiện thực phải
đạo”, nhưng Nguyên Ngọc đã vượt qua Nguyễn Minh Châu và Hoàng Ngọc Hiến khi chỉ
ra căn nguyên của nền văn học xoay xở dưới trần “thượng tầng kiến trúc” của chủ
nghĩa cộng sản.
Không phải tự nhiên mà Nguyên Ngọc
kêu gọi trong văn học phải nhận thấy “số phận con người”. Ông thừa nhận là đã
nghĩ tới bản “Đề dẫn” này trong chuyến đi của đoàn nhà văn Việt Nam tới
Campuchia ngay sau khi quân đội Việt Nam tràn vào thủ đô Phnom Penh, chứng kiến
một đất nước phố không có số nhà, người không có số tù. Nguyên Ngọc nói:
“Hitler nói là tàn bạo nhưng vẫn cho mỗi người tù một con số, còn Pol Pot thì
không. Ở Campuchia, nhân dân đã bị đảng cầm quyền biến thành vô danh tính. Tại
sao chỉ có các quốc gia cộng sản mới có cách mạng văn hóa và những cánh đồng chết”.
Trong ba ngày đầu hội nghị, bản “Đề dẫn”
đã tạo ra một không khí hân hoan. Nguyên Ngọc nhớ lại: “Chế Lan Viên hồ hởi còn
Xuân Diệu thì nhảy cẫng lên”. Chế Lan Viên than: “Từ lâu, ta đã có Ba Giai, Tú
Xuất, Học Lạc nhưng ta đã giết nó rồi”. Một người rất cứng rắn như
nhà phê bình Vũ Đức Phúc cũng phải cho rằng: “Văn học không chỉ phản ánh hiện
thực cuộc sống mà còn đi sâu vào khám phá quy luật bí ẩn của cuộc sống. Nhưng ở
nước ta có cái gì thoát khỏi đường lối của Đảng ta không? Không. Cả khi con người
đi nghỉ, khi yêu nhau… cũng thấy rõ các vấn đề đường lối”.
Nhà thơ Bảo Định Giang ví dụ: “Tờ Tạp
chí Văn nghệ số 1 của Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên chỉ vì cái bìa vẽ một nhà ga
không có người mà bị đình bản, Ban Bí thư Trung ương can thiệp. Ở một tỉnh Nam
Bộ, dựng lại hình ảnh Nguyễn Đình Chiểu chiến đấu đến cùng, nhưng không thắng,
không cho diễn. Tỉnh ủy đòi tả Nguyễn Đình Chiểu phải thắng, lúc nào cũng thắng.
Vậy Nam Kỳ Khởi Nghĩa thì sao? Xô Viết Nghệ Tĩnh thì sao? Về quân đội, không được
viết ta thua. Nhưng ai đã từng tham gia chiến đấu đều biết ta cũng thua nhiều lắm”.
Nguyễn Đình Thi thừa nhận người trí
thức có vấn đề khi ở trong chế độ cộng sản. Ông nói: “Bài học cho người trí thức
cộng sản thật khó khăn. Ở Trung Quốc, sau 1949, những trí thức lớn không viết
được gì: Mao Thuẫn, Ba Kim, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược. Chỉ có một người viết được
là Lão Xá. Ông là nhà văn có tài nhất Trung Quốc... (Nhưng), Lão Xá tự tử ở cầu
Bắc Hải, nơi ông bảo ông vào nghề văn. Ở chủ nghĩa xã hội có những cái ghê gớm.
Chúng ta nhìn lại, thấy mình còn may lắm”.
Ngày thứ ba, Tố Hữu đến. Ông cho rằng,
ai không “sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa”, không “hiểu hiện
thực theo quan điểm Marxist” là sai. Năm 1979, nền kinh tế Việt
Nam đang ở mức khốn cùng nhưng Tố Hữu yêu cầu các nhà văn phải “nhận ra nhịp đi
của lịch sử” để thấy: “Dân tộc ta đang ở khúc chóp đỉnh, chỏm nón của thời đại”.
Tố Hữu đã nói về “những bế tắc của xã hội Pháp” bằng “một sự buồn và khinh bỉ”.
Ngay sau khi leo lên bục phát biểu, Tố
Hữu đã nói: “Cái bục này đối với tôi cao quá, đối với anh Nguyên Ngọc thì còn
cao hơn. Tôi vừa đi Cao Bằng, nơi tôi gặp các nông dân. Đừng đứng ở đây mà phê
phán hiện thực. Cuộc sống còn cao cả hơn hư cấu”. Theo Nguyên Ngọc, Tố Hữu giận
nhất là câu “chủ nghĩa tập thể bầy đàn”. Ông dùng Khổng Tử để nhắc nhở Nguyên
Ngọc: “Những người ảo tưởng tưởng mình là nhà chính trị, đồng thời là nhà thơ,
nhà tư tưởng lớn là người điên. Ta không phải là người điên, phải trang bị cho
mình trí tuệ của thời đại, tức trí tuệ của Đảng, trí tuệ của nhân dân”.
Tố Hữu phát biểu xong, Nguyên Ngọc vẫn
kết luận: “Hội nghị hoàn toàn nhất trí với đề dẫn”. Tố Hữu bước ra mặt hầm hầm.
Một vài nhà văn lớn lo lắng chạy theo. Nguyên Ngọc kể: “Tối hôm đó nhiều người
cảm thấy phẫn uất, anh em tụ lại ở trụ sở Văn Nghệ Quân Đội, số 4 Lý Nam Đế. Chế
Lan Viên đi bộ từ 51 Trần Hưng Đạo tới nói: ‘Để mình dẫn Nguyên Ngọc tới nhà
anh Lành xin lỗi’. Tôi cám ơn và nói: ‘Nếu thấy cần đi tôi sẽ đi một mình”. Sau
Hội nghị đó, trong Đảng Đoàn Hội Nhà văn duy nhất chỉ có Hoàng Trung Thông nói:
“Ngọc không sai”. Nguyễn Khải bỏ vào Sài Gòn còn Tô Hoài, như thường lệ, lại “trốn
vô bệnh viện”. Không có nỗ lực tự cởi trói nào của giới văn nghệ có thể tồn tại
trong thời gian Tố Hữu nắm quyền.
Đầu thập niên 1980, môi trường văn
nghệ Việt Nam còn một thời kỳ bức bối, nhất là sau vụ bắt hai nhà thơ Hoàng
Hưng và Hoàng Cầm. Nhà thơ Hoàng Hưng bị bắt chiều ngày 17-8-1982, khi ông đến
số 5 Bát Đàn gặp Trần Thiếu Bảo, giám đốc Nhà Xuất bản Minh Đức, để lấy tập thơ
Về Kinh Bắc. Tập thơ được coi là vô giá không chỉ vì thơ mà còn vì nó được chép
tay, được minh họa bằng một bức “lá diêu bông” của Văn Cao và bốn phụ bản màu
nước của Bùi Xuân Phái vẽ những cô gái quan họ đội nón quai thao, mặc áo tứ
thân.
Ba ngày sau, 20-8-1982, cơ quan an
ninh văn hóa bắt Hoàng Cầm. Một bản chép tay khác trước đó đã được chuyển vào
Sài Gòn cho giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Việt kiều Canada. Nhưng, nhờ cấp báo của
Dương Tường, Giáo sư Hùng đã kịp gửi lại tập thơ Về Kinh Bắc để có thể vượt qua
vòng khám hành lý ở sân bay. Tại nhà giam, Hoàng Cầm “nhận tội” rằng, những tuyệt
tác thơ tình đó của ông được làm để “chống Đảng và đả kích chế độ”.
Theo Hoàng Hưng: Trong tập Về Kinh Bắc
có ba bài thơ, Cây Tam Cúc, Lá Diêu Bông, Quả Vườn Ổi - thường được gọi là bộ
ba cây - lá - quả, được rất nhiều thế hệ người đọc chuyền tay, và cũng không ít
người diễn dịch bài thơ như những lời oán trách của “em” (văn nghệ sĩ) với “chị”
(Đảng), đại khái “em” yêu “chị”, nhưng “chị” đã lừa “em”, cho “em” ăn toàn “quả
rụng”, rồi bỏ mặc “em” bơ vơ để đi lấy chồng. Năm 1974, công an Hà Nội đã gọi
Hoàng Cầm lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ “có nội dung xấu” ấy.
Hoàng Cầm phải ngưng. Nhưng sau 1975, Về Kinh Bắc có thêm độc giả ở miền Nam.
Năm 1979, một số Việt kiều có được một
số bài thơ chép tay của nhà thơ, trong đó dĩ nhiên có “bộ ba cây - lá - quả”. Một
nữ bác sĩ xưng tên là Cần Thơ ở Pháp đã xin Hoàng Cầm gửi cho một số bài thơ. Về
sau mới biết bà là đệ tử của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Về Kinh Bắc bắt đầu
thành vấn đề nghiêm trọng khi mấy bài thơ này được in trên một tờ báo ở Pháp
kèm theo lời bình mang tính chống đối chính trị.
Cởi ra…
Đầu thập niên 1980, Đạo diễn Trần Văn
Thủy bấm máy bộ phim tài liệu Hà Nội Trong Mắt Ai. Bộ phim sử dụng rất nhiều
tích cũ dễ khiến cho người nay giật mình. Nhất là đoạn nói về việc “phê đơn” của
bà Huyện Thanh Quan.
Bà Huyện có chồng đang làm tri huyện ở
miền Trung. Một hôm, chồng đi vắng, bà nhận đơn của “Nguyễn Thị Đào” xin được cải
giá vì chồng đi lính thú. Thương cảm cho người phụ nữ xa chồng, Bà Huyện đã mạnh
dạn phê vào đơn: “Phó cho con Nguyễn Thị Đào/ Nước trong leo lẻo cắm sào đợi
ai”. Cô Đào vừa đi bước nữa thì chồng trở về, phát đơn kiện. Hậu quả là ông Huyện
bị mất chức. Trong phim, Trần Văn Thủy bình: “Mới biết cái máu me văn nghệ dính
vào việc quan trường gây ra nhiều sự rắc rối là thế!”.
Phim cũng nói đến Nguyễn Trãi, người
cùng với em họ là Trần Nguyên Hãn “nếm mật nằm gai” phò Lê Lợi suốt mười năm
kháng chiến chống quân Minh. Khi Trần Nguyên Hãn bị Lê Lợi bức tử, Nguyễn Trãi
cũng bị “tạm giam”. Lê Lợi có lần vào ngục thăm ông rồi hỏi nên viết quốc nhạc
như thế nào. Phim kể là Nguyễn Trãi đã bình thản mà rằng: “Thưa bệ hạ, thương
yêu dân chúng thì hãy làm những việc nhân đức. Đừng vì ơn riêng mà thưởng bậy.
Đừng vì giận ai mà phản bội. Đó là cái gốc trường tồn nhất của quốc nhạc!”.
Ngay tại xưởng phim nơi bộ phim ra đời, lãnh đạo xưởng đã thấy “có gì đó không ổn”.
Bộ phim bị coi là “ám chỉ”.
Theo Đạo diễn Trần Văn Thủy: “Có lần
bộ phim đã được chiếu đi, chiếu lại tới bốn lượt trong một buổi sáng tại Quân ủy
Trung ương. Ủy ban Khoa học Xã hội đã phải tổ chức một cuộc toạ đàm, có các đại
biểu của Viện Sử học, Viện Triết học, Viện Hán Nôm cùng tham gia. Các đại biểu
không tìm ra bất kỳ một sai sót nào của phim. Nhưng, Hà Nội Trong Mắt Ai vẫn bị
cấm chiếu".
Chiều ngày 18-10-1983, đích thân Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã xem Hà Nội Trong Mắt Ai. Rồi ngay sau
đó, ông Phạm Văn Đồng yêu cầu phải “tổ chức chiếu công khai bộ phim này cho
nhân dân xem”. Nhưng, cho dù có lệnh của chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Hà Nội
Trong Mắt Ai cũng chỉ được chiếu trong một thời gian ngắn.
Bộ phim sau đó đã được đưa tới Văn
phòng Trung ương Đảng chiếu cho ông Trường Chinh xem. Theo Đạo diễn Trần Văn Thủy
thì trong buổi chiếu, có ông Lê Xuân Đồng, phó ban Tuyên huấn, người cực lực phản
đối bộ phim này và ông Đặng Xuân Kỳ, viện trưởng Viện Triết học, con trai Trường
Chinh, người rất nhiệt thành ủng hộ. Nhưng, liền sau đó, bộ phim đã “tuyệt đối
không được chiếu nữa”. Từ đó cho đến sau Đại hội VI, theo ông Thủy: “Vợ mình bảo
mình điên. Đồng nghiệp, cứ bảy rưỡi, tám giờ sáng là tề tựu ở cơ quan lo xem Trần
Văn Thủy đã… bị bắt chưa!”.
Khi ấy, hai đầu đất nước thì chiến
tranh, trong mỗi con người thì đói rét. Ở nông thôn, nông dân đã “đồng khởi” bằng
những làn sóng khoán chui. Trong các nhà máy, xí nghiệp, công nhân bắt đầu “xé
rào” làm “ba lợi ích”. Giữa năm 1983, Trường Chinh bắt đầu đi cơ sở. Tuy vẫn được
coi là một thành trì cứng rắn nhưng, từ cuối năm 1983, Trường Chinh bắt đầu thận
trọng và chịu lắng nghe hơn.
Tháng 9-1985, uy tín của Tố Hữu gần
như không còn, sau thất bại của giá-lương tiền. Tại Đại hội VI, tháng 12-1986,
các đại biểu đã gạch tên ông trong phiếu bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Cho dù đang có vụ án “hai nhà thơ họ
Hoàng”, đang có vụ “Trần Văn Thủy”, trong khoảng thời gian này, giới văn nghệ sỹ
bắt đầu nuôi khát vọng thoát ra khỏi cái ngột ngạt của quan liêu cả về kinh tế
và chính trị.
Cũng như văn học, nền sân khấu xã hội
chủ nghĩa cũng từng phải thể hiện cái hoành tráng của cuộc chiến tranh. Khi
chưa giành được thắng lợi, mọi thứ hãy đang trong chờ đợi thì sự hoành tráng đó
có thể che đậy được những khao khát cá nhân. Nhưng, khi kết thúc chiến tranh,
người dân nhận ra những điều mà họ chấp nhận hy sinh tuổi xuân để chiến đấu
cho, không tới.
Những người cầm quyền có lương tâm
cũng cảm thấy đắng cay còn nhân dân thì thất vọng. Trước thực tế đó, nghệ thuật
tuyên truyền càng được huy động, tưởng có thể che đậy những khát khao rất cụ thể
của nhân dân, hóa ra lại càng giúp con người nhận ra sự chơi vơi, trống rỗng.
Chiến thắng mà không thấy gì cho mình. Theo nhà phê bình sân khấu Ngô Thảo: “Giữa
lúc ấy thì các đoàn kịch, cải lương từ miền Nam ra, dựng sân khấu diễn khắp
hang cùng ngõ hẻm miền Bắc. Những Lá Sầu Riêng, Đời Cô Lựu với từng số phận hiện
ra rất rõ, tuy có vẻ như bế tắc nhưng thật con người. Dân chúng đổ xô đi xem.
Các đoàn ca, kịch miền Bắc mất dần khán giả”.
Khác với văn học, sự thất bại trong
sân khấu bao gồm cơm áo của cả một đội ngũ. Đời sống bức bách buộc các đoàn nghệ
thuật sân khấu phải chòi đạp. Cái gì bắt đầu từ cuộc sống thì cũng mang theo
chính hơi thở của nó. Có thể nói là trong các hoạt động nghệ thuật đòi dân chủ
hóa xã hội, sân khấu đã đi đầu.
Cuối năm 1985, trong Hội diễn Sân khấu
tại Sài Gòn, các đoàn miền Bắc đưa vào năm vở kịch, được ví với “năm cỗ xe
tăng” của tinh thần dân chủ.
Theo Ngô Thảo: “Nhân Danh Công Lý đã
bị duyệt đi duyệt lại nhiều lần. Mùa Hè Ở Biển thì tới phút cuối Đoàn Nam Định
mới được Tỉnh ủy cho phép dự hội diễn. Quân đội lúc đầu cũng định không cho
Đoàn chèo Tổng cục Hậu cần diễn Bài Ca Giữ Nước. Báo Nhân Dân có bài gay gắt
‘đánh’ Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt và Hà Mi Của Tôi, còn Hình Và Bóng thì bị cấm”.
Cho dù không phải là tác giả của đường
lối đổi mới Đại hội VI, nhưng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với những tuyên bố nồng
nhiệt ban đầu đã tạo ra nhiều cảm hứng dân chủ hóa cho một xã hội đã bị trói buộc
khá lâu trong vòng bao cấp.
Tháng 5-1987, phim “Hà Nội Trong Mắt
Ai” được chuyển tới Nguyễn Văn Linh. Theo ông Trần Trọng Tân, khi ấy ông vừa được
điều từ Campuchia về làm trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trần Văn Thủy đưa
phim “Hà Nội Trong Mắt Ai” cho ông. Ông Tân nói: “Coi xong thấy hay quá, tôi hỏi
Thủy: sao phải đưa tôi coi? Thủy nói: Trên không cho chiếu. Tôi về hỏi người
giúp việc thì được anh cho biết: Cụ Trường Chinh nói phim này ám chỉ nên không
cho phát hành. Khi đó, tôi tính, mình mới về nếu mình cũng cấm thì không hay mà
mình nói cho thì… tế nhị nên điện thoại cho anh Nguyễn Văn Linh: Anh rảnh mời
anh coi cái phim của anh Thủy. Tôi coi thấy hay nhưng trước đây, anh Trường
Chinh đã không cho chiếu. Anh Linh thu xếp coi, xong anh bảo: Hay! Cứ cho chiếu,
còn giữa tôi và anh Trường Chinh thì để tôi lo”.
Theo ông Trần Văn Thủy thì sau đó Ban
Văn hóa Văn nghệ của Trần Độ cũng đã làm khá bài bản. Theo chỉ thị của tổng bí
thư, Ban triệu tập một buổi chiếu Hà Nội Trong Mắt Ai cho tất cả những người có
trách nhiệm về quản lý văn hóa, văn nghệ, tổng thư ký các hội văn học, nghệ thuật
xem và bỏ phiếu. Vì tổng bí thư đã khen, “100% người xem bỏ phiếu thuận”.
Ngày 25-9-1987, Văn phòng Trung ương
Đảng có văn bản truyền đạt ý kiến của Ban Bí thư, chỉ thị Ban Tuyên huấn, Bộ
Văn hóa phổ biến rộng rãi Hà Nội Trong Mắt Ai. Tháng 3-1988, tại Liên hoan Phim
Việt Nam ở Đà Nẵng, Hà Nội Trong Mắt Ai đoạt một lúc bốn giải thưởng: Bông sen
vàng cho phim tài liệu, Biên kịch xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Quay
phim xuất sắc nhất. Đổi mới cũng đã thực sự “cởi trói” cho lĩnh vực sân khấu.
Những vở kịch gai góc không còn có số phận long đong như trước đây. Những Tào Mạt,
Xuân Trình, Doãn Hoàng Giang, và đặc biệt, Lưu Quang Vũ, nhanh chóng trở thành
những ngôi sao của sân khấu.
Lưu Quang Vũ sinh năm 1948. Năm 1965,
Vũ khai gian tuổi để vào bộ đội. Tuy nhiên, môi trường quân đội mà anh trải qua
đã không lý tưởng như những gì mà anh tưởng tượng khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Máu văn nghệ và kỷ luật quân đội là hai “phạm trù” mâu thuẫn. Là lính thợ sửa
máy bay ở sân bay Bạch Mai, trong khi, người yêu của anh, diễn viên điện ảnh Tố
Uyên nổi tiếng và xinh đẹp, thì đang ở Hà Nội: "Không có em anh cũng chẳng
là anh/ Biết ơn bàn tay chỉ sắc màu hạnh phúc/ Em là rễ nối liền anh với đất/ Lại
là chồi nở búp đón sương mai". Vũ thường xuyên trốn về gặp Tố Uyên và kết
quả là năm 1970, Lưu Quang Vũ bị loại ngũ vì liên tục vi phạm kỷ luật.
Trở về thành phố, không sổ gạo, không
hộ khẩu, Lưu Quang Vũ được Tạ Đình Đề đưa về làm ở xưởng cao su Đường
sắt. Rồi, có lúc làm sửa lỗi chính tả ở Nhà Xuất bản Giải phóng, chấm công
trong một đội cầu đường, làm bích báo, vẽ pano, khẩu hiệu. Năm 1978 Vũ được cha
là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận can thiệp cho về Tạp chí Sân Khấu. Ở đây, anh
được Đạo diễn Phạm Thị Thành đặt hàng viết một vở kịch về Lý Tự Trọng. Và Vũ đã
viết vở kịch đầu tay của anh: Mãi Mãi Tuổi 17.
“Cởi trói” đã biến Lưu Quang Vũ trở
thành nhà viết kịch đắt hàng nhất. Những tràng vỗ tay của khán giả khi xem kịch
Lưu Quang Vũ đã đưa các trưởng đoàn kịch từ khắp các tỉnh thành phải về “ăn dầm
nằm dề” ở nhà anh để chờ kịch bản. Năm mươi vở kịch đã được Lưu Quang Vũ viết,
chủ yếu trong những năm giữa thập niên 1980. Nếu như sân khấu đã gây dấu ấn ở Hội
diễn 1985 thì Hội Nhà văn lúc đó lại “gần như dửng dưng với đổi mới”. Tờ báo
Văn Nghệ cho tới đầu năm 1987 ế tới mức không còn tiền mua giấy. Tổng Biên tập
Đào Vũ gửi thư cho Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương tuyên bố đóng cửa tờ báo.
Trưởng ban Trần Độ không chấp nhận
đóng cửa Văn Nghệ, thúc giục Hội phải nhanh chóng tìm người thay thế. Trong một
cuộc họp nội bộ, nhà văn Nguyễn Minh Châu đề nghị “mời Nguyên Ngọc”. Nguyễn
Đình Thi và Chính Hữu gặp Trần Độ báo cáo. Trần Độ thúc Hội làm thủ tục ngay để
điều Nguyên Ngọc về nhưng Nguyễn Đình Thi cứ chần chừ cho đến khi Tướng Trần Độ
cử người đến Hội yêu cầu.
Tháng 6-1987, Nguyên Ngọc có quyết định
về làm tổng biên tập tờ Văn Nghệ. Khi đó, tờ báo này đã “đình bản” liên tục bốn
số liền, Võ Văn Trực và Ngô Ngọc Bội đang chuẩn bị cho ra một tờ “bốn số gộp”.
Bản thảo số báo này có truyện ngắn Tướng Về Hưu, một truyện ngắn được gửi tới
báo Văn Nghệ từ khá lâu, tác giả của nó khi đó chưa ai biết đến.
Ngô Ngọc Bội cho rằng đó là một truyện
ngắn hay, nhưng Tổng Biên tập Đào Vũ mấy lần xếp lại. Theo Nguyên Ngọc, khi biết
ông sẽ về thay thế Đào Vũ, Võ Văn Trực có tham khảo ông và ông đã khuyến khích
Võ Văn Trực cho đăng. Tướng Về Hưu ngay sau khi công bố đã định danh một nhà
văn tài năng: Nguyễn Huy Thiệp. Cuộc tranh luận về Tướng Về Hưu trên nhiều diễn
đàn ngay sau đó đã làm cho Nguyễn Huy Thiệp nổi tiếng và tờ Văn Nghệ được chú ý
hơn.
Ông Nguyên Ngọc kể: “Nhận chức, tôi họp
anh em nói, báo Văn Nghệ hơn các báo ở chỗ có chất văn, nhưng đã báo thì phải
có tính chiến đấu. Muốn lôi cuốn độc giả thì phải đưa đời sống vào báo, phải
làm sống lại mảng phóng sự văn học, lấy phóng sự làm mặt trận chính của báo”.
Phóng sự đầu tiên gây xôn xao trên
báo Văn Nghệ viết về ông Nguyễn Văn Chẩn, còn được gọi chết tên là “Vua Lốp”,
người bị Hà Nội khởi tố vì “thu gom phế liệu” một ngành “độc quyền nhà nước”.
Bài phóng sự do Trần Quang Huy viết có tên Lời Khai Của Một Bị Can nhanh chóng
được nhiều tờ báo đăng lại hoặc lên tiếng ủng hộ, kể cả báo Nhân Dân. Sau Lời
Khai Của Một Bị Can, Văn Nghệ có thêm những bài báo thu hút dư luận như Người
Đàn Bà Quỳ và đặc biệt là Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì? của Phùng Gia Lộc.
Phùng Gia Lộc là một người viết văn ở
Thanh Hóa. Giữa thập niên 1980, ông có một số bài viết đụng chạm đến những tiêu
cực ở địa phương. Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa bấy giờ là ông Hà Trọng Hòa, một người
mà bài vè “Thanh Hóa dô tá, dô tà” gọi là “vua không ngai”. Bị đe dọa, Phùng
Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội. Theo Nguyên Ngọc: “Anh em văn nghệ ở Thanh Hóa tổ
chức đưa Phùng Gia Lộc lên tàu, cử hai người đứng hai đầu toa để canh chừng. Ra
Hà Nội, thoạt đầu Lộc ở nhà Bế Kiến Quốc, sau thấy nhà Quốc không an toàn, anh
em đưa Lộc về sống tạm ở tòa soạn báo Văn Nghệ”.
Tại Tòa soạn báo Văn Nghệ, Phùng Gia
Lộc kể lại câu chuyện chính quyền Thanh Hóa theo lệnh của bí thư, tịch thu xe đạp,
phích nước và lợn gà của những gia đình thiếu thóc nghĩa vụ. Năm ấy Thanh Hóa mất
mùa, đói kém, bí thư chỉ thị: “Lợi ích của người lao động phải hy sinh cho lợi
ích nhà nước”.
Câu chuyện xảy ra trong một gia đình
có một cụ già bệnh nặng, sắp tới lúc gần đất xa trời. Gia đình đã giấu vào
trong cỗ quan tài đóng sẵn của bà cụ một ít thóc để lo “hậu sự”. Gần một giờ
sáng, “dân quân ập vào… tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu eng éc như bị chọc tiết,…
dân quân, công an lật cỗ quan tài dưới gầm bàn thờ, lúa chảy rào rào. Đấy là
lúa tạ, hai cô con gái mua cho để sau hôm bà già chết, đãi khách”.
Phùng Gia Lộc kể, cả tòa soạn Văn Nghệ
ngồi nghe, rồi khóc. Nguyên Ngọc nói: “Tôi bảo Lộc viết ngay đi”. Lộc cầm bút
và bài ký Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì của anh, đăng trên Văn Nghệ số ra ngày
23-1-1988, đã gây chấn động. Các báo cho đăng lại. Cuộc chiến của báo Văn Nghệ,
Phùng Gia Lộc với Bí thư Thanh Hóa Hà Trọng Hòa từ đó bắt đầu được gần như tất
cả các báo theo dõi và đăng bài ủng hộ.
Năm 1987 có thể coi là năm của Nguyễn
Văn Linh. Câu nói tưởng như vô trách nhiệm của ông với văn nghệ sỹ, “hãy tự cứu
mình trước khi trời cứu”, đã tạo ra những ảnh hưởng không ngờ. Bản chất của lao
động sáng tạo là độc lập. Điều mà giới văn nghệ sỹ cần là tự do. Được lời của tổng
bí thư, ai cũng sốt sắng tự mình cởi trói.
Nhiều tác phẩm gây xôn xao dư luận,
xuất bản trong thập niên 1990, đã thai nghén trong giai đoạn Nguyễn Văn Linh.
Sau Nguyễn Huy Thiệp, xuất hiện thêm Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh,… Những nhà văn đã
có tác phẩm trước đó như Dương Thu Hương, Nguyễn Minh Châu cũng bắt đầu viết bằng
những hơi thở mới.
Sau Nghị quyết 05 Bộ Chính trị, công
an và các cơ quan liên quan triển khai “làm chính sách cho các đối tượng Nhân
Văn Giai Phẩm”. Đại tá Thái Kế Toại, người được A25 giao viết báo cáo về “tình
hình các đối tượng Nhân Văn” cho biết, công an đã “đề xuất phương hướng giải
quyết chế độ chính sách” theo hướng: Phục hồi hội tịch Hội Nhà văn cho Trần
Duy, Trần Dần, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Lê Đạt, Phùng Quán. Giải quyết chế độ
lương hưu cho Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung.
Cũng trong năm 1987, lần đầu tiên kể
từ sau Nhân Văn, Nhà Xuất bản Văn hóa in cho Hoàng Cầm tập thơ Mưa Thuận Thành;
Báo Quảng Nam-Đà Nẵng in cho Phùng Quán trường ca Cây Cà. Năm 1988, Nhà Xuất bản
Tác phẩm mới in tập thơ Lá của Văn Cao.
Năm 1976, Văn Cao sáng tác ca khúc đầu
tiên kể từ sau “Nhân Văn”, bài hát có tên là Mùa Xuân Đầu Tiên đã được in trên
báo Sài Gòn Giải Phóng và được Đài Tiếng nói Việt Nam thu thanh. Tuy nhiên ngay
sau đó, bằng một lệnh không thành văn, Mùa Xuân Đầu Tiên biến mất. Cuối thập
niên 1980, những “đêm nhạc Văn Cao” bắt đầu được tổ chức trang trọng ở Sài Gòn
và Hà Nội. Cũng trong năm 1988, Nguyễn Hữu Đang được chuyển lên Hà Nội và được
cấp nhà.
Cho dù, trước khi Nguyễn Văn Linh rời
chính trường, tháng 4-1991, Ban Chấp hành Trung ương mà ông đứng đầu vẫn ra
thông báo về vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” và vụ “Xét lại chống Đảng 1967” với
quan điểm “không thừa nhận sai lầm, vẫn đánh giá hai vụ án như trước đây”.
Nhưng Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Cung,… tiếp tục được xuất bản tác phẩm. Năm 1992,
Kỷ yếu Nhà văn Việt Nam được in và tên của Phan Khôi lần đầu tiên được nhắc lại.
Khát vọng tự do của người dân, đặc biệt
là của tầng lớp trí thức và văn nghệ sỹ, thường không có giới hạn. Nhất là lúc
đã đứng thẳng dậy. Đây cũng là thời kỳ mà chương trình “cải tổ” được Gorbachev
thúc đẩy mạnh mẽ ở Liên Xô. Đây cũng là thời kỳ, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ.
Việt Nam có thể đã khác và lịch sử có
thể đã ghi nhiều dấu ấn của Nguyễn Văn Linh hơn nếu như, cuối thập niên 1980, mục
tiêu ưu tiên của ông đã không được chuyển từ dân chủ hóa hệ thống chính trị và
đời sống xã hội sang cứu vãn sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét