Phần IV : Tam nhân
Chương XVII : Tam quyền không phân lập
Ngày 29-11-1991, khi phát biểu trước
Hội nghị Trung ương 2 bàn về sửa đổi hiến pháp, Tổng Bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia, nhưng có phân công rành mạch”.
Đây là một thời điểm hiếm hoi mà Đảng Cộng sản Việt Nam rơi vào tình thế hoàn
toàn độc lập vì chưa biết lấy ai làm chỗ dựa. Nhưng cho dù đơn độc,
ý thức hệ chứ không phải là tương lai dân tộc đã được lựa chọn. Hiến pháp 1992,
vì thế, đã không tiếp cận được những mô hình nhà nước tiến bộ để trở thành nền
tảng cho Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền.
Nửa thế kỷ, bốn hiến
pháp
Không phải tự nhiên mà Tổng Bí thư Đỗ
Mười nhấn mạnh “quyền lực nhà nước là thống nhất”. Trên các diễn đàn góp ý dự
thảo hiến pháp lúc bấy giờ bắt đầu xuất hiện khái niệm “tam quyền phân lập”, đồng
thời có nhiều ý kiến đề nghị khôi phục tinh thần Hiến pháp 1946.
Cho dù Hiến pháp 1946 được mô tả như
là “hiến pháp của Hồ Chí Minh”, việc khôi phục nó chưa bao giờ được công khai
đưa ra. Tuy không thiết kế một nhà nước hoàn toàn theo mô hình
“tam quyền phân lập”, Hiến pháp 1946 đã không hề có bóng dáng của nhà nước Xô
viết. Quyết tâm chính trị lớn nhất lúc đó của Đảng Cộng sản Việt Nam là kiên định
lập trường xã hội chủ nghĩa.
Trên thực tế, chiến tranh nổ ra chỉ một
tháng mười ngày sau khi Hiến pháp 1946 được Quốc hội thông qua. Bản Hiến pháp
vì thế chưa được công bố và cuộc tổng tuyển cử bầu Nghị viện Nhân
dân chưa được tiến hành. Quốc hội lập hiến đứng ra đóng vai trò của Nghị viện,
xưng là Quốc hội khóa I. Chính phủ Liên hiệp Lâm thời tiếp tục vai trò, nhưng tất
nhiên không còn các thành viên của Việt Cách và Việt Quốc.
Sau Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng
sản Đông Dương, năm 1951, Chính phủ Hồ Chí Minh bắt đầu thể hiện bản chất chính
quyền của một nhà nước giai cấp thay vì chính quyền của các thành phần nhân dân
như giai đoạn tập hợp lực lượng ban đầu. Tinh thần của Hiến pháp 1946 đã hoàn
toàn biến mất khi ngày 4-12-1953 Quốc hội “khóa I” ban hành Luật Cải cách ruộng
đất, tước đoạt ruộng đất của những người bị quy là địa chủ, trái với Điều thứ
12: “Quyền tư hữu của công dân Việt Nam được bảo đảm”.
Quyền tự do ngôn luận mà Hiến pháp
1946 minh định, và trên thực tế khi ấy đang được thi hành dựa trên chế độ báo
chí của chính quyền thực dân Pháp, cũng bắt đầu bị hạn chế sau ngày 14-12-1956,
ngày Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh về Chế độ báo chí. Những người còn lại trong Quốc
hội được bầu tháng 1-1946 cũng đã đưa tay “khai tử” đứa con đáng tự hào nhất của
mình. Năm 1959, Hiến pháp 1946 bị thay thế, bất chấp nguyên tắc sửa đổi Hiến
pháp phải theo cách thức: “Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu; Nghị viện
bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi; Những điều thay đổi khi đã được Nghị
viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”.
Mặc dù Hồ Chí Minh đặt vấn đề xây dựng
hiến pháp rất sớm, Hiến pháp 1959 mới thực sự là hiến pháp của
ông. Việc thay thế Hiến pháp 1946 chỉ thực sự được triển khai sau khi Hồ Chí
Minh đi dự Hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế tổ chức
vào tháng 11-1957 tại Moscow, cùng ký “Tuyên bố chung” thừa nhận: “Kinh nghiệm
của Đảng Cộng sản Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản có ý nghĩa nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế”.
Nhà nước “dân chủ cộng hòa, tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống,
gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” theo Hiến pháp 1946 đã
được thay thế bằng một nhà nước “dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai
cấp công nhân lãnh đạo” theo Hiến pháp 1959.
Trong Lời nói đầu, Hiến pháp 1959 viết:
“Nhân dân ta quyết tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất trí với các nước anh em
trong phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô vĩ đại… Dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch
Hồ Chí Minh”. Nếu như Hiến pháp 1946 nhấn mạnh đến bình đẳng và tự
do của người dân thì Hiến pháp 1959 nhấn mạnh “trừng trị mọi hành động phản quốc,
chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ quốc”.
Công dân Việt Nam bắt đầu được khuyến cáo: “Không ai được lợi dụng các quyền tự
do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước”.
Hiến pháp 1959 tồn tại hai mươi năm
trong giai đoạn miền Bắc dồn sức cho chiến tranh, ít ai có điều kiện để quan
tâm tới việc thực thi pháp luật. Sau chiến thắng năm 1975, sau khi “hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội”, tháng 7-1976, Quốc hội đổi tên nước từ
“Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” thành “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” và xác định:
“Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cần có một bản hiến pháp thể chế hóa
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là hiến pháp của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước”.
Ngôn từ trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được đưa thẳng vào Lời nói đầu
của Hiến pháp 1980. Trong khi súng đạn đang nổ hàng ngày ở hai đầu biên cương, ở
hậu phương, dân chúng lại bị hô hào “tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng”.
Hiến pháp 1980 thực chất là một bản
Hiến pháp 1959 nâng cao theo hướng “nhà nước chuyên chính vô sản”. Cách tiếp
thu kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa cũng khá vội vàng. Ông Nguyễn
Đình Lộc kể: “Khi Chủ tịch Trường Chinh đi nghiên cứu tại các nước Đông Âu, họ
trình bày mô hình hội đồng nhà nước mà họ đang áp dụng như là một mô hình đầy
tính ưu việt. Mình về, bê gần như nguyên xi vào hiến pháp mới. Không ngờ, họ
nói với mình vậy nhưng chỉ sau đó không lâu họ sửa vì mô hình ấy nhập nhằng vai
trò giữa quốc hội và nhà nước”.
Hiến pháp 1980 trở thành một bản hiến
pháp “đoản mệnh”. Từ tháng 3-1989, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa VI, bắt
đầu đặt vấn đề: “Cần rà soát lại các văn bản pháp quy hiện hành (kể cả Hiến
pháp), bổ sung và sửa đổi những điểm cần thiết theo tinh thần đổi mới”.
Ngày 30-6-1989, Nghị quyết Trung ương 6 đã được Quốc hội Khóa VIII triển khai với
tinh thần cải cách cao hơn: Sửa đổi Hiến pháp 1980 “một cách toàn diện”. Cũng
trong kỳ họp ấy, Quốc hội quyết định thành lập Ủy ban Sửa đổi Hiến pháp, cử ông
Võ Chí Công làm chủ tịch.
Quốc hội có vai trò hơn
Cho dù vẫn bị “lãnh đạo” liên tục từ
hậu trường, ở thời điểm hình thành Hiến pháp 1992, Quốc hội Việt Nam bắt đầu có
tiếng nói. Đây cũng là một thành quả quan trọng của “đổi mới”. Trong nhiều thập
niên trước đó, Quốc hội Việt Nam chỉ tồn tại trên hình thức.
Quốc hội đầu tiên của người Việt Nam
đã ra đời trong một hoàn cảnh khá là đặc biệt. Trong cuộc Tổng tuyển cử ngày
6-1-1946, 333 đại biểu quốc hội đã được bầu từ hàng ngàn ứng cử viên. Tuy Việt
Minh kiểm soát chặt chẽ tiến trình bầu cử nhưng việc cho ứng cử tự do đã giúp
cho cuộc bầu cử mang một hình ảnh dân chủ. Tại các đơn vị bầu cử,
số lượng ứng cử viên đông hơn gấp nhiều lần số đại biểu được bầu. Tỉnh Quảng
Nam được bầu mười lăm đại biểu nhưng có tới bảy mươi tám ứng cử viên. Ở Hà Nội,
nơi Hồ Chí Minh ứng cử, được bầu sáu đại biểu nhưng có tới bảy mươi bốn người
ra ứng cử.
Về danh nghĩa, đây là một cuộc bầu cử
đa đảng. Tuy nhiên, những người trúng cử đều thuộc thành phần Việt Minh, hoặc
các cảm tình viên của Việt Minh và những người được Hồ Chí Minh đưa vào các đảng
được lập ra theo chủ trương của ông.
Trước đó, vào tháng 9-1945, cùng với
hai mươi vạn quân Trung Hoa Dân quốc do tướng Lư Hán và Tiêu Văn chỉ huy sang
Việt Nam với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, tổ chức Việt Nam Cách mạng Đồng
minh Hội (Việt Cách) do nhà cách mạng Nguyễn Hải Thần lãnh đạo cũng theo về.
Trước sức ép của Tiêu Văn và Lư Hán, con người “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ
Chí Minh đã lấn át nguyên tắc “thần linh pháp quyền” mà ông cùng tuyên bố trong
“Việt Nam yêu cầu ca”. Ngày 24-12-1945, trong Hội nghị liên tịch đảng phái, Hồ
Chí Minh đã đồng ý dành năm mươi ghế đại biểu Quốc hội cho Việt Quốc, hai mươi
ghế cho Việt Cách.
Ông Vũ Đình Hòe nhận xét: “Bổ sung bảy
mươi ghế Quốc hội mà không thông qua tuyển cử bổ sung thì thật là trái ngược với
các văn bản Nhà nước về bầu cử Quốc hội. Pháp chế dân chủ không cho phép làm
như vậy”. Theo ông Vũ Đình Hòe: “Bác Hồ có hỏi ý kiến tôi và Phan
Anh về khía cạnh kỹ thuật, pháp lý, chúng tôi trả lời, để đảm bảo tôn trọng
nguyên tắc dân chủ: Quốc hội quyết định tất cả”. Thế là trước
phiên họp đầu tiên của Quốc hội, bảy mươi đại biểu không qua bầu cử này đứng
bên ngoài chờ Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo và xin Quốc hội chuẩn y. Các đại biểu
Việt Minh đương nhiên tán thành lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bảy mươi đại biểu Việt Quốc,
Việt cách được mời vào Hội trường, Quốc hội vỗ tay hoan nghênh. Về sau họ được
gọi là đại biểu “truy nhận”.
Tuy nhiên, khối đoàn kết dân tộc
không thiết lập trên nền tảng “pháp chế dân chủ” thì cũng không tồn tại lâu bền.
Tháng 7-1946, tranh chấp gay gắt giữa Việt Minh và các phe phái đối lập diễn
ra. Các cơ sở của các đảng phái đối lập, đặc biệt là của Việt Cách, bị Việt
Minh tấn công, nhiều đại biểu của Việt Cách bị bắt. Nguyễn Hải Thần cùng nhiều
đồng chí khác của ông trong Việt Cách, cùng Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam và
nhiều “đại biểu” Việt Quốc khác đã phải bỏ trốn, nhiều người phải quay trở lại
Trung Quốc. Trong số năm mươi đại biểu “truy nhận” của Việt Quốc về sau chỉ có
Trần Văn Cầu được công nhận là “đủ tư cách đại biểu Quốc hội”. Trong số hai
mươi đại biểu của Việt Cách chỉ có sáu đại biểu: Lê Viết Cương, Đinh Chương
Dương, Lý Đào, Ngô Văn Hợp, Nguyễn Văn Lưu, Trần Tấn Thọ, được công nhận “đủ tư
cách”. Số còn lại đã bị Quốc hội truất quyền đại biểu.
Trong số 403 đại biểu được công nhận
trong kỳ họp đầu tiên vào ngày 2-3-1946, đến giữa năm 1946 chỉ còn 291 người,
và tháng 11-1946 khi bỏ phiếu thông qua Hiến pháp 1946, Quốc hội chỉ còn lại
242 người. Quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, theo tinh thần của Hiến pháp 1946,
chỉ là một quốc hội lập hiến. Tuy nhiên, lấy lý do chiến tranh, Hiến pháp 1946
đã không được công bố, “Nghị viện Nhân dân” đã không được bầu để thay thế. Quốc
hội lập hiến, kể từ sau Hiến pháp 1959, được gọi là Quốc hội Khóa I.
Tập hợp được một đội ngũ trí thức
tiêu biểu, từng thông qua bản Hiến pháp 1946 danh tiếng, nhưng trong suốt sáu
năm đầu, Quốc hội gần như không hoạt động. Để rồi sau đó bắt đầu đi ngược lại
những gì thiêng liêng mà các đại biểu đã từng gửi gắm trong Hiến pháp 1946: Từ
ngày 1-12 đến ngày 4-12-1953, các đại biểu có mặt ở Việt Bắc được nhóm họp để hợp
thức hóa cuộc “đấu tranh giai cấp” của Đảng bằng việc thông qua Luật Cải cách
ruộng đất. Từ năm 1954, sau khi phê chuẩn Hiệp định Geneva, chia
hai Việt Nam ở Vĩ tuyến 17, Quốc hội Khóa I trở thành Quốc hội của Nhà nước nắm
quyền trên miền Bắc.
Cũng như Xô viết Tối cao của Liên Xô
hay Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc của Trung Quốc, cho dù Hiến pháp vẫn
ghi những quyền hành long trọng, Quốc hội Việt Nam, từ khóa II, chủ yếu thực hiện
ba chức năng: Thể chế hóa hay nói chính xác hơn là hợp thức hóa đường lối chủ
trương của Đảng - chức năng mà Hiến pháp gọi là “lập pháp”; trình diễn sự ủng hộ
nhân danh “của dân” đối với Đảng và Chính phủ; trình diễn khối đại
đoàn kết toàn dân.
Ngoài những đạo luật cơ cấu lại mô
hình nhà nước theo Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 mà Quốc hội Khóa II và Khóa
VII phải làm, từ đầu thập niên 1960 cho đến cuối thập niên 1980 quyền lực công
được vận hành chủ yếu theo mô hình nhà nước Đảng. Quốc hội có rất ít việc phải
“hợp thức hóa”. Các chỉ thị, nghị quyết gần như có hiệu lực thi hành ngay sau
khi được Đảng ban hành.
Chức năng quan trọng nhất của Quốc hội
là nhất trí. Từ khóa VII trở về trước, Quốc hội thường chỉ họp mỗi năm một lần,
mỗi lần chỉ kéo dài từ ba đến bốn ngày. Do tính long trọng của Quốc hội thống
nhất, kỳ họp thứ nhất của khóa VI mới kéo dài chín ngày; kỳ họp thứ nhất của
khóa VII kéo dài mười ngày. Quốc hội Việt Nam cũng có hình thức họp tổ bao gồm
một số đoàn đại biểu - như Xô viết Liên Xô. Ở Quốc hội Việt Nam, thảo luận tổ
lúc đầu chủ yếu giúp phát hiện những ý kiến khác với “tinh thần lãnh đạo” để mà
“chấn chỉnh”. Ở Xô viết Liên Xô thời Stalin, những người phát biểu như thế có
thể bị thanh trừng. Những ai được chọn phát biểu trong các phiên họp toàn thể đều
phải gửi tham luận trước cho Văn phòng, Tổng Thư ký Quốc hội sẽ đọc duyệt, nhằm
đảm bảo không để xuất hiện trên Hội trường những ý kiến “lệch lạc”.
Chức năng trình diễn khối đoàn kết
toàn dân được thể hiện cả bằng xương, bằng thịt: công, nông, binh, dân tộc.
Công nhân, nông dân cơ cấu trong Quốc hội từ khóa VIII trở về trước là theo
nghĩa đen. Có đại biểu Quốc hội là thợ rèn, thợ tiện. Đoàn Thành phố Hồ Chí
Minh còn có đại biểu là một nữ công nhân quét rác. Ông Hồ Giáo, một người chăn
bò nổi tiếng, được đưa vào ngồi trong Quốc hội tới ba khóa liền (IV, V, VI).
Ông Giáo thừa nhận, vốn ít học và những năm ấy vẫn độc thân, nên ông dồn tất cả
tình cảm, tâm trí và sức lực cho những con bò mà ông yêu quý. Những lần đi dự họp
Quốc hội, theo ông Hồ Giáo, ông phải rất gắng gượng, mỗi khi Quốc hội cần ông
lên diễn đàn phát biểu để chụp hình, có người sẽ viết sẵn cho ông bài phát biểu.
Sự chuyển động của Quốc hội - từ vai
trò trang trí cho chế độ đến chỗ trở thành một diễn đàn, nơi các đại biểu có thể
bày tỏ khát khao quyền lực - không nằm ngoài ảnh hưởng của những chính sách đổi
mới trong Đảng, nhưng bản lĩnh của từng cá nhân lãnh đạo Quốc hội đã đóng một
vai trò quyết định.
Từ khóa VII, tuy bầu không khí chính
trị vẫn rất chuyên chính, và chức vụ chủ tịch Quốc hội cũng không có nhiều quyền
lực cả trên thực tế và lý thuyết, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã làm
được một cuộc “cách mạng hình thức” cho Quốc hội. Ngày 24-6-1981, khi nắm quyền
điều khiển kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VII, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã mời các
ủy viên Bộ Chính trị, những người trong các nhiệm kỳ trước vẫn ngự trị trên các
dãy ghế Chủ tịch Đoàn, rời khỏi lễ đài. Quyền chủ trì các phiên họp Quốc hội, từ
hôm đó, được trả lại cho chủ tịch và các phó chủ tịch Quốc hội.
“Cuộc cách mạng” này về sau đã không
chỉ tạo ra sự thay đổi về mặt hình thức. Ngay trong nhiệm kỳ thứ VII, tại kỳ họp
thứ 10 vào cuối năm 1985, Đại biểu Đào Thị Biểu, tỉnh ủy viên Tỉnh Cửu Long,
thay vì đọc bản tham luận được “duyệt” trước, đã “rút từ lưng quần” ra một bài
phát biểu khác, nêu đích danh những cá nhân mà theo bà, phải “chịu trách nhiệm
trước nhân dân” trong vụ “giá - lương - tiền”. Sau tham luận về những sai lầm
trong cải cách ruộng đất của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, bản tham luận của bà Đào Thị Biểu đã đưa “sóng gió” nghị
trường trở lại.
Dù vậy, Quốc hội chỉ bắt đầu trở
thành một diễn đàn kể từ khóa VIII, được bầu vào ngày 19-4-1987, gần bốn tháng
sau Đại hội Đảng lần thứ VI. Ở kỳ họp thứ nhất, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã
làm không ít đồng chí của ông ngạc nhiên khi đưa bà Ngô Bá Thành lên
làm chủ nghiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội. Chức danh chủ nhiệm Ủy ban Pháp
luật Quốc hội được xếp ngạch tương đương hàm bộ trưởng, và bà Thành trở thành
người đầu tiên từng cộng tác với chế độ Sài Gòn đạt được vị trí này.
Sự kiện ba mươi ba đoàn đại biểu Quốc hội, đa số là các đoàn miền Nam, giới thiệu
ông Võ Văn Kiệt ra tranh cử chức chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với ông Đỗ Mười
(tháng 6-1988) dù không trở thành một tiền lệ vẫn cho thấy các đại biểu đã
không còn đến Hội trường Ba Đình để chỉ giơ tay như trước.
Chủ tịch Lê Quang Đạo đã
đóng một vai trò quan trọng trong những bước dân chủ hóa đầu tiên của Quốc hội.
Ông Lê Quang Đạo vốn là trung tướng, phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, nhưng
khi trở thành chủ tịch, ông đã điều hành các phiên họp Quốc hội một cách mềm mỏng
và uyển chuyển. Thay vì đứng trên Quốc hội theo thứ bậc trong Đảng, bằng sự
trung thực và lịch lãm của một nhà cách mạng, ông Đạo giúp các đại biểu có cảm
giác an toàn khi đưa ra ý kiến của mình. Cách điều khiển phiên họp của ông Lê
Quang Đạo đã tạo ra đột phá trong sinh hoạt nghị trường, thu hút được sự chú ý
của công chúng vào Quốc hội.
Lịch sử chất vấn chắc chắn phải được
đánh dấu bởi sự kiện ngày 20-12-1991, ngày làm việc trên hội trường của kỳ họp
thứ 10, Quốc hội khoá VIII. Hôm đó, sau khi đọc xong một bản báo cáo, Bộ trưởng
Tài chính Hoàng Quy đã định xách cặp đi xuống, nhưng Chủ tịch Lê Quang Đạo yêu
cầu ông đứng lại. Cả hội trường xôn xao. Hàng chục đại biểu đưa tay xin đặt câu
hỏi. Cuộc chất vấn trực tiếp đầu tiên của Quốc hội Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã
diễn ra như vậy suốt hai giờ liền.
Sự xuất hiện của ông Vũ Mão vào năm
1987 với vai trò chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước cũng đã tạo
ra những thay đổi không nhỏ trong cơ quan này. Những đóng góp làm
thay đổi Quốc hội của ông Vũ Mão thường bắt đầu từ bản tính thích tìm tòi cái mới
của ông. Trước đây, khi Quốc hội biểu quyết “quyết định những vấn đề lớn của đất
nước”, chủ tịch đoàn kỳ họp chỉ cần hỏi “ai đồng ý giơ tay?” là lập tức cả hội
trường giơ tay; rồi chủ tịch đoàn lại hỏi “ai không đồng ý giơ tay?” là có thể
tuyên bố “một trăm phần trăm” ngay. Nhưng vào cuối thập niên 1980, khi Quốc hội
phải biểu quyết việc chia lại địa giới hành chính của các tỉnh, có những phiên
biểu quyết hàng trăm người giơ tay “không đồng ý”. Trưởng đoàn thư ký, luôn là
ông Vũ Mão, không còn nhàn hạ hô “trăm phần trăm” nữa.
Năm 1989, ông Mão quyết định đặt hàng
bên quân đội thiết kế cho Quốc hội máy đếm khi biểu quyết. Chiếc máy đếm đầu
tiên mà Quốc hội Việt Nam sử dụng chỉ có hai nút, “đồng ý” và “không đồng ý”.
Những con số tăng, giảm, ngập ngừng trên bảng điện đã tạo thêm kịch tính cho hoạt
động Quốc hội. Đầu thập niên 1990 tranh luận xuất hiện thường xuyên hơn trên diễn
đàn, nhất là thời gian Quốc hội thông qua hiến pháp.
Cũng thời gian đó, khi thăm Nghị viện
Đài Loan, ông Vũ Mão “phát hiện” máy đếm của họ có ba nút: “đồng ý”, “không đồng
ý” và “không biểu quyết”. Theo ông Nguyễn Sỹ Dũng người tháp tùng ông Mão trong
chuyến đi này, ông Vũ Mão quyết định thiết kế máy biểu quyết mới “theo chuẩn quốc
tế”. Nhưng trên ông Vũ Mão lúc đó còn có một chức danh trung gian: tổng thư ký
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Nắm chức vụ này lúc bấy giờ là ông Nguyễn Việt
Dũng, một con người cực kỳ nguyên tắc. Trước một chuyến công tác,
ông Vũ Mão giao cho Thư ký Nguyễn Sỹ Dũng phải thuyết phục ông Nguyễn Việt
Dũng.
Thay vì gặp tổng thư ký, ông Sỹ Dũng
thảo một tờ trình để một phó chủ nhiệm Văn phòng ký đưa thẳng lên chủ tịch Quốc
hội. Ông Lê Quang Đạo nhất trí liền. Nhưng để lệnh của chủ tịch có thể thi
hành, vẫn phải qua tổng thư ký. Ông Sỹ Dũng lại phải đi gặp ông Việt Dũng. Vừa
nghe tới cái nút thứ ba, “không biểu quyết”, ông Việt Dũng nói: “Không được, đã
là đảng viên thì chính kiến phải rõ ràng”. Ông Sỹ Dũng thuyết phục: “Không nên
đẩy những người đang cân nhắc vào thế phải ủng hộ hay chống. Cháu vẫn cho rằng
những người không biểu quyết vẫn tích cực hơn là chống ạ”. Ông Việt Dũng: “Mày
mới về đây, biết gì”. Ông Sỹ Dũng đành nói thẳng: “Thưa bác, Chủ tịch Lê Quang
Đạo đã đồng ý rồi”. Phàm là những người nguyên tắc thì nguyên tắc quan trọng nhất
mà họ tuân thủ là cấp trên, nghe tới đó, ông Việt Dũng nói: “Chủ tịch đã đồng ý
thì cứ thế mà làm”.
Khi mới về Văn phòng, ông Nguyễn Sỹ
Dũng tìm thấy trong đống thư từ có một bức thư của Liên minh Quốc hội Thế giới
gửi cho quốc hội các nước giới thiệu chương trình tài trợ giúp “nâng cao năng lực
các thiết chế dân chủ”. Nguyễn Sỹ Dũng xin phép ông Vũ Mão cho “mở
rộng hợp tác quốc tế”, ông Vũ Mão đồng ý. Ông Dũng soạn một lá thư đứng tên bà
Nguyễn Thị Bình, chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội. Bức thư được bà Bình ký gửi
đi. Mấy tháng sau, Liên minh Quốc hội Thế giới cử ông Martin Chungong, một
chuyên gia người châu Phi tới Việt Nam.
Chương trình hợp tác đầu tiên ký với
tổ chức này đã giúp Văn phòng Quốc hội lập mạng máy tính và lắp đặt phần mềm
ghi tốc ký biên bản. Quốc hội trở thành cơ quan nhà nước đầu tiên sử dụng máy
tính ở Việt Nam, và kể từ lúc đó, từng lời phát biểu trên hội trường của các đại
biểu được ghi lại và lưu trữ. Từ năm 1993, Văn phòng Quốc hội bắt đầu tiếp nhận
sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế thông qua các hoạt động hợp tác: dự án nâng
cao năng lực các thiết chế dân chủ của Liên minh Quốc hội Thế giới, các dự án
nâng cao năng lực thể chế của UNDP, dự án hỗ trợ các cơ quan dân cử của Đan Mạch,
dự án phát triển thông tin công chúng và năng lực giám sát của Thụy Điển.
Tiến trình này đã ảnh hưởng sâu sắc tới
Quốc hội Việt Nam. Toàn bộ các khái niệm truyền thống và hiện đại về nghị viện,
về thông tin công chúng, kiến thức chuyên sâu về công cụ và hiệu năng giám sát
của Quốc hội, kiến thức căn bản về lập pháp, về nhà nước pháp quyền, chức năng
đại biểu… đã đến với Quốc hội Việt Nam thông qua các dự án hợp tác quốc tế.
Cuộc chất vấn trực tiếp (Bộ trưởng Tài
chính Hoàng Quy) diễn ra ngày 20-12-1991 sẽ không thu hút sự chú ý của công
chúng như thế nếu ngay sau đó không được tờ Tuổi Trẻ tường thuật chi tiết. Phản
ứng của bạn đọc với những bài tường thuật Quốc hội, bắt đầu trên Tuổi Trẻ, đã
khiến cho báo chí thay đổi cách tiếp cận các sự kiện diễn ra ở Hà Nội. Thay vì
dùng những bản tin công thức của Thông tấn xã hoặc của báo Nhân Dân, các báo -
đặc biệt là báo chí Sài Gòn - bắt đầu gửi phóng viên về Thủ đô. Chính trị không
còn là một đề tài tẻ nhạt, số lượng phát hành của những tờ báo như Tuổi Trẻ,
Thanh Niên, Người Lao Động… đã tăng rõ rệt mỗi kỳ Quốc hội họp.
Nhưng báo chí chỉ thực sự khiến cho
Quốc hội tạo được ảnh hưởng trong đời sống chính trị của Việt Nam khi các phiên
chất vấn và sau đó là các phiên thảo luận về tình hình kinh tế xã hội bắt đầu
được truyền hình trực tiếp. Ý tưởng truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn được
ông Vũ Mão đề xuất áp dụng vào năm 1998. Ủy ban Thường vụ Quốc hội sau khi thảo
luận đã đồng ý với đề nghị này.
Ở thời điểm ấy, đó là một sáng kiến
chính trị táo bạo. Thường vụ quyết định phải báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị.
Sau khi cân nhắc, Bộ Chính trị chấp nhận. Tuy nhiên, khi đảng đoàn Quốc hội họp
với Ban Cán sự Đảng của Chính phủ để chính thức triển khai, Ban Cán sự Đảng của
Chính phủ đã không đồng ý. Cận ngày chất vấn, việc truyền hình trực tiếp hay
không vẫn còn ý kiến đôi co. Tuy nhiên, ông Vũ Mão vẫn triển khai kế hoạch với
Đài Truyền hình Trung ương.
Sự việc có nguy cơ bất thành khi ông
trưởng Ban Văn hóa - Tư tưởng Trung ương gặp ông An Duyệt, phó Ban Thời sự VTV,
nói: “Không nên! Truyền hình trực tiếp chất vấn và trực tiếp trả lời chất vấn dễ
làm lộ bí mật và dễ làm mất uy tín cán bộ lãnh đạo”. An Duyệt, người phụ trách
nhóm làm truyền hình trực tiếp, vội vàng chạy đến gặp ông Mão, trưởng đoàn thư
ký kỳ họp. Vũ Mão kiên quyết: “Tôi nói với các bạn là Bộ Chính trị đã cho phép,
cứ làm”. Nhưng sau đó ông trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa vẫn giữ thái độ kiên
quyết với ông An Duyệt: “Đã nói rồi, các cậu làm mà xảy ra chuyện gì thì các cậu
phải chịu trách nhiệm”. Trưa hôm đó, ông Vũ Mão cùng An Duyệt phải đến xin ý kiến
Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh và Thủ tướng Phan Văn Khải.
Cả Thủ tướng lẫn Chủ tịch Quốc hội đều
e ngại. Chủ tịch Nông Đức Mạnh nói: “Hay là Đài Truyền hình vẫn cứ ghi hình
toàn bộ phiên chất vấn, sau đó rà lại, bỏ bớt những chỗ gay cấn, phức tạp, đến
tối mới đưa lên để nhân dân xem”. Ông Vũ Mão trấn an: “Mọi việc đã được chuẩn bị
chu đáo, với lại, việc truyền hình trực tiếp đã được thông báo rộng rãi, nhân
dân đang chờ, sẽ khó giải thích nếu không có lý do gì mà việc truyền hình trực
tiếp lại không được thực hiện”. Ông Mạnh im lặng, ông Vũ Mão yêu cầu ông An Duyệt
tiến hành. Từ ngày 14-5-1998, các phiên chất vấn của Quốc hội đều được Đài Truyền
hình Việt Nam truyền hình trực tiếp.
Người nhận được nhiều lợi ích chính
trị nhất từ hoạt động này không phải là ông Vũ Mão mà chính là Chủ tịch Quốc hội
Nông Đức Mạnh. Đóng góp lớn nhất của ông Nông Đức Mạnh nằm ở chỗ ông không đủ sức
để cản trở các sáng kiến cải cách. Khi điều khiển các phiên họp, ông Mạnh cũng
không tham gia vào nội dung và không ngắt lời các đại biểu. Không khí tranh luận,
vì thế, diễn ra có vẻ dân chủ hơn. Ông Mạnh đã điều hành nghị trường Việt Nam
giống như một người phát ngôn (speaker) trong quốc hội của quốc gia dân chủ.
Hình ảnh ông Mạnh, tóc tai chải chuốt, ăn nói mềm mỏng và đôi khi đột nhiên lóe
sáng trước ống kính truyền hình dần dần được công chúng thừa nhận
như là một nhà lãnh đạo.
Người kế nhiệm, ông Nguyễn Văn An,
thì hoàn toàn ngược lại. Ông Nguyễn Văn An ý thức khá rõ vai trò của truyền
hình. Ông là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên của Việt Nam sử dụng email và thường
xuyên truy cập thông tin trên internet. Các phiên chất vấn mà ông An chủ trì trở
nên căng thẳng hơn vì ông thường can thiệp vào nội dung, đôi khi tỏ thái độ gay
gắt với các bộ trưởng.
Cuối các phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc
hội Nguyễn Văn An đều có một văn bản kết luận, đánh giá trả lời chất vấn của
các thành viên Chính phủ. Chủ tịch nghị viện của các quốc gia dân chủ không điều
hành quốc hội theo cách của ông Nguyễn Văn An, nhưng ở Việt Nam thì có vẻ như
ông đã thành công. Cách điều hành của ông An làm cho chủ tịch Quốc hội trở nên
quyền lực hơn. Các thành viên chính phủ ý thức được sinh mệnh chính trị của họ
có thể bị lung lay nếu ông An muốn.
Trong năm đầu nhiệm kỳ của ông Nguyễn
Văn An, tháng 11-2001, Quốc hội đã sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội, trong đó có đề
cập đến quyền bỏ phiếu tín nhiệm “những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn” như chủ tịch nước, thủ tướng, viện trưởng Viện Kiểm sát Tối
cao, chánh án Tòa án Tối cao và các bộ trưởng. Nhưng quy trình được thiết kế
trong Luật đã khiến cho quyền này không thể thực hiện.
Sau Hiến pháp 1992, mô hình “Nhà nước
Đảng” đã không còn vận hành một cách công khai. Quyền lực thực tế lặng lẽ lùi
vào phía sau, Quốc hội trở thành nơi bộc lộ những xung đột và đôi khi trở thành
công cụ giải quyết xung đột quyền lực của các bên. Việc tiếp cận với các khái
niệm phổ quát và nhận thức được vai trò chung của nghị viện cũng làm thay đổi
nhận thức của một số cá nhân, nhất là khi trong Quốc hội bắt đầu có nhiều người
chuyên trách.
Khái niệm “quốc hội chuyên nghiệp” được
Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh đặt ra trước và trong thời gian thảo
luận Hiến pháp 1992 một cách công khai. Như các đề nghị về “tam
quyền phân lập” hay cho tư nhân sở hữu đất đai, ý tưởng chuyên nghiệp hóa quốc
hội đã không được chấp nhận.
Tháng 4-1992, khi thông qua Luật Tổ
chức Quốc hội, Quốc hội khóa VIII đã đưa vấn đề chuyên trách vào Luật một cách
dè dặt: “Trong số các đại biểu Quốc hội, có những đại biểu làm việc theo chế độ
chuyên trách và có những đại biểu làm việc theo chế độ không chuyên trách. Số
lượng đại biểu Quốc hội làm việc chuyên trách do Quốc hội quyết định”. Số lượng
đại biểu chuyên trách làm việc thường xuyên ở 35 Ngô Quyền từ đó chỉ tăng lên
nhỏ giọt.
Tháng 8-1999, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII họp lần thứ 7, đưa vào Nghị quyết một câu ngắn trong phần
nói về tổ chức bộ máy của Quốc hội: “Từng bước tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội
chuyên trách”. Năm 2001, tại kỳ họp thứ 10, Luật Tổ chức Quốc hội được sửa,
theo đó: “Số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách có ít nhất là 25% tổng
số đại biểu”.
Chủ trương cơ cấu 25% đại biểu chuyên
trách, đã làm thay đổi không ít số phận cán bộ. Tiến sĩ Trịnh Huy Quách, khi
đang làm thư ký cho Chủ tịch Nông Đức Mạnh, thường vẫn đi từ nhà riêng ở phía Hồ
Tây đến 35 Ngô Quyền bằng xe đạp. Ngày 31-7-2002, ông được bầu làm phó chủ nhiệm
Ủy ban Kinh tế và Ngân sách. Từ cán bộ có hàm cấp vụ lên cấp thứ trưởng, từ
sáng sớm ngày 1-8-2002, trước nhà ông Quách bắt đầu có một chiếc xe hơi mang biển
xanh 80B đậu chờ đưa rước. Tuy nhiên, với những cán bộ đang ở các vị trí quyền
lực thì việc bị đưa sang làm chuyên trách Quốc hội cũng giống như bị đặt vào thế
“dự bị hưu” trừ khi họ ý thức được tầm quan trọng của vai trò mới.
Đại biểu chuyên trách Nguyễn Minh
Thuyết đã đi vào lịch sử giám sát của Quốc hội khi ngày 1-11-2010 công khai đưa
ra đề nghị thành lập ủy ban độc lập điều tra để bỏ phiếu tín nhiệm thủ tướng.
Nếu như câu chuyện của bà Đào Thị Biểu chỉ được nhắc lại sau hàng chục năm, thì
đề nghị của ông Nguyễn Minh Thuyết ngay lập tức được truyền hình trực tiếp. Cho
dù đề nghị của ông bị bác, ảnh hưởng chính trị của nó có sức lan
tỏa ngay.
Nhưng những đại biểu như Giáo sư Nguyễn
Minh Thuyết ngay sau đó đã không được cơ cấu lại. Sau mỗi nhiệm kỳ, chỉ có trên
dưới 30% số đại biểu đương nhiệm được Đảng phân công ra ứng cử. Nguyên tắc một
người không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ lẽ ra chỉ áp dụng cho các chức
danh hành pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng cho cả những cán bộ dân cử có
thể dẫn sự đổi mới của Quốc hội đi “quá đà”.
Nhiều đại biểu, đầu nhiệm kỳ chưa biết
nghị trường là gì, cuối nhiệm kỳ bắt đầu quen việc và có tiếng nói độc lập thì
không còn được ra ứng cử nữa. Thất thoát thể chế rất lớn. Cứ mỗi đầu nhiệm kỳ,
Quốc hội lại phải tổ chức các lớp dạy các ông nghị cách làm đại biểu trong khi
những đại biểu rành rẽ công việc lập pháp và giám sát thì bị loại dần ra khỏi
nghị trường.
Thủ tướng và “người đứng
đầu”
Tháng 8-1991, ông Võ Văn Kiệt được bầu
giữ chức chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Chính phủ của ông khi ấy vẫn hình thành dựa
trên nguyên tắc của Hiến pháp 1980. Nhưng, thay vì giữ sáu phó chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng như kế thừa, ông Kiệt chỉ đề cử ba phó chủ tịch.
Ngay sau khi được Quốc hội bầu, chiều
ngày 9-8-1991, ông Võ Văn Kiệt giải thích: “Đây là hướng đổi mới về tổ chức nhà
nước nói chung và tổ chức chính phủ nói riêng. Hội đồng Bộ trưởng bớt các phó
chủ tịch, bộ bớt các thứ trưởng, ban bớt các phó ban… để làm sao tập trung
trách nhiệm của người đứng đầu”. Đây là mô hình mà theo ông Kiệt
sẽ từng bước được áp dụng ở các địa phương. Lúc ấy, ông Kiệt tỏ
ra rất lạc quan: “Một khi đã phân định rõ quản lý nhà nước bằng pháp luật, phân
định rõ trách nhiệm của trung ương, địa phương thì số cấp phó không chỉ là ba
mà có khi chỉ cần một là đủ”.
Ông Võ Văn Kiệt đã hình thành bộ máy
“Hội đồng Bộ trưởng” theo phương án chính phủ mà thủ tướng có vai trò như người
đứng đầu, trong khi ở thời điểm ấy Ban Soạn thảo Hiến pháp vẫn thiết kế mô hình
nhà nước với nhiều phương án.
Dự thảo I đã từng thiết kế định chế
chủ tịch nước với những quyền hạn gần như chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946. Quốc
hội theo Dự thảo này không có cơ quan thường vụ - hội đồng nhà nước, đoàn chủ tịch
hay ủy ban thường vụ. Dự thảo I cũng quy định rõ lượng đại biểu chuyên trách ở
Hội đồng Dân tộc là 1/3, ở các ủy ban là 1/2; bỏ hội đồng nhân dân ở các quận,
huyện, phường và thị xã. Tháng 5-1991, Dự thảo I được đưa ra lấy ý kiến cán bộ
trung, cao cấp. Tuy phương án nguyên thủ một người không bị bác hẳn, nhưng,
trong Dự thảo II, được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công trình bày ngày
27-7-1991 trước kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khóa VIII, Ban Soạn thảo đã phải đưa
thêm phương án nguyên thủ tập thể: đoàn chủ tịch quốc hội.
Quốc hội đã dành trọn ngày 1-8-1991 để
thảo luận về Dự thảo II. Chỉ có bốn ý kiến đồng ý với phương án II vì cho rằng
không nên tập trung quyền vào tay một người, trong khi tám ý kiến khác phát biểu
trong phiên họp toàn thể đều tán dương phương án I. Các đại biểu cho rằng cơ chế
tập thể được áp dụng quá nhiều, đã có Quốc hội giám sát nên không lo cá nhân lạm
quyền. Phương án lập chính phủ thay cho Hội đồng Bộ trưởng được ủng
hộ cao, nhiều đại biểu còn đề nghị tăng cường trung ương tập quyền bằng cách để
thủ tướng bổ nhiệm chủ tịch ủy ban hành chính tỉnh thành, chủ tịch cấp trên bổ
nhiệm chủ tịch ủy ban cấp dưới.
Ngày 29-11-1991, tại Hội nghị Trung
ương 2, Ủy ban Sửa đổi Hiến pháp kiến nghị lập thiết chế chính phủ và thủ tướng
chính phủ thay cho hội đồng bộ trưởng. Hiến pháp trao cho thủ tướng đủ quyền hạn
để thực thi nhiệm vụ, trong đó có quyền lựa chọn bộ trưởng đề nghị Quốc hội phê
chuẩn, bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp theo đề
nghị của hội đồng nhân dân cùng cấp, và thống nhất điều hành bộ máy hành chính
nhà nước thông suốt từ trung ương đến cơ sở.
Hội nghị Trung ương 2 đã đồng ý với đề
nghị này của Ủy ban Sửa đổi Hiến pháp nên trong bản Dự thảo III công bố lấy “ý
kiến nhân dân” ngày 30-12-1991, phương án chính phủ đã được đưa ra để thay thế
hội đồng bộ trưởng, thủ tướng được dự kiến trao cho nhiều quyền hơn. Quốc hội
chỉ bầu thủ tướng còn các phó thủ tướng và bộ trưởng thì quốc hội không bầu mà
phê chuẩn theo đề nghị của thủ tướng. Thủ tướng còn có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm
các thứ trưởng, bổ nhiệm miễn nhiệm và điều động chủ tịch, các phó chủ tịch ủy
ban hành chính cấp tỉnh, thành. Hội đồng nhân dân các cấp chỉ còn là cơ quan đại
biểu của dân thay vì là cơ quan quyền lực cao nhất tại địa phương…
Trong Dự thảo IV được Ủy ban Sửa đổi
Hiến pháp gửi tới các đại biểu Quốc hội vào ngày 14-3-1992, định chế chủ tịch
nước đã được đưa vào phương án chính thức, trong khi, quốc hội có một cơ quan
thường trực là ủy ban thường vụ. Định chế hội đồng nhà nước vẫn được đưa vào
như một phương án phụ để Quốc hội thảo luận. Mô hình chính phủ và quyền hạn của
thủ tướng được giữ như Dự thảo III nhưng thủ tướng chỉ phê chuẩn kết quả bầu chủ
tịch ủy ban tỉnh thành của hội đồng nhân dân thay vì bổ nhiệm. Đây là phương án
đã được đưa vào hiến pháp. Mô hình chính phủ còn tiếp tục được điều chỉnh chỉ một
thời gian ngắn sau khi Hiến pháp 1992 có hiệu lực.
Các cơ quan chính phủ thời Thủ tướng
Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải đều được chuyển dần từ vai trò cơ quan
chủ quản, trông coi sản xuất kinh doanh của khối quốc doanh, sang vai trò quản
lý nhà nước với tất cả các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, cả hai ông đều
chưa tách bạch được chức năng hành pháp chính trị với hành chính công vụ. Cải
cách hành chính vì thế không thể đi tới tận cùng, bộ máy các bộ ngành tuy có sắp
xếp lại, có giảm về đầu mối vẫn cứ lần lượt phình ra.
Biên chế tăng một phần là do kinh tế
phát triển, nhu cầu hành chính trong xã hội tăng, nhưng chủ yếu do các bộ ngành
vẫn bám giữ các đặc quyền nhà nước thông qua việc duy trì các thủ tục. Cho dù
xây dựng kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với
người dân và doanh nghiệp vẫn là mối quan hệ “xin - cho”.
Chia tỉnh
Ngay trong giai đoạn “tiền hiến
pháp”, địa giới hành chính hình thành dưới thời Tổng Bí thư Lê Duẩn đã bắt đầu
bị phá vỡ. Các địa phương gây áp lực rất lớn để đòi chia tỉnh.
Gần năm tháng sau khi Sài Gòn sụp đổ,
ngày 20-9-1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 245, quyết định sáp nhập năm mươi
hai tỉnh nhỏ với nhau thành hai mươi mốt tỉnh lớn, “nhằm xây dựng tỉnh thành những
đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức
cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân”.
Ở miền Nam, có nơi ba,
bốn tỉnh bị yêu cầu nhập lại làm một như: Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà
Vinh; Long Châu Tiền, Sa Đéc, Kiến Tường, Mỹ Tho, Gò Công, Long An, Bến Tre. Ở
miền Trung, Quảng Bình - một tỉnh Bắc giới tuyến - bị nhập với Thừa Thiên và Quảng
Trị. Ở miền Bắc, Yên Bái, Lào Cai cũng bị yêu cầu nhập với Nghĩa Lộ… Tuy nhiên,
tiến trình thi hành Nghị quyết 245 diễn ra không đơn giản. Năm 1976, việc phân
chia lại địa giới hành chính mới chính thức bắt đầu, theo đó, thay vì hợp thành
ba mươi ba tỉnh, thành như Nghị quyết 245, số tỉnh, thành mới là ba mươi chín.
Không đợi đến khi công cuộc làm ăn lớn
nhằm “đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội” thất bại, ngày
29-12-1978, trước khi cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc nổ ra, tỉnh Cao
Lạng đã được tách về như cũ thành hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Sau Đại hội Đảng
lần thứ VI, không khí Bình Trị Thiên dân Huế than: “Ơi Huế của ta, hai phần ba
là Quảng Trị…”. Ở Nghệ Tĩnh dân Hà Tĩnh nói: “Nhập tỉnh cũng Vinh dự, tách tỉnh
cũng Vinh dự”.
Trung ương buộc phải chấp nhận tách
các tỉnh ra “cho phù hợp với trình độ quản lý”. Ngày 30-6-1989, Quốc hội biểu
quyết: tách Bình Trị Thiên về như cũ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế;
tách Nghĩa Bình thành Quảng Ngãi và Bình Định; tách Phú Khánh thành Phú Yên và
Khánh Hòa. Từ ba mươi chín tỉnh thành, năm 1989, cả nước có bốn mươi bốn tỉnh
thành. Nhưng địa phương nào cũng chất chứa các vấn đề nội bộ, các tỉnh tách đợt
đầu đã tạo ra phản ứng dây chuyền.
Trong năm 1991, có tới ba đợt tách tỉnh:
Ngày 12-8-1991, Hà Sơn Bình được tách ra thành Hà Tây và Hòa Bình; Gia Lai-Kon
Tum được tách ra thành Gia Lai và Kon Tum. Tháng 10-1991, Hoàng Liên Sơn được
tách thành Lào Cai và Yên Bái; Hà Tuyên được tách thành Tuyên Quang và Hà
Giang. Ngày 26-12-1991, Hà Nam Ninh tách thành Nam Hà và Ninh Bình; Thuận Hải
được tách thành Bình Thuận và Ninh Thuận; Cửu Long được tách thành Vĩnh Long và
Trà Vinh; Hậu Giang được tách thành Cần Thơ và Sóc Trăng. Số địa phương năm
1991 là năm mươi ba.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, ngày
6-11-1996, lại thêm một đợt tách tỉnh khác: Bắc Thái được tách thành Bắc Cạn và
Thái Nguyên; Hà Bắc được tách thành Bắc Giang và Bắc Ninh; Nam Hà được tách
thành Hà Nam và Nam Định; Quảng Đà được tách thành Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng;
Minh Hải được tách thành Bạc Liêu và Cà Mau. Cuối kỳ họp này, ngày 26-11-1996,
Quốc hội phải bỏ phiếu lại để tách Vĩnh Phú thành Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
Đầu năm 1997, Sông Bé được tách thành
Bình Dương và Bình Phước; Hải Hưng được tách thành Hải Dương và Hưng Yên. Số tỉnh
thành cả nước tăng lên sáu mươi mốt. Ngày 1-1-2004, tách luôn hai tỉnh còn lại:
Lai Châu thành Lai Châu và Điện Biên; Đăk Lăk thành Đăk Lăk và Đăk Nông. Nhưng
cơ cấu hành chính không dừng lại con số của năm 1997 với sáu mươi bốn tỉnh
thành.
“Công nông hoá” tư pháp
Chiều ngày 5-10-1992, Quốc hội đã quyết
định để Bộ Tư pháp phối hợp với Tòa tối cao quản lý tòa địa phương về mặt tổ chức
với 292 phiếu thuận, 71 phiếu chống, sau hai ngày tranh luận gay gắt về hai
phương án: Bộ Tư pháp phối hợp với Tòa án Nhân dân Tối cao quản lý tòa địa
phương hay để cho Tòa án Tối cao quản lý tòa theo ngành dọc.
Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Phạm
Hưng ủng hộ phương án hai và có ý chỉ trích ngành tư pháp, nơi soạn thảo Dự luật
Tổ chức Tòa án, tự trao cho mình quyền quản lý các tòa cấp dưới. Nhưng, Bộ trưởng
Nguyễn Đình Lộc cho rằng, tòa án không phải là một cơ quan hành chính để cấp
trên quản lý cấp dưới mà là một cơ quan xét xử. Theo ông, việc tòa án cấp dưới
phụ thuộc tòa án cấp trên về mặt tổ chức là nguyên nhân nảy sinh hiện tượng thỉnh
thị án, hiện tượng các thẩm phán khi xét xử đã có sẵn bản án bỏ túi.
Một “sách trắng” mà Bộ Tư pháp gửi đến
các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp đó cho biết: Nhiều tòa án cấp tỉnh đã xếp lịch
cụ thể để lên thỉnh thị án. Năm 1988, do tòa hình sự Tòa án Nhân dân Tối cao có
văn bản chỉ thị tòa án Hà Nam Ninh xử một bị cáo năm năm tù mà bị cáo này đã bị
ức chế, dùng súng bắn hai cán bộ tòa án rồi tự sát.
Những nỗ lực của Bộ trưởng Nguyễn
Đình Lộc có tác động đáng kể đến cải cách tư pháp thời thập niên 1990. Tuy
nhiên, một mặt do tư pháp Việt Nam không chỉ lệ thuộc vào mô hình mà nó được
thiết kế, mặt khác, ngay từ lúc ban sơ, “tam quyền phân lập” đã không được những
người khai sinh chính thể “dân chủ cộng hòa” tán thành, nên cũng như những quyền
tự do khác, quyền được thụ hưởng công lý của người Việt Nam đã không được mở ra
đúng mức.
Trong quá trình hình thành Hiến pháp
1946, trong nội bộ Ban Dự thảo và trên báo chí đã từng có nhiều cuộc tranh luận.
Theo Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hòe, Hồ Chí Minh không đánh giá cao mô hình nhà
nước theo kiểu tam quyền phân lập. Ông muốn dùng kinh nghiệm xây dựng chính quyền
nhân dân trong các căn cứ địa, muốn tập trung cả ba quyền cho cơ quan đại diện
của toàn dân. Hồ Chí Minh cho rằng các nhánh quyền không cần giám sát lẫn nhau
vì mặt trận vừa là một cơ quan giám sát vừa là chỗ dựa cho nhà nước.
Tòa án bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam với
tư cách là một nhánh quyền lực độc lập kể từ khi người Pháp thiết lập quyền cai
trị trên các vùng nhượng địa: Nam Kỳ, Đà Nẵng, Hà Nội và Hải Phòng. Việc
xử án, thoạt đầu hoàn toàn do các nhà hành chính người Pháp đảm trách. Kể
từ năm 1921, ở Nam Kỳ, nhiều vị thẩm phán người Việt đã được bổ nhiệm
để xét xử các vụ hình sự đối với các nguyên và bị cáo nói tiếng Việt. Ở
các xứ ngoài Nam Kỳ, bên cạnh các “tòa Nam án” do các quan tỉnh điều khiển
theo tổ chức tư pháp của Triều Nguyễn, có những tòa án Pháp đặt
dưới sự điều khiển của các viên công sứ.
Trong thời kỳ tiền hiến pháp, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13, ngày 24-1-1946, quy định: “Tòa án sẽ độc lập
với các cơ quan hành chính. Các vị thẩm phán sẽ chỉ xử trong vòng pháp luật và
công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào việc tư pháp”. Tư pháp theo
thiết kế của Hiến pháp 1946 cũng “độc lập, chỉ tuân theo pháp luật”. Tuy “các
viên thẩm phán đều do chính phủ bổ nhiệm” cơ quan tư pháp không
thiết lập theo các cấp hành chính như về sau mà thiết lập theo cấp xét xử: toà
án tối cao, các toà án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Tiến trình
xét xử phải theo nguyên tắc: “các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các
cơ quan khác không được can thiệp”. Nhưng, chỉ mấy năm sau đó,
chính Hồ Chí Minh sẽ từ bỏ dần những nguyên tắc này.
Tại “An toàn khu”, theo Bộ trưởng Lê
Văn Hiến: “Vấn đề tư pháp - hành chính lâu nay cứ lủng củng mãi, mỗi bên đều có
sự than phiền. Tư pháp trách hành chính lạm quyền và lộng quyền, bất chấp luật
lệ, nhân tình thế chiến tranh mà thi hành nhiều thủ đoạn tổn thương đến quyền tự
do cá nhân. Hành chính tố cáo tư pháp lợi dụng nguyên tắc độc lập mà đi dần đến
chỗ độc lập với chính quyền, có khi lấy luật pháp để bảo vệ những hành vi phản
động”.
Tháng Giêng 1948, trong một cuộc họp
mở rộng, Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh đã yêu cầu các ngành: “Ra sức trừ bỏ
những tệ như: Việt Minh lấn quyền hành chính… Mặt trận và bộ đội xung đột và tị
nạnh nhau… Kháng chiến kiêm hành chính và chuyên môn (nhất là tư pháp) xung đột
nhau”. Nhưng, khi xung đột tư pháp - hành chính không dừng lại ở
cấp huyện, tỉnh thì chính Hồ Chí Minh cũng phản ứng.
Ngoài xung đột giữa giới tư pháp với
giới hành chính, theo ông Vũ Đình Hòe, khía cạnh sâu sắc hơn còn là xung đột giữa
Đảng và các trí thức, giữa Đảng Cộng sản và những người thuộc hai đảng Xã hội
và Dân chủ. Từ năm 1950, tuy đảng viên Đảng Dân chủ Vũ Đình Hòe vẫn còn là Bộ
trưởng Tư pháp, nhưng quyền lực trên thực tế nằm trong tay Thứ trưởng Trần Công
Tường, một cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản. Không cần trao đổi với bộ trưởng,
ông Tường đã “cùng với chi bộ” của ông chuẩn bị ba dự án sắc lệnh đề cập đến ba
vấn đề thay đổi căn bản nền tư pháp.
Hơn một tháng sau khi “cướp chính quyền”,
ngày 10-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 90, tạm thời áp dụng các
nguyên tắc dân sự ghi trong Dân pháp điển Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Pháp quy
giảm yếu 1883 thi hành ở Nam Kỳ. Theo ông Vũ Đình Hòe, trong quá trình soạn
thảo Hiến pháp 1946, Hồ Chí Minh cũng đã ra lệnh giữ lại các luật lệ của chế độ
cũ không trái với chế độ mới. Nhưng, đến năm 1950, Hồ Chí Minh đã trực tiếp
nghe và đồng ý với đề xuất của ông Trần Công Tường, thiết lập ba nguyên tắc cơ
bản của dân luật dựa trên ba nguyên tắc tương ứng của bộ Dân luật Nga Xô năm
1922, được soạn thảo dưới sự chủ trì của Lenin.
Thay vì tuân thủ nguyên tắc “quyền tư
hữu được nhà nước bảo hộ” theo Hiến pháp 1946, Sắc lệnh 97 của Hồ Chí Minh quy
định rằng: “Các quyền dân sự của công dân chỉ được thực hiện và bảo vệ khi công
dân sử dụng các quyền ấy của mình một cách phù hợp với quyền lợi của nhân dân…
Công dân chỉ hành xử quyền tư hữu trong phạm vi phù hợp… Tòa án nhân dân có thể
hủy bỏ bất kỳ hợp đồng nào ký kết giữa hai công dân, nếu sự chênh lệch quá đáng
về tài sản giữa họ đối với nhau”.
Ông Trần Công Tường còn đề nghị xóa bỏ
chế độ luật sư của Pháp để lại, thay bằng chế độ bào chữa viên nhân dân, để cải
tiến triệt để việc xử án. Trong cuộc họp Chính phủ để trình ba dự án sắc lệnh
này, Bộ trưởng Vũ Đình Hòe đã “bật để cải tiến triệt để việc xử án. Trong cuộc
họp Chính phủ để trình ba dự án sắc lệnh này, Bộ trưởng Vũ Đình Hòe đã “bật SL,
ngày 22-5-1950, quy định “Chế độ hội thẩm nhân dân” do Thứ trưởng Tư pháp Trần
Công Tường đệ trình nhưng vẫn “tán thành ý kiến bổ sung của Bộ trưởng Vũ Đình
Hòe”, không đụng đến Đoàn Luật sư.
Trong thời kỳ tiền Hiến pháp 1959, Quốc
hội đã ra nghị quyết, ngày 29-4-1958, tách hệ thống công tố ra khỏi tòa án để
trở thành bốn cơ quan ngang bộ trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Trong giai đoạn
1945-1958, cơ quan công tố chưa được tổ chức thành một hệ thống riêng mà hợp
cùng với cơ quan xét xử thành tòa án các cấp. Nhiệm vụ của Viện Công tố là điều
tra, truy tố những vụ phạm pháp về hình sự, giám sát việc chấp hành pháp luật
trong công tác điều tra của cơ quan điều tra, trong việc xét xử của tòa án,
trong việc tạm giữ và cải tạo ở các trại giam.
Sau Hiến pháp 1959, hệ thống tòa án
nhân dân và viện kiểm sát nhân dân ra đời, thay vì nằm trong hội đồng chính phủ,
trở thành những cơ quan trực thuộc Quốc hội, ở cấp tỉnh, thành thì trực thuộc hội
đồng nhân dân cùng cấp. Sau Hiến pháp 1959, Bộ Tư pháp bị giải thể. Theo ông
Nguyễn Đình Lộc, ngoài lý do sao chép từ mô hình nhà nước liên bang của Liên
Xô, sự sửa đổi này còn mục tiêu nhắm tới ông Bộ trưởng Vũ Đình Hòe.
Đặc biệt, ngày 17-11-1950, Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh số 158-SL, quyết định việc bổ sung cán bộ công nông vào ngạch
thẩm phán và thăng bổ các thẩm phán tòa án nhân dân huyện lên tòa án nhân dân tỉnh.
Từ đây, trường luật Tam Đảo lập ra theo chủ trương của ông Vũ Đình Hòe nhằm đào
tạo các thẩm phán đệ nhị cấp đã bị đóng cửa vì theo ông Hòe: “Chủ trương đào tạo
thẩm phán chuyên môn đương nhiên là bị Đảng đoàn Tư pháp gạt bỏ vì người cộng sản
coi chính trị là thống soái, nên chỉ cần đề bạt cán bộ công nông là đủ giải quyết
vấn đề cán bộ tư pháp”.
Từ đây, theo ông Vũ Đình Hòe: “các thẩm
phán huyện, đa số là đảng viên cộng sản, chỉ qua lớp chính trị và nghiệp vụ”.
Quan điểm lựa chọn thẩm phán chủ yếu “đứng trên lập trường nhân dân” của Hồ Chí
Minh đã ảnh hưởng lâu dài đến nền tư pháp Việt Nam. Trong giai đoạn 1960-1970,
khi vai trò của Nhà nước bị lu mờ trước vai trò của Đảng, sự sa sút về chất lượng
của đội ngũ thẩm phán và tính thiếu độc lập của tòa án ít được chú ý. Nhưng, từ
cuối thập niên 1980, điều này bắt đầu trở thành một vấn đề lớn.
Theo một báo cáo của Bộ Tư pháp tại kỳ
họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX: Năm 1981, chỉ có 3% cán bộ tòa án cấp tỉnh, huyện
có trình độ đại học. Năm 1991 số thẩm phán có trình độ đại học được nâng lên ở
mức 50% nhưng thẩm phán cấp quận huyện cũng chỉ 41% có trình độ đại học, trong
đó nhiều người tốt nghiệp hệ tại chức. Cũng trong kỳ họp đó, Đại biểu Quốc hội
Hoàng Ngọc Nhất, giám đốc Công an Thanh Hóa, nêu tình trạng thẩm phán, người
nhân danh Nhà nước, nhân danh pháp luật, lại không có hiểu biết về luật bằng
người bảo vệ các bị cáo: luật sư. Ông Nhất nói: “Có phiên tòa, bị cáo còn thuộc
luật hơn cả thẩm phán”. Trình độ thẩm phán càng thấp tòa án càng lệ thuộc lớn
vào cấp ủy. Chính báo Nhân Dân cũng phải thừa nhận ở tòa, các thẩm phán thường
chỉ đưa ra các bản án đã được cấp ủy xử trước; những người muốn độc lập với cấp
ủy thường phải gánh chịu hậu quả, có khi là mất việc.
Đầu thập niên 1990, Đảng bắt đầu chấn
chỉnh tình trạng cấp ủy can thiệp thô bạo vào các bản án. Nhưng, đối với những
bản án có ảnh hưởng lớn, Đảng vẫn cho rằng, “cấp ủy cần tham gia ý kiến về quan
điểm xét xử làm cơ sở cho việc quyết định của cơ quan kiểm sát và tòa án”.
Chất lượng tòa án cho đến lúc bấy giờ vẫn lệ thuộc vào “tính chất công nông” nằm
ở trong số đông của đội ngũ. Ngày 5-12-1997, Đại biểu Hoàng Ngọc Thành, Lào
Cai, nói trước Quốc hội: “Tỉnh tôi có bảy thẩm phán thì năm thẩm phán có trình
độ từ lớp 2-3”. Đại biểu Đặng Thanh Hương cho biết thêm: “Có chánh án chỉ tốt
nghiệp cấp I”.
Chất lượng xét xử, buộc tội thấp đến
nỗi, thời gian ấy, tòa án tỉnh phải hủy khoảng 10% án do tòa huyện xử; Tòa tối
cao hủy 6,9% án của tòa tỉnh. Cũng trong phiên họp ngày 5-12-1997, ông Vũ Đức
Khiển, chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho Quốc hội biết: Chỉ có 1/3 tổng số người bị
bắt trong mười tháng đầu năm 1997 là bắt theo lệnh có phê chuẩn của Viện Kiểm
sát, số còn lại chủ yếu bắt khẩn cấp, bắt quả tang; có tới 18.197 người bị bắt
nhưng rồi phải xử lý hành chính, chiếm 30,26%. Tình trạng này vẫn chưa được cải
thiện nhiều trong thập niên kế tiếp.
“Bỏ Điều 4 là tự sát”
Trong chế độ cộng sản, cho dù bộ máy
nhà nước tổ chức theo lý thuyết nào thì quyền lực cũng chỉ tập trung vào một
nơi: Đảng.
Ngày 10-9-1980, khi phát biểu trước
phiên họp “xem xét bản dự thảo hiến pháp” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IV, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: “Đảng cầm quyền phải biết sử dụng Nhà nước,
coi đó là một công cụ hùng mạnh và sắc bén để thực hiện quyền làm chủ thực sự của
nhân dân và sự lãnh đạo của Đảng trên quy mô toàn xã hội”. Trong
hai mệnh đề mà ông Lê Duẩn đề cập, nếu như quyền làm chủ thực sự của nhân dân
là rất mông lung thì sự lãnh đạo của Đảng quả thực là đã ngự trị trên “quy mô
toàn xã hội”.
“Công lao” của Đảng Cộng sản Việt Nam
bắt đầu được ghi trong hiến pháp từ năm 1959. Lời nói đầu của Hiến
pháp 1980 nói thêm: “Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cần có một bản hiến
pháp thể chế hoá đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó
là hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước”. Điều
4, Hiến pháp 1980, ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác -
Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ
yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Tuy không dịch nguyên
văn, nhưng theo ông Nguyễn Đình Lộc, Điều 4 Hiến pháp 1980 được mô phỏng từ Điều
6 Hiến pháp 1977 của Liên Xô.
Ngày 12-12-1980, khi báo cáo trước Quốc
hội, Chủ tịch Ủy ban Dự thảo hiến pháp Trường Chinh giải thích về vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo ông: “Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản… Nhà nước chuyên chính vô sản chỉ có
thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp
công nhân”. Báo cáo của ông Trường Chinh nói tiếp: “Vai trò lãnh đạo của Đảng
được ghi nhận với tinh thần và lời văn trang trọng như vậy là rất có ý nghĩa. Với
Điều 4, Dự thảo Hiến pháp khẳng định công lao to lớn của Đảng ta…; thể hiện
tình cảm sâu đậm của nhân dân cả nước đối với Đảng và đáp ứng yêu cầu tăng cường
sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong tình hình mới”.
Trước đó, ngày 10-9-1980, Tổng Bí thư
Lê Duẩn định nghĩa: “Nhà nước chuyên chính vô sản là nơi biểu hiện tập trung sự
lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”.
Trên thực tế, đây là một giai đoạn mà các hoạt động của Đảng là bao trùm. Suốt
cả nhiệm kỳ, Quốc hội khóa VII không ban hành bất cứ đạo luật nào trừ Hiến pháp
1980. Đất nước chủ yếu vận hành theo các chỉ thị, nghị quyết của các cấp ủy Đảng.
Tại Hội nghị Trung ương 25, khóa III,
ông Lê Duẩn đưa ra mô hình chính trị: “Đảng và Nhà nước dính nhau làm một. Ở
trung ương, thủ tướng là của Nhà nước, đồng thời là của Đảng, là Ủy viên Bộ
Chính trị, bộ trưởng cũng thế… Nhà nước làm là Đảng làm. Ví dụ, Đảng làm thủy lợi
qua bộ trưởng Thủy lợi, qua Bộ Thủy lợi chứ không qua một tổ chức khác”.
Trong thời gian “Đảng và Nhà nước
dính nhau làm một” (1976-1986) này, một khối lượng lớn chỉ thị, nghị quyết đã
được Đảng ban hành. Các văn kiện Đảng đã trở thành những văn bản có tính quy phạm,
trực tiếp điều chỉnh mọi hành vi chính trị, văn hóa, giáo dục và xã hội. Thậm
chí, giấy đăng ký kết hôn giữa ông Võ Văn Kiệt và bà Phan Lương Cầm lập năm
1984 cũng do Ban Tài chính Quản trị Trung ương cấp. Các nhà lãnh đạo cao cấp của
Đảng trong giai đoạn này gần như đều có một sự nghiệp chính trị trọn đời: Hồ
Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn đều từ trần khi đang tại chức. Vai trò của Đảng
cũng như của các nhà lãnh đạo trong hệ thống chính trị bắt đầu được điều chỉnh
dần kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986).
Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo tại Hội
nghị toàn quốc về hội đồng nhân dân vào tháng 2-1992 từng phát biểu: “Nhiều
nơi, tổ chức Đảng đã tự biến mình thành nhà nước, thậm chí siêu nhà nước”.
Luật pháp mà các công cụ nhà nước thông qua thường chỉ là “thể chế hóa đường lối,
nghị quyết của Đảng”.
Đặc biệt, Đảng nắm gần như tuyệt đối
công tác cán bộ ở cả ba ngành quyền lực. Lá phiếu của người dân trong các kỳ bầu
cử chỉ là xác nhận những người được Đảng ghi tên trong danh sách phiếu bầu. Đảng
không chỉ kiểm soát Quốc hội thông qua con số hơn 90% đại biểu là đảng viên.
Ngay cả những đại biểu Quốc hội không phải đảng viên cũng phải là người của Đảng.
Quy trình giới thiệu, hiệp thương, cho đến lấy ý kiến cử tri nơi ở và nơi công
tác đều do các cấp ủy Đảng chi phối, kể cả những ứng cử viên gọi là “tự ứng cử”.
Ở cấp quốc gia, việc bỏ phiếu ở Quốc
hội bầu các chức danh nhà nước chỉ là vấn đề thủ tục. Theo quy trình cán bộ của
Đảng, Ban Chấp hành Trung ương quyết định các chức danh chủ tịch quốc hội, chủ
tịch nước, thủ tướng, chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Tối cao;
Bộ Chính trị quyết định các chức danh phó thủ tướng, phó chủ tịch nước, phó chủ
tịch quốc hội, các bộ trưởng; Ban Bí thư quyết định các chức vụ tương đương thứ
trưởng. Bộ Chính trị cũng đồng thời quyết định nhân sự cấp bí thư, chủ tịch ủy
ban, chủ tịch hội đồng nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Cấp ủy
Đảng ở địa phương cũng quyết định nhân sự theo quy trình tương tự.
Dự thảo Hiến pháp 1992 chỉ thực sự được
đưa ra thảo luận sau Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng 6-1991. Đó là một thời điểm
cả thế giới lẫn trong nước đều có nhiều biến động. “Kinh tế nhiều thành phần”
mà Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận hồi năm 1986 buộc Đảng phải “đổi mới hệ thống
chính sách, pháp luật” thay vì tiếp tục chi phối mọi mặt đời sống bằng các chỉ
thị, nghị quyết như thời “quan liêu, bao cấp”. Nhưng kinh tế nhiều thành phần
và sự sụp đổ của các đảng cộng sản trên thế giới cũng đặt Đảng Cộng sản Việt
Nam trước mối lo về tính chính đáng trong vai trò tiếp tục nắm quyền lãnh đạo.
Tháng 5-1990, Yeltsin - người bị
Gorbachev đưa ra khỏi Bộ Chính trị trước đó không lâu - được bầu giữ chức chủ tịch
Xô viết Tối cao nước Cộng hòa Liên bang Nga. Tháng 7-1990, ông tuyên bố ra khỏi
Đảng Cộng sản. Tháng 6-1991, trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Cộng
hòa Liên bang Nga, Yeltsin trở thành tổng thống. Quyền lực của nhà nước liên
bang có nguy cơ tan rã khi vào tháng 8-1991, một hiệp ước liên bang mới trao chủ
quyền cho các nước cộng hòa bắt đầu được hình thành. Tình hình tưởng có thể đảo
ngược khi, ngày 19-8-1991, Phó Tổng thống Liên Xô Yanaev làm đảo chính, bắt giữ
Gorbachev và lập ra “Ủy ban Nhà nước về tình trạng khẩn cấp”.
Trong khi thế giới, nhất là phương
Tây, đang tỏ ra lo lắng thì ở Việt Nam, có thể đọc thấy một sắc thái tình cảm
khác thông qua lượng thông tin về cuộc đảo chính tràn ngập mặt báo ra ngày
20-9-1991. Tất cả các văn kiện của “Ủy ban Nhà nước về tình trạng khẩn cấp” đều
được báo chí nhà nước cho đăng nguyên văn, báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân
còn gọi Yanaev là “đồng chí” thay vì dùng chức danh “quyền tổng thống” như ngôn
từ được phát đi từ chính những người đảo chính.
Nhưng niềm hân hoan này đã không đủ để
kéo dài tới ngày hôm sau. Từ vị trí lãnh đạo Xô viết Tối cao Nga, Yeltsin trở
thành người hùng Liên Xô khi đứng trên tháp pháo xe tăng đọc diễn văn kêu gọi
dân chúng tuần hành chống lại những người đảo chính. Ngày 21-8-1991, những người
đảo chính bỏ chạy khỏi Moscow; một thành viên của “Ủy ban Khẩn cấp”, Bộ trưởng
Nội vụ Liên Xô Boris Karlovic tự sát. Gorbachev được đưa ra khỏi nơi “tạm giam”
nhưng quyền lực của ông thì đã hết.
Tháng 11-1991, cựu Ủy viên Bộ Chính
trị Yeltsin ký lệnh cấm Đảng Cộng sản hoạt động trên lãnh thổ nước Nga. Ngày
8-12-1991, một tuần sau khi Ukraina trưng cầu dân ý tuyên bố độc lập với Liên
Xô, Yeltsin gặp Tổng thống Ukraina và 8-12-1991, một tuần sau khi Ukraina trưng
cầu dân ý tuyên bố độc lập với Liên Xô, Yeltsin gặp Tổng thống Ukraina và
12-1991, Nga nắm lấy chiếc ghế của Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc. Hôm sau
Gorbachev, vị tổng thống không còn nhà nước, đành phải ra đi.
Trong khi đó, tại Việt Nam, trong bản
dự thảo Hiến pháp mà Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công trình ra trước Quốc
hội vào ngày 27-7-1991, Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa vẫn được nhắc
tên trong lời nói đầu. Ngày hôm sau, trong thảo luận tổ, nhiều đại
biểu đề nghị nên cân nhắc. Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Trần
Hồng Quân nói: “Một khi chính những nước đó không còn muốn nhận họ là chủ nghĩa
xã hội nữa thì ta không nên nhắc lại”.
Phát biểu ngay sau đó của các tướng
lĩnh có mặt trong Quốc hội cho thấy, ở Việt Nam, chạm tới thành trì xã hội chủ
nghĩa không phải là một việc dễ dàng. Thượng tướng Nguyễn Minh Châu yêu cầu giữ
nguyên phần nói về Liên Xô, ông tuyên bố: “Chủ nghĩa xã hội vẫn còn và vẫn còn
phát triển”. Một đại biểu quân đội khác, Thiếu tướng Nguyễn Răng, cũng phản bác
các ý kiến đề nghị hiến pháp chỉ nên đề cập đến “tư tưởng Hồ Chí Minh” thay vì
bao gồm cả “Marx - Lenin”. Tướng Nguyễn Răng nói: “Đừng vì thế giới có lộn xộn
mà chúng ta thay đổi”.
Khi thảo luận ở tổ hay thảo luận
trong phiên họp toàn thể trên Hội trường Ba Đình, gần như không
có ai phát biểu mà không đề cập đến “Điều 4 Hiến pháp” nhưng tất cả đều chỉ góp
ý về cách diễn đạt chứ không ai dám đề nghị xem xét lại vai trò của lãnh đạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam không phải
đang “lãnh đạo nhân dân cầm quyền”, như Chủ tịch Lê Quang Đạo nói, mà đang trực
tiếp cầm quyền. Đó là lý do mà nhiều nhà lãnh đạo cao cấp trong Đảng cho rằng
“bỏ Điều 4 Hiến pháp là tự sát”. Nguyên lý tam quyền phân lập,
cho dù được coi là lựa chọn tốt nhất để tránh bộ máy nhà nước tha hóa, lạm quyền,
cũng không thể vận hành trong một quốc gia độc đảng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét