Phần IV : Tam nhân
Chương XVIII : Tam nhân
phân quyền
Về mặt lý thuyết, chủ tịch quốc hội nằm
trong “tứ trụ” nhưng khi viết lời tựa cho cuốn Đại tướng Lê Đức Anh, ông Đỗ Mười
chỉ nhắc đến tổng bí thư, chủ tịch nước và thủ tướng. Ông Mười viết: “Ba chúng
tôi về quan điểm đường lối, đối nội, đối ngoại trên các lĩnh vực nói chung đều
nhất trí với nhau, có việc gì chưa thật thống nhất thì đưa ra tập thể Bộ Chính
trị bàn để đi đến thống nhất”. Rất khó để tìm được bằng chứng về sự không nhất
trí giữa ba ông thông qua các biên bản họp Bộ Chính trị. Khi xuất hiện trước
công chúng, cả ba đều đứng cạnh nhau tươi cười, và sinh thời, họ chỉ dành cho
nhau những lời tốt đẹp. Nhưng đằng sau sự yên tĩnh trên bề mặt ấy, quyền lực được
ba ông chế ước lẫn nhau một cách chặt chẽ trong thế chân kiềng.
Bộ ba
Không gian chính trị trong thập niên
1990 đã rút ngắn khoảng cách giữa các giai tầng trong xã hội Việt Nam. Trong
các thập niên trước, chỉ có các nhà báo thực sự cung đình như Thép Mới, Hoàng
Tùng, Bùi Tín… mới mong có thể tiếp cận được những nhà lãnh đạo như Lê Duẩn,
Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Giữa họ có một khoảng cách xa vời với không chỉ
các thường dân mà còn với cả các ủy viên trung ương, thậm chí cả với nhiều ủy
viên Bộ Chính trị.
Tuy được truyền thông nhà nước mô tả
như là một nhà lãnh đạo giản dị, trên thực tế, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh vẫn
là một người khó gần. Theo ông Nguyễn Đình Hương: “Ông Linh thường
cấm những uỷ viên Trung ương có khuyết điểm như Hà Trọng Hòa, Phạm Song… vào họp
Trung ương một cách vô nguyên tắc”. Thế hệ Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt,
tuy vẫn còn được coi như “cha, chú”, đã bắt đầu ý thức được họ đang ở trong thời
kỳ chuyển tiếp từ giai đoạn cầm quyền với vai trò lãnh tụ sang giai đoạn cầm
quyền như các nhà chính trị.
Đầu thập niên 1990, Quốc hội bắt đầu
họp dài ngày hơn, vườn hoa Nhà Kiếng và hành lang Hội trường Ba Đình bắt đầu trở
thành nơi tiếp xúc giữa các nhà lãnh đạo trung ương với các đại biểu là quan chức
địa phương và các nhà doanh nghiệp. Đây cũng là khu vực mà báo giới có thể tiếp
xúc phỏng vấn trực tiếp các bộ trưởng, các trưởng ban của Đảng, tổng bí thư, chủ
tịch nước và thủ tướng.
Chủ tịch Lê Đức Anh không có mặt thường
xuyên bên ngoài vườn hoa. Tuy ông luôn tỏ ra thân thiện nhưng uy lực của “vị tướng
một mắt” vẫn làm e ngại không ít người. Chỗ ông đứng không mấy khi có vòng
trong vòng ngoài, và báo chí cũng không có cho ông nhiều câu hỏi. Ngược lại, Tổng
Bí thư Đỗ Mười xuất hiện ở đâu là kéo theo đó một đám đông. Tổng Bí thư có thể
“hùng biện” cho đến khi các nhà báo lần lượt lẻn đi vì ông bắt đầu lặp lại những
điều đã nói trong các giờ giải lao trước đó. Ông Võ Văn Kiệt thì khác. Sau khi
Trợ lý Vũ Quốc Tuấn “bật mí” vài điều muốn giải tỏa của Thủ tướng với các nhà
báo quen biết, ông Kiệt sẽ tươi cười xuất hiện ở tam cấp của Hội trường Ba
Đình, bắt đầu một cuộc họp báo không chính thức.
Với Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt, ông Đỗ
Mười bao giờ cũng thể hiện sự tương kính. Khi có việc gì cần trao đổi, đích
thân ông Mười đi thẳng vào “Thành” gặp ông Lê Đức Anh hoặc ra tận sân tennis gặp
ông Võ Văn Kiệt. Nhưng với Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh thì ông lại thường
thể hiện cách “lãnh đạo” rất khác thường. Khi Quốc hội không phê chuẩn ông Đào
Đình Bình, một ứng cử viên trẻ vào chức bộ trưởng Bộ Giao thông, từ hàng ghế đầu,
ông Đỗ Mười đã nhấp nha nhấp nhổm. Đến giờ giải lao, ông bước ngay lên bục Chủ
tịch Đoàn, đuổi theo ông Nông Đức Mạnh ra tận hậu phòng của Hội trường Ba Đình.
Ông Đỗ Mười dí tay sát cổ áo Chủ tịch Quốc hội và nói: “Anh lãnh đạo Quốc hội
thi hành nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng như thế à?”.
Ông Đỗ Mười sùng bái nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa và chấp hành nghị quyết một cách chân thành. Năm 1958, khi làm bộ trưởng
Bộ Nội thương, ông chỉ huy đánh tư sản ở Hà Nội. Hai mươi năm sau, cũng chính
ông dẫn “đại quân” vào Sài Gòn đánh tư sản ở miền Nam. Nhưng đến Tết năm 1989,
khi đã trở thành người đứng đầu của một chính phủ thi hành nghị quyết “đổi mới”,
ông lại lên tivi “chúc mọi người làm ăn phát tài”. Theo ông Trần Xuân Giá: “Khi
về làm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, từ tư duy cho đến cách điều hành của ông Đỗ
Mười thay đổi một cách không ngờ. Ông lắng nghe và thấy được những cân đối lớn
của nền kinh tế, có khả năng tổng hợp và đưa ra được những quyết định sắc sảo”.
Ông Đỗ Mười cũng chọn mang theo sang
Văn phòng Tổng Bí thư những người gần gũi trong đội ngũ chuyên gia đã giúp ông
chống lạm phát thành công như Lê Đức Thúy, Nguyễn Văn Nam... Đặc biệt, không ít
người bất ngờ khi ông chọn ông Hà Nghiệp làm người giúp việc. Ông Hà Nghiệp được
coi là một trong những người có đóng góp trong tiến trình thay đổi tư duy của
ông Trường Chinh. Sau khi ông Nguyễn Văn Linh lên tổng bí thư, ông Trường Chinh
có ý giới thiệu Hà Nghiệp với hy vọng ông Linh tiếp tục phát triển tư duy đổi mới,
nhưng ông Linh gạt đi. Ông Hà Nghiệp phải sang làm trợ lý cho tổng bí thư của
Lào rồi về nước “ngồi chơi xơi nước”.
Tháng 8-1991, khi được đưa lên làm chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Võ Văn Kiệt đã nhờ ông Hà Nghiệp viết cho mình bài
diễn văn nhậm chức và theo ông Kiệt, ông dự định sẽ mời Hà Nghiệp sang làm việc
cho mình. Khi Hà Nghiệp ở không thì không thấy ai hỏi han, khi ông Kiệt định mời
thì ông Đỗ Mười đã đi trước một bước ra quyết định đưa Hà Nghiệp về làm trợ lý.
Tiểu sử chính thức của ông Đỗ Mười
ghi: “Xuất thân từ một gia đình nông dân, bản thân là thợ sơn”. Nhưng, khi trở
thành tổng bí thư, theo thư ký của ông, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam, ông lại có tham
vọng trở thành một nhà lý luận. Bên cạnh hai nhà Marxist cứng rắn là Đào Duy
Tùng và Nguyễn Đức Bình, ông trọng dụng Lê Xuân Tùng và tới đại hội giữa nhiệm
kỳ, đưa thêm một nhà lý luận khác, ông Nguyễn Phú Trọng, vào Trung ương. Sự say
sưa của ông đã tập hợp thêm được Nguyễn Hà Phan, Lê Khả Phiêu, hai nhân vật được
ông bổ sung vào Bộ Chính trị trong hội nghị giữa nhiệm kỳ tháng 1-1994.
Nhưng, theo ông Nguyễn Văn Nam: “Ông
Đỗ Mười vẫn là một con người hành động chứ không phải là một con người lý luận.
Cho nên khi điều hành bên chính phủ, ông có thể nhận biết thực tế để có những
quyết định phù hợp; khi làm công tác Đảng, đụng đến các vấn đề lý luận thì ông
phải trông cậy vào Đào Duy Tùng, Nguyễn Đức Bình, về sau có thêm Nguyễn Phú Trọng
và chịu ảnh hưởng không ít từ những người này”.
Đỗ Mười tên thật là Nguyễn Duy Cống,
sinh ngày 2-2-1917, tại xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Chú ruột ông là
Nguyễn Thọ Chân, bộ trưởng Lao động trong Chính phủ Phạm Văn Đồng. Thuở hàn vi,
ông có hai người bạn thân là Hoàng Hữu Nhân và Phạm Viết Đào. Cả hai đều sắc sảo,
ông Nhân từng có những ý định đổi mới táo bạo từ khi còn là bí thư Thành ủy Hải
Phòng, sau Đại hội VI làm trưởng Ban Công nghiệp Trung ương nhưng phẫn uất, có
lúc phải nhảy lầu, vì bị Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh o ép. Ông Đào thì ngang ngạnh,
vui vẻ hưu trí với chức thứ trưởng Bộ Ngoại thương, thậm chí còn "đàn
đúm" với Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiên Giang, những người từng ủng hộ Trần Xuân
Bách. Ông Đào thường gọi những người được Đỗ Mười trọng dụng như Đào Duy Tùng,
Nguyễn Đức Bình… là lũ “chim ri, chim sẻ”.
Ông Đỗ Mười sống gần như độc thân
trong ngôi nhà Tây phía sau Phủ Chủ tịch, vốn là nơi ở của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Người gần gũi ông nhất suốt gần ba thập niên tại ngôi nhà này là bà Thuận, người
nấu cơm của ông. Năm 1997, ông Đỗ Mười chuyển về sống trong biệt thự số 11 Phạm
Đình Hổ. Bà Thuận, lúc này đã có một người con, không về ở cùng. Trong phòng
riêng của mình, ông Đỗ Mười cho treo bức ảnh chụp ông và Fidel Castro, cho đặt
một chậu địa lan bằng nhựa… Bàn làm việc của ông đầy những tài liệu, bài báo
chi chít những nét gạch đỏ. Một chiếc phản cá nhân trải nệm bông gòn, bọc vải
hoa màu đỏ sẫm, được kê gần đó. Ông thường đặt lưng trên chiếc giường này sau
những giờ xem tài liệu.
So với Lê Đức Anh, lý lịch tham gia
cách mạng của ông Đỗ Mười rõ ràng hơn, và so với ông Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười là bậc
tiền bối cả về tuổi đời và tuổi Đảng. Ông Đỗ Mười trở thành ủy
viên dự khuyết Trung ương Đảng từ năm 1955. Ông Võ Văn Kiệt là ủy viên dự khuyết
năm 1960. Trong khi tới năm 1976, ông Lê Đức Anh mới vào Trung ương. Đỗ Mười giữ
chức phó phủ tướng từ năm 1969, nhưng, năm 1982, ở Đại hội V, ông bị đặt thứ ba
trong hàng kế cận do Tổng Bí thư Lê Duẩn và nhà tổ chức quyền biến Lê Đức Thọ sắp
xếp: Tố Hữu, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười.
Ngày 12-8-1991, ba ngày sau khi trở
thành chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Võ Văn Kiệt nhận xét: “Đồng chí Tổng Bí
thư Đỗ Mười vừa là người kế thừa những kinh nghiệm rất lớn của đồng chí Nguyễn
Văn Linh, vừa có những kinh nghiệm lớn về quản lý nhà nước. Một khi đồng chí
lãnh đạo cao nhất hiểu và thông cảm sâu sắc những khó khăn của công tác quản lý
nhà nước thì đó là một thuận lợi lớn cho chúng tôi”. Theo ông Vũ
Quốc Tuấn: “Sáu tháng sau, ông Kiệt mới nhận ra là mình nhầm. Ông Kiệt nói với
tôi: Tôi tưởng anh Mười đã từng làm việc nhiều năm ở chính phủ, hiểu biết công
việc chính phủ thì sẽ là một thuận lợi cho tụi mình. Không ngờ, ông biết nhiều
việc của chính phủ quá thì ông lại can thiệp nhiều hơn, làm khó mình hơn”.
Theo ông Trần Xuân Giá: “Từ đầu đến
cuối, ông Đỗ Mười không ủng hộ ông Kiệt, cả về lối sống lẫn quan điểm. Cuối năm
1981, một buổi chiều sau những giờ họp căng thẳng, tôi cùng ông tản bộ trên đoạn
đường trước Lăng, ông cho tôi biết tin Võ Văn Kiệt được điều ra Hà Nội. Khi đó,
ông Đỗ Mười đã dùng những câu, những từ rất nặng nề mà tôi không tiện nhắc lại
để nói về ông Kiệt. Ông Mười cho rằng: Thằng đó sẽ chết vì quan điểm kinh tế thị
trường của nó”. Ông Phan Văn Khải cho rằng: “Ông Đỗ Mười đổi mới là do áp lực
chứ không phải do chuyển biến về nhận thức như ông Trường Chinh. Ông cũng không
được học hành căn bản để hiểu các vấn đề một cách có hệ thống”.
Theo ông Đoàn Mạnh Giao: “Thời kỳ Đỗ
Mười - Võ Văn Kiệt xuất hiện thuật ngữ Nhà Đỏ - Nhà Trắng hay Hùng Vương Đông -
Hùng Vương Tây để chỉ mối quan hệ giữa bên Đảng và bên Chính phủ”. Nhưng, theo
ông Phan Văn Khải: “Khi còn cầm quyền, ông Kiệt không thèm nghe Đỗ Mười, ông Mười
nói gì thì nói, ông cứ làm theo kiểu của ông”. Ông Khải thừa nhận đây là lý do mà
khi trả lời phỏng vấn báo Thanh Niên ngay khi vừa nhận chức, ông nói: “Về bản
lĩnh chính trị tôi không thể nào so sánh với đồng chí Võ Văn Kiệt”.
Khi ông Kiệt làm “phó”, theo ông Vũ Quốc Tuấn: “Những việc ông Đỗ Mười chủ trì
thì ông Kiệt cũng ít tham gia. Có nhiều cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, ông Kiệt
không dự. Ông Kiệt tập trung cho những công trình của mình ở Đồng bằng sông Cửu
Long, đặc biệt là chương trình khẩn hoang Đồng Tháp Mười. Ông Mười thấy ông Kiệt
chủ động quá nên lại kéo ông Kiệt về, hai ông tỏ ra tâm đầu ý hợp”.
Khi trở thành thủ tướng, ông Võ Văn
Kiệt có các thành viên chính phủ như Phan Văn Khải, Đỗ Quốc Sam, Lê Xuân Trinh
và cả những người từng được cất nhắc bởi ông Đỗ Mười như Trần Xuân Giá, Nguyễn
Đình Lộc… Họ là những nhà kỹ trị, giúp ông thiết kế các thiết chế pháp lý cho nền
kinh tế thị trường vận hành. Ông Kiệt tập trung thời gian của mình cho những
công trình quốc gia và tích cực hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại. Trong thập
niên 1990, “nụ cười Võ Văn Kiệt” trở thành một gương mặt nổi bật không chỉ ở
trong nước. Nhưng, uy tín trong dân không phải bao giờ cũng trở thành sức mạnh
trong một nền chính trị mà quyền lực được giải quyết trong nội bộ.
Tướng Lê Đức Anh dường như không tham
gia tranh luận về ý thức hệ, về kinh tế thị trường. Chủ tịch nước, theo Hiến
pháp, là một chức danh không mấy thực quyền, nhưng trong thời gian giữ cương vị
này, ông Lê Đức Anh đã tạo ra được một ngoại lệ.
Năm 1986, khi từ Campuchia trở về
thay thế Tướng Lê Trọng Tấn làm tổng tham mưu trưởng, Tướng Lê Đức Anh không ở
những căn biệt thự dân sự bên ngoài mà chọn một căn nhà thuộc cụm nhà khách Bộ
Quốc phòng. Đó là một căn nhà hai tầng được xây từ thời Pháp nằm trong khuôn
viên Thành Hà Nội cũ. Tướng Anh thường vào ra Thành bằng cổng chính, 51B Phan
Đình Phùng nhưng có thể đón khách từ cổng phụ, số 5 Hoàng Diệu. Bà Võ Thị Lê,
người vợ thứ hai mà ông cưới năm 1956, sau khi tập kết ra Bắc, sống như hình với
bóng với ông trên tầng hai, trong khi những người giúp việc thì ở tầng dưới hoặc
các ngôi nhà nằm trong khuôn viên.
Ông Lê Đức Anh sinh ngày 1-12-1920 tại
Truồi, một làng quê nghèo đói bên phá Tam Giang, thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa
Thiên. Cha ông vừa làm ruộng vừa có thêm nghề thuốc nên cuộc sống gia đình,
theo ông, đỡ cực hơn mọi người. Ông học vỡ lòng ở trong làng rồi ra Huế học tiểu
học. Năm mười một tuổi, ông được gửi ra nhà chị gái, có chồng đang dạy học ở
thành Vinh học tiếp nhưng cũng chỉ được thêm một, vài năm. Học vấn của ông Lê Đức
Anh ở mức đọc thông viết thạo.
Ông Lê Đức Anh bắt đầu được “giác ngộ”
thông qua những câu chuyện về “một người có tên là Nguyễn Ái Quốc” do hai người
cậu ruột của ông, Lê Bá Giản và Lê Bá Dị, kể. Theo lý lịch tự khai: Lê Đức Anh
chính thức tham gia cách mạng từ năm 1937 và được kết nạp vào Đảng Cộng sản
Đông Dương vào ngày 1-5-1938. Năm 1939, khi bị đàn áp, một số đồng chí bị bắt,
ông lánh vào Đà Nẵng, lên Đà Lạt, rồi đến năm 1942 thì xuống đồn điền cao su Lộc
Ninh. Cuộc hôn nhân với bà Lê cùng với một số điểm không rõ ràng về thời điểm
vào Đảng là hai vấn đề khiến ông Lê Đức Anh luôn bị những người từng hoạt động
với ông xới lên mỗi khi quyền lực của ông được nới rộng.
Ông Lê Đức Anh gặp người vợ đầu tiên,
bà Phạm Thị Anh, vào tháng 8-1945, khi ông đang là “ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy
phụ trách tổ chức và quân sự” và bà Bảy Anh đang là phó chủ tịch
Hội Phụ nữ xã An Tây, huyện Bến Cát.
Bà Phạm Thị Anh sinh năm 1925, con một
gia đình địa chủ nhỏ ở Bình Dương. Cả mấy anh chị em đều đi theo Việt Minh, có
người đang làm chủ tịch huyện, có người đang làm bí thư xã. Thời gian ấy, bà Bảy
Anh chỉ mới vừa đôi mươi lại được coi là hoa khôi trong khi ông Lê Đức Anh thì
bị rỗ và một bên mắt bị bệnh vảy cá. Ông Lê Đức Anh “tìm hiểu” bà bằng cách cho
mượn sách và mỗi lần như thế lại kẹp vào một mảnh giấy ghi mấy chữ. Làm hậu thuẫn
cho ông còn có hai tỉnh ủy viên: Tư Đang và Nguyễn Oanh; Tư Đang
khi ấy là con nuôi của gia đình bà Bảy. Nhưng, bà Bảy Anh cho rằng, việc bà chọn
ông Lê Đức Anh chủ yếu vì nếu lấy ông thì bà không phải làm dâu; ông Lê Đức Anh
cũng ngỏ lời đúng khi bà muốn yên bề gia thất.
Cuộc hôn nhân ngay ngày đầu đã gặp sự
cố: Đám cưới vừa bắt đầu thì có Tây càn, ông Lê Đức Anh đạp xe chở vợ về bên Hội
Phụ nữ rồi quay lại chỉ huy chống càn. Đứa con đầu lòng của họ ra đời khi bà Bảy
Anh chỉ mới có bầu bảy tháng, bà ngoại cháu đặt tên là Lê Thiếu. Vừa sinh xong
lại gặp càn, y tế xã đưa lên võng gánh chạy vào rừng, đứa bé nhiễm lạnh, chết.
Sau đó, Lê Đức Anh được điều về Khu 8. Năm 1950, khi xuống miền Tây thăm chồng,
bà Bảy có thai đứa con thứ hai. Năm 1951, bà sinh hạ một người con gái đặt tên
là Lê Xuân Hồng.
Sau Hiệp định Geneva, Lê Đức Anh nằm
trong số những cán bộ được đưa ra miền Bắc. Từ Bình Dương, hai mẹ con bà Bảy
Anh xuống thăm chồng. Nhưng bà quyết định không tập kết ra Bắc như những người
phụ nữ khác. Khi ấy, mấy anh em bà Bảy theo kháng chiến để lại một đám trẻ con
lít nhít, bà không nỡ để cho cha, một người đàn ông góa vợ phải một mình chăm
nom bọn trẻ. Chỉ không lâu trước đó, gia đình bà Bảy Anh đã phải mất ba anh em
trai trong một vụ án oan lớn ở Bến Cát.
Lê Đức Anh ra Bắc, thoạt đầu được
giao làm sư trưởng Sư đoàn 330, đóng ở Thanh Hóa; sau được điều về Bộ Tổng tham
mưu làm cục phó Cục Tác chiến. Thời gian này, quân đội đang chịu cuộc “chỉnh huấn,
chỉnh quân” khốc liệt do cố vấn Trung Quốc chỉ đạo. Trong chi bộ của ông có hai
người bị kiểm điểm nặng, ông và ông Bội Dong, vì lấy vợ thuộc thành phần tư sản,
địa chủ. Cả hai sau đó đều tuyên bố “ly khai với gia đình vợ”.
Năm 1956, ông kết hôn với bà Võ Thị
Lê, có chồng là một đại úy quân đội đã hy sinh và đang có một người con riêng.
Năm 1957, họ có với nhau một con trai, đặt tên là Lê Mạnh Hà; năm 1959, họ sinh
thêm một người con gái, cũng đặt tên là Lê Xuân Hồng. Giữa thập niên 1960, Lê
Xuân Hồng lớn, người con của ông Lê Đức Anh và bà Bảy Anh, cũng được Tướng Trần
Văn Trà tổ chức đưa ra miền Bắc. Ở Hà Nội, bà Lê làm y sỹ ở bệnh
viện Hữu Nghị. Những năm ông làm bộ trưởng Quốc phòng rồi chủ tịch nước bà luôn
ở bên cạnh chăm sóc ông. Đây là thời gian mà cuộc sống của ông bà được mô tả là
cẩn trọng tới từng chén cơm, viên thuốc.
Gỡ cấm vận
Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt
bắt đầu nhiệm kỳ khi “cánh cửa Trung Quốc” đã được khai thông. Chuyến đi Bắc
Kinh, từ ngày 5 đến 10-11-1991, của Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Võ Văn Kiệt là chặng cuối trong tiến trình bình thường hóa mà Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Linh bắt đầu và Tướng Lê Đức Anh đóng một vai trò trung gian
quan trọng. Sứ mệnh của họ là gỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại và bình thường hóa
quan hệ với Mỹ.
Việc ông Võ Văn Kiệt chọn Thái Lan và
các nước ASEAN trước khi tới Bắc Kinh, mở đầu chuyến công du ngay sau khi nhận
chức chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng là có cân nhắc. Theo ông Vũ Khoan: “Tại một cuộc
họp của lãnh đạo Đảng và Nhà nước bàn về cơ hội thoát khỏi tình thế bị bao vây,
cấm vận, mở rộng quan hệ quốc tế, trong lúc nghỉ giải lao anh Sáu gọi tôi - đại
diện cho Bộ Ngoại giao được triệu tập sang dự họp - ra trao đổi ý kiến. Anh đặt
vấn đề: đã có sự nhất trí cao về đánh giá tình hình và chủ trương phá vây, song
ta cần tính kỹ bước đi sao cho có hiệu quả nhất. Anh gợi ý nên áp dụng chiến
thuật ‘hoa sen nở’, đi từ trong ra, theo đó trước hết cần cải thiện quan hệ với
các nước trong khu vực Đông Nam Á vốn có lợi ích sát sườn trong quan hệ với ta
đi đôi với việc bình thường hoá quan hệ với nước láng giềng phương Bắc là Trung
Quốc; từ đó tạo ra thế mới để cải thiện, thiết lập quan hệ với các nước ở vòng
cung thứ hai thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Australia, New Zealand, rồi vươn sang vòng cung xa hơn là EU; thành công của những
bước đi ấy sẽ tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy Mỹ chấm dứt chính sách cô lập, cấm
vận nước ta”.
Giữa ba ông gần như không có bất đồng
trong các nỗ lực nhằm thoát ra khỏi lệnh cấm vận thương mại của Mỹ. Tướng Lê Đức
Anh thừa nhận: “Chúng ta bị dồn tới chân tường”. Lệnh cấm vận mà người Mỹ áp dụng
với Việt Nam đã khóa chặt cửa gần hai thập niên: Việt Nam không thể nhập khẩu
công nghệ mới từ các nước phương Tây, không thể làm ăn trực tiếp với các công
ty đa quốc gia, tài khoản bị phong tỏa, không thể hưởng các trợ giúp đầy đủ từ
ngay cả các định chế quốc tế như World Bank, IMF…
Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ gần
như bế tắc kể từ khi những nỗ lực dưới thời Tổng thống Jimmy Carter thất bại.
Hai trở ngại chính cho tiến trình này là việc Việt Nam đóng quân ở Campuchia và
việc tìm kiếm tù nhân và người Mỹ mất tích trong chiến tranh (POW/MIA). Cho tới
lúc đó, Việt Nam thường chỉ được người Mỹ nhớ tới như là tên của một cuộc chiến
tranh, cuộc chiến được biết theo cách mô tả của Hollywood.
Ngay sau Hiệp định Paris, 27-1-1973,
590 tù binh Mỹ bị bắt ở Việt Nam, Lào và Campuchia đã được trao trả. Tuy nhiên,
vẫn còn 2.646 người Mỹ bị xếp vào danh sách mất tích. Không ai biết bao nhiêu
trong đó bị chết mà không tìm nhiên, vẫn còn 2.646 người Mỹ bị xếp vào danh
sách mất tích. Không ai biết bao nhiêu trong đó bị chết mà không tìm 1975, người
Mỹ chỉ xác nhận được sáu mươi ba bộ hài cốt trong đó có hai mươi ba chết trong
thời gian bị giam giữ và năm trường hợp chết tại Lào. Trong thập niên 1980, một
số người Việt vượt biên đến Mỹ đã đổ thêm dầu vào lửa khi nói là họ vẫn nhìn thấy
tù binh Mỹ ở Việt Nam. Nhiều người Mỹ tin rằng Hà Nội đã nói dối về số lượng tù
nhân chiến tranh.
Những cố gắng tìm kiếm của Chính phủ
Mỹ ở Lào và Campuchia sau năm 1975 không làm hài lòng người dân. Một số cựu
binh Mỹ trong vai người hùng đã quay lại Đông Dương trong các nỗ lực được gọi
là “chiến dịch giải cứu” tù binh. Hollywood làm trầm trọng thêm vấn đề POW/MIA
khi để trí tưởng tượng của mình tô vẽ những cuộc phiêu lưu của những cựu binh
này. Trong thập niên 1980, có lẽ không mấy người Mỹ không biết đến Chuck Norris
và Sylvester Stallone. Đặc biệt là Sylvester Stallone trong vaiRambo. Trong khi
tù binh Mỹ được mô tả là đã bị chính phủ của mình bỏ quên thì hình ảnh Stallone
và Chuck Norris vạm vỡ, quả cảm trên những bích chương quảng cáo - “Chiến tranh
chưa kết thúc cho đến khi chàng trai cuối cùng trở về” - đã tác động rất lớn đến
tinh thần người Mỹ.
Chính quyền của Tổng thống Reagan
(1980-1988) phản đối việc bình thường hóa cho đến khi có sự xác nhận Việt Nam
đã rút hết quân ở Campuchia và có sự hợp tác đầy đủ của Việt Nam nhằm đạt được
mức độ cao nhất có thể về việc tìm kiếm những người mất tích có tên trong danh
sách.
Ronald Reagan cũng như người kế nhiệm
ông, George H. W. Bush (1988-1992), đã giao công cuộc tìm kiếm POW/MIA cho Bộ
Quốc phòng, nhằm tránh áp lực của các nhóm vận động hành lang. Năm 1987, Reagan
phái tướng về hưu John Vessey đến Hà Nội. Năm 1988, Hà Nội cho phép các nhóm
tìm kiếm POW/MIA đến hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nhưng vấn đề người
Mỹ mất tích vẫn không nhờ thế mà dịu xuống.
Chính quyền Mỹ liên tục bị chỉ trích
là đã che giấu thông tin, những sản phẩm bịa đặt thường lại được tin cậy hơn là
những thông tin chính thức. Tháng 7-1991, một thăm dò trên tờ Wall Street
Journal cho thấy: 3/4 số người được hỏi tin những thông tin chính thức. Tháng
7-1991, một thăm dò trên tờ Wall Street Journal cho thấy: 3/4 số người được hỏi
tin 1992, đã đổ thêm dầu vào lửa khi nói với NBC News rằng, một số tù binh Mỹ
có thể đã được chuyển từ Hà Nội đến Liên Xô.
Năm 1991, theo đề nghị của Thượng nghị
sỹ Bob Smith, Thượng viện lập Ủy ban Đặc biệt về POW/MIA. Ủy ban do Thượng nghị
sỹ John Kerry, một cựu binh trong chiến tranh Việt Nam làm chủ tịch. Một cựu
binh khác, Thượng nghị sỹ John McCain, tham gia với tư cách ủy
viên. Tiếng nói của hai ông trở nên có trọng lượng nhất trong vấn đề này.
Từ Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Việt Nam Võ Văn Kiệt cũng đã “đánh vào” tâm lý của dân chúng Mỹ khi ông trả lời
phỏng vấn báo Time, tuần lễ từ ngày 7 đến 13-1-1992, nói rằng: “Sự nghi ngờ
chúng tôi còn giam giữ một số người Mỹ còn sống… là một điều ngớ ngẩn. Động cơ
nào có thể thúc đẩy chúng tôi làm điều đó?”. Báo Time hỏi: “Làm sao để dân
chúng Mỹ có thể tin vào sự đảm bảo của các ông?”. Ông Kiệt: “Ở Việt Nam có hàng
chục ngàn gia đình có người thân bị mất tích. Tôi cũng là một nạn nhân. Gia
đình tôi có bốn người, vợ và ba con của tôi, bị mất tích trong chiến tranh. Trực
thăng Mỹ đã giết 300 người trong một trận càn dọc sông Sài Gòn, vợ và con trai,
một con gái của tôi đã mất trong trận càn đó. Tôi có thể thấu hiểu được nỗi đau
của tất cả các gia đình Mỹ có người thân bị mất tích trong chiến tranh… Tôi
mong muốn dân chúng Mỹ hiểu được hoàn cảnh của chúng tôi trong vấn đề này.
Chúng tôi xin mời bất cứ người nào nghi ngờ còn người Mỹ sống ở Việt Nam hãy đến
Việt Nam mà tìm hiểu”.
Cuối năm 1992, khi tới Hà Nội lần thứ
hai, ông John Kerry đã đề nghị Chủ tịch nước Lê Đức Anh cho phép một cộng sự của
ông, Thượng nghị sỹ Bob Smith xuống đường hầm ở khu vực lăng Hồ Chí Minh để tận
mắt thấy không có lính Mỹ bị giam dưới lăng như Hollywood nói.
Vào cuối nhiệm kỳ của mình, Tổng thống
George H. W Bush đã đi được một quãng dài trong “lộ trình” do phía Mỹ đơn
phương đưa ra để bình thường hóa. Đáp lại việc Việt Nam chấp nhận một văn phòng
của Mỹ tại Hà Nội để xử lý vấn đề POW/MIA, Mỹ bãi bỏ lệnh hạn chế đi lại trong
bán kính hai mươi lăm dặm đối với các nhà ngoại giao Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc,
đồng thời cho phép người Mỹ được đi đến Việt Nam một cách có tổ chức, thay vì
chỉ được đi theo từng cá nhân. Tháng 12-1991, các công ty Mỹ được phép có một số
hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Tháng 11-1992, lệnh hạn chế liên lạc điện thoại
được bãi bỏ, dịch vụ gọi điện trực tiếp giữa Mỹ và Việt Nam được thiết lập.
Lệnh cấm vận có thể đã được bãi bỏ
nhanh hơn nếu G.H.W. Bush tái đắc cử. Nhưng ông đã thua cuộc trước Bill
Clinton, một thống đốc chỉ bằng tuổi con trai ông. Bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam sẽ rất khó khăn với Bill Clinton, người đã tránh nhập ngũ thời chiến
tranh Việt Nam, nếu không có tiếng nói của hai cựu binh, Thượng nghị sỹ Dân chủ
John Kerry và Thượng nghị sỹ Cộng hòa John McCain.
Đầu tháng 4-1993, Chính quyền Clinton
lặng lẽ, thận trọng tìm kiếm những bước đi tiến tới bình thường hóa với Việt
Nam. Ngày 12-4-1993, tờ Wall Street Journal tuyên bố “Bill Clinton dường như đã
ở bên bờ của sự kết thúc hoàn toàn chiến tranh Việt Nam”. Nhưng ngay trong ngày
hôm đó, tờ New York Times giật tít lên đầu trang nhất: “Nhiều tài liệu cho thấy
năm 1972 Hà Nội đã dối trá về số lượng tù binh”. Bài báo được viết bởi
Celestine Bohlen, trưởng văn phòng tại Moscow của tờ New York Times. Ngay trong
ngày 12-4-1993, Hà Nội tuyên bố tài liệu này là bịa đặt. Nhưng, cả báo chí và
chính trường Mỹ lúc đó dường như không ai còn đủ sự điềm tĩnh để đánh giá “bản
báo cáo” về sau được chứng minh là ngụy tạo này. Báo chí Mỹ tuyên
bố: “Chúng ta không thể thiết lập quan hệ với những kẻ đã giết tù binh chiến
tranh”. Một thăm dò do Wall Street Journal/NBC thực hiện vào các ngày 17 và
20-4-1993 cho thấy 2/3 người Mỹ tin rằng tù binh Mỹ vẫn còn bị giữ tại Đông Nam
Á.
Ngày 18-4-1993, Tướng John Vessey từ
Hà Nội trở về khẳng định với Tổng thống Bill Clinton, không có cơ sở để tin là
vẫn còn người Mỹ bị giam giữ ở Việt Nam. Tuyên bố này của Tướng Vessay tiếp tục
bị các tổ chức hoạt động chống Việt Nam trong vấn đề POW/MIA phản đối.
Khi đó, cựu Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng
hòa Nguyễn Văn Hảo đang ở Washington, D.C.. Hơn hai năm trước, ông đã nhận giúp
Hà Nội vận động hành lang. Khi ông Hảo xuất cảnh năm 1981, ông Võ Văn Kiệt vẫn
giữ liên lạc với ông thông qua bà Bùi Thị Mè.
Tháng 2-1990, vừa tới Thụy Sỹ dự Diễn
đàn Kinh tế Thế giới, ông Kiệt gọi điện thoại ngay cho ông Hảo, khi ấy đang là
một chuyên gia tư vấn của World Bank. Ông Nguyễn Văn Hảo kể: “Đang ở Haiti, tôi
nhận được điện thoại, người đàn ông ở đầu dây bên kia hỏi tôi có nhận ra ai
không. Tôi đề nghị ông nói lại một lần nữa, rồi kêu lên: Sáu Dân. Tôi hỏi ông
đang ở đâu? Ông bảo: Geneva. Tôi nói: Mai tôi qua”.
Tháng 12-1991, sau khi trở thành chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng, Ông Võ Văn Kiệt mời ông Nguyễn Văn Hảo trở lại Việt
Nam. Ông Kiệt bàn với ông Hảo việc quay trở lại Washington, vận động Mỹ bỏ cấm
vận và thúc đẩy nhanh tiến trình bình thường hóa. Ông Kiệt không làm việc này
“đơn tuyến”. Ông bố trí để ông Hảo gặp Chủ tịch Lê Đức Anh và Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Theo ông Hảo: Ông Đỗ Mười coi ông như một “người của mình”. Ông Mười hỏi: “Anh
về đã vào viếng lăng Cụ chưa?”. Ông Hảo trả lời: chưa. Ông bảo: “Anh nên đi”.
Ông Hảo nói: “Vậy anh đưa tôi đi đi”. Thế là ông Đỗ Mười đích thân đưa ông Hảo
viếng lăng Hồ Chủ tịch.
Sứ vụ của ông Nguyễn Văn Hảo bắt đầu
cuối năm 1992, khi ứng cử viên của Đảng Dân chủ, Bill Clinton dần dần thắng thế.
Thông qua một nhà cung cấp thực phẩm cao cấp, Marc Ashton, ông Hảo đã ba lần tiếp
cận được ông Ron Brown. Lần đầu, khi Ron Brown đang là chủ tịch Ủy ban Toàn quốc
của Đảng Dân chủ, tổ chức thành công đại hội của Đảng đưa Bill Clinton chính thức
ra tranh cử tổng thống Mỹ. Cuộc gặp gần như tình cờ khi ông Hảo đang ở nhà
Ashton và Brown từ cuộc gặp với các thành viên Đảng Dân chủ ở Virginia trở về
ghé ngang. Họ kéo nhau ra một nhà hàng gần đó. Bữa tối diễn ra khá thân thiện,
Brown còn nói đến việc hợp tác làm ăn với Việt Nam khi giao thương được tái lập.
Tháng 12-1992, khi cuộc bầu cử đã ngã
ngũ với phần thắng thuộc về Bill Clinton, Ashton đến thăm cô em vợ, Madsen,
đang là “bạn rất thân” của Brown, đang ở trong nhà của chính Brown, rồi rủ
Brown cùng ghé lai rai chút đỉnh. Khi Brown đến thì ông Hảo đã ở đó. Cuộc gặp
được viết lại trên báo Time ngày 11-10-1993 rằng, ông Hảo mang theo một lá thư
được viết sẵn của Chính phủ Việt Nam chúc mừng ông Brown và hy vọng quan hệ hai
nước sẽ tốt đẹp hơn. Brown để lại lá thư trên bàn sau khi nói rằng ông không muốn
nhận một lá thư như thế. Mấy ngày sau, theo đề nghị của Ashton, Brown gửi ông Hảo
một mảnh giấy ghi: “Nice to have met you. Happy holidays”. Lần gặp thứ ba diễn
ra vào trưa 13-2-1993, Ashton lại mời Brown ăn trưa cùng cô bạn Madsen, cùng đi
có thêm ông Hảo. Rồi chính ông Ashton đề nghị Brown đưa mọi người ghé thăm Bộ
Thương mại nơi Brown vừa được bổ nhiệm làm bộ trưởng. Brown đồng ý.
Thượng nghị sỹ John Kerry đưa tên của
Thủ tướng Võ Văn Kiệt lên đầu danh sách những người Việt Nam mà ông cho là có
đóng góp đặc biệt cho chương trình POW/MIA và tiến trình bình thường hóa quan hệ
Việt-Mỹ. Thượng nghị sỹ John Kerry gặp ông Kiệt nhiều lần, và năm 1993 khi ông
Kiệt tiếp ông ở Thành phố Hồ Chí Minh, John Kerry đã đề nghị ông Kiệt nên viết
thư gửi Tổng thống Bill Clinton yêu cầu Mỹ xóa lệnh cấm vận thương mại, tiến tới
bình thường hóa. Ông Kiệt hỏi: “Theo ngài thì tôi nên viết cho tổng thống như
thế nào?”. Thay vì chỉ góp ý, ông John Kerry đã lấy giấy bút ra tự tay thảo
giúp ông Kiệt lá thư gửi Bill Clinton. Theo ông Võ Văn Kiệt: “Tôi gần như chỉ
phải sửa lại rất ít bản thảo mà ông John Kerry chuẩn bị giúp. Tôi cho chuyển bức
thư ra Hà Nội đóng dấu rồi gửi vào ngay để kịp nhờ Thượng nghị sỹ John Kerry
mang về Mỹ”. Ngày 2-7-1993, Clinton tuyên bố: “Mỹ không còn phản đối những dàn
xếp được ủng hộ bởi Pháp, Nhật, và các nước khác nhằm nối lại sự giúp đỡ của
các định chế tài chánh quốc tế cho Việt Nam”.
Đầu năm 1994, Việt Nam được Liên Hiệp
Quốc mời đến Ohio dự một hội nghị của Tổ chức Thương mại và Phát triển, UNCTAD.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt cử Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết đi với tư cách là
trưởng đoàn. Ông Lê Văn Triết kể: Vừa tới Ohio thì Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc,
Boutros Boutros Ghali, gặp nói: “Tôi muốn có một cuộc họp riêng giữa ông và ông
bộ trưởng Thương mại của nước chủ nhà”. Không kịp xin ý kiến Hà Nội, ông Triết
trao đổi với phiên dịch Trần Đức Minh và một quan chức Bộ Ngoại giao đi cùng rồi
nhận lời. Hôm sau, ông B.B.Ghali giới thiệu ông Triết với Bộ trưởng Thương mại
Mỹ Ron Brown rồi lấy cớ bận một việc khác, rút lui.
Sau vài câu xã giao, Ron Brown nói:
“Tôi muốn có cuộc gặp này để thông báo với ông, tổng thống của chúng tôi sắp
tuyên bố bỏ cấm vận thương mại đối với Việt Nam”. Ông Triết cố gắng giấu sự xúc
động, trả lời: “Tôi rất hoan nghênh; điều đó rất phù hợp với nguyện vọng của
người Việt Nam cũng như người Mỹ”. Brown nói: “Tôi muốn nghe ông nói sâu hơn về
suy nghĩ của người Việt Nam”. Ông Triết: “Lịch sử hai nước có sự bất hạnh là gặp
nhau trong chiến tranh, tôi không nói lỗi của ai, nhưng chiến tranh ở Việt Nam
cũng là bất hạnh của cả nhân dân Mỹ. Lệnh cấm vận gây thiệt hại rất lớn cho
chúng tôi, chúng tôi có nhiều hàng hóa mà không thể bán sang đây, nhưng nhiều
doanh nghiệp Mỹ muốn làm ăn với Việt Nam cũng không thể được”. Brown: “Tôi cám
ơn ông. Tôi muốn hỏi thêm, sau dỡ bỏ cấm vận, cái gì sẽ đi theo?”. Ông Triết:
“Với tư cách cá nhân, tôi nghĩ, sau đó là thiết lập quan hệ ngoại giao”. Brown:
“Ở tầm nào?”. Ông Triết: “Đại sứ”. Brown: “Đó cũng là ý kiến của Thủ tướng?”.
Ông Triết: “Thủ tướng sẽ có ý kiến riêng, nhưng tôi biết ông là một người cởi mở,
đường lối của Đảng chúng tôi hiện nay là làm bạn với tất cả, đây là một quyết định
phù hợp với thời đại”. Ron Brown cám ơn rồi nói tiếp: “Tôi đề nghị chúng ta nên
thường xuyên quan hệ với nhau. Sau ngoại giao, thương mại sẽ có rất nhiều việc
để làm”.
Ở thời điểm Bộ trưởng Ron Brown gặp Bộ
trưởng Lê Văn Triết, ông đang chuẩn bị để ra trước một bồi thẩm đoàn. Giữa năm
1993, một cộng sự của Tiến sỹ Nguyễn Văn Hảo, ông Lý Thanh Bình - Việt kiều ở
Miami - tố cáo: Chính phủ Việt Nam đã hối lộ ông Brown 700 nghìn USD nhằm đổi lại
việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận và thiết lập bình thường hóa. Theo Tiến sỹ Nguyễn
Văn Hảo, Bình đã cùng ông về Việt Nam và trong cuộc gặp các nhà lãnh đạo Việt
Nam ông đã đưa Bình theo và ông ta biết được phần nào câu chuyện. Sau khi máy
kiểm tra không phát hiện ra Bình nói dối, cảnh sát Miami đã khởi tố vụ án. Bình
được trang bị các thiết bị ghi âm, mang mật danh “radar” và được hướng dẫn cách
đưa ông Nguyễn Văn Hảo vào bẫy điều tra của cảnh sát. Nhưng những băng ghi âm của
Bình sau đó đã không cung cấp được thêm bằng chứng nào cho thấy ông Hảo đang thực
hiện một âm mưu hối lộ.
FBI thu được hai bản fax ông Hảo gửi
cho các quan chức Việt Nam hồi tháng 12-1992 nói rằng phản ứng của Ron Brown là
tích cực. Theo tờ New York Times thì FBI cũng tìm thấy dấu hiệu chính quyền Việt
Nam dự định mở một tài khoản ở Singapore. Tuy nhiên, không có bằng chứng cho thấy
việc mở các tài khoản này có liên quan tới những hoạt động vận động hành lang của
ông Hảo. Các tổ chức phản đối tiến trình bình thường hóa Việt - Mỹ đã khai thác
những lời tố cáo của Bình. Nhưng cả ông Hảo và Brown đều chỉ nhận là có gặp
nhau ba lần và không làm gì sai trái. Sau bảy tháng điều tra công phu, ngày
1-2-1994, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Ron Brown phải ra hầu tòa. Trong ngày, bồi thẩm
đoàn cho rằng Ron Brown vô tội. Hai hôm sau, 3-2-1994, Tổng thống Bill Clinton
tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại Việt Nam.
Tuyên bố của Tổng thống Clinton được
đưa ra vào 5 giờ sáng ngày 4-2-1994 theo giờ Việt Nam. Chưa đầy hai giờ sau,
Công ty Pepsi Cola tung một quả bóng bay khổng lồ (hình cái lon Pepsi) lên vùng
trời Thành phố Hồ Chí Minh, và phát không những lon Pepsi đầu tiên sản xuất tại
Việt Nam. Ngày 5-2-1994, Coca Cola bảo trợ một cuộc biểu diễn nhạcrock tại Việt
Nam. Pepsi và Coca Cola là hai trong số hơn 100 công ty Mỹ có mặt ở Việt Nam
lúc đó.
Ngay trong tháng 4-1994, một hội chợ
triển lãm hàng Mỹ lần đầu được khai mạc. Ở thời điểm ấy, các doanh nghiệp Đài
Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật, Pháp và Úc đã ký kết các dự án đầu tư lên tới
8 tỷ đôla. Giới doanh nghiệp Mỹ đã tạo sức ép khá lớn để bỏ cấm vận.
“Đa phương hóa”
Cả ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh đều thừa
nhận vai trò của Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong các hoạt động đối ngoại. Tướng Lê
Đức Anh nói: “Chủ trương làm bạn với tất cả, bình thường hóa quan hệ với Mỹ,
trước hết do các anh: anh Linh, anh Mười, anh Kiệt trong Bộ Chính trị và anh
Tô, cố vấn, đề ra. Nhưng nói cho đúng, hoạt động nhiều là ông Kiệt”.
Tuy nhiên, mọi đường đi nước bước của
Chính phủ, của Bộ Ngoại giao đều phải được các ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười chấp thuận
dưới dạng các nghị quyết của Bộ Chính trị. Ông Lê Đức Anh được phân công phụ
trách an ninh, quốc phòng, ngoại giao. Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm: “Các vấn
đề về ngoại giao tôi đều phải xin ý kiến ông Lê Đức Anh và thường được anh ủng
hộ”. Ông Đỗ Mười cũng rất ít khi phát ngôn, nhưng theo ông Võ Văn Kiệt: “Tôi hiểu
ý anh ấy thông qua ý kiến của Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan, Nguyễn Đức Bình”.
Ông Kiệt đôi khi còn nhận được thông điệp bất lợi từ tổng bí thư một cách trực
tiếp.
Giữa năm 1993, trong một cuộc họp của
Ban Bí thư do ông Đỗ Mười chủ trì để quán triệt với cán bộ đối ngoại các ngành.
Ông Đoàn Mạnh Giao kể: “Tôi tới muộn một chút nên chỉ còn chiếc ghế trống trước
mặt ông Đỗ Mười. Vào họp, ông Mười than phiền: ‘Sao lại cho Tây ba lô mắc võng
nằm cả ở Hồ Tây’. Tôi bảo: ‘Họ cũng là dân Tây nghèo đi du lịch thôi ạ’. Ông Mười
nói: ‘Chúng nó làm gián điệp đấy! Tớ vừa ký cho cậu lên thứ trưởng mà nói gì
cũng cãi’. Ông Đỗ Mười vừa dứt lời thì Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà lấy
ra một đống sách do sứ quán các nước châu Âu in bằng tiếng Việt, rồi nói: ‘Các sứ
quán in tài liệu tuyên truyền công khai anh ơi’. Ông Đỗ Mười hỏi: ‘Chủ nghĩa xã
hội dân chủ à?’, rồi quay sang tôi: ‘Tại sao Chính phủ lại cho in như vậy?’.
Tôi nói: ‘Thưa bác, luật lệ ngoại giao không cấm điều này. Hồi xưa, sứ quán ta ở
Trung Quốc cũng in những tài liệu tuyên truyền. Những tài liệu này để trong sứ
quán, vấn đề là cán bộ ta vào đó rồi mang ra thôi ạ”.
Cho dù về đối nội, tổng bí thư là người
giữ vị trí cao nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam, nhiều quốc gia vẫn không
thể tiếp đón ông Đỗ Mười với các nghi thức dành cho nguyên thủ. Trong thời gian
đầu, gần như ông Đỗ Mười chỉ có thể thăm viếng những nước như Trung Quốc, Lào,
Cuba… về sau có thêm Hàn Quốc, Nhật… đồng ý tiếp ông. Trong khi đó, “nguyên thủ
quốc gia” trên danh nghĩa là Tướng Lê Đức Anh lại bị ấn tượng là quá cứng rắn.
Mãi tới tháng 11-1993, Chủ tịch nước
Lê Đức Anh mới bắt đầu chuyến thăm chính thức tới Lào và chặng kế tiếp theo
thông lệ là tới Bắc Kinh. Năm 1994, ông đến Indonesia và Iran. Năm 1995, thăm
Kuwait, Syria, Cambodia, Brazil, Cuba, Philippines. Cũng trong năm 1995, Lê Đức
Anh đến Pháp dự lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít và sau đó tới New York dự
lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Liên Hiệp Quốc. Ông là người duy nhất trong thế
hệ các nhà lãnh đạo vào Đảng trước năm 1945 và là vị nguyên thủ cộng sản Việt
Nam đầu tiên tới Mỹ.
Trong khi đó, ngay từ tháng 10-1991,
ông Võ Văn Kiệt đã bắt đầu các chuyến công du “phá băng” xuống các nước ASEAN.
Không chỉ đi nhiều hơn những người đồng nhiệm, thật khó giải thích vì sao ông
Võ Văn Kiệt, một người xuất thân từ nông dân, lại chính là nhà lãnh đạo đầu
tiên nhận ra việc phải chấn chỉnh từ bên trong để chuẩn bị một tư thế mới,
không chỉ cho cá nhân ông mà cho cả Việt Nam, trước khi thiết lập quan hệ rộng
rãi hơn với các quốc gia trên thế giới.
Ngày 5-11-1991, trên chuyến chuyên cơ
từ sân bay Nội Bài đi Bắc Kinh, ông Võ Văn Kiệt nói với ông Đỗ Mười ý định mở
ngay một tuyến cao tốc từ Hà Nội lên Nội Bài và đã được ông Đỗ Mười ủng hộ.
Ngày ấy, để đi từ Hà Nội đến sân bay, xe phải qua Cầu Đuống, sang Đông Anh, vừa
phải lòng vòng xa, vừa đi qua những khu phố nhếch nhác, chật hẹp. Không chỉ rút
ngắn khoảng cách từ sân bay quốc tế về Thủ đô, đoạn đường cao tốc đầu tiên được
làm với nguyên tắc BOT này đã gieo những ấn tượng đầu tiên về một Việt Nam đang
thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Ông Kiệt cũng cho chuyển nơi đón các
vị nguyên thủ quốc gia từ Nhà khách Chính phủ số 12 Ngô Quyền về Phủ Chủ tịch.
Ông Kiệt nói: “Một lần tôi được cử tháp tùng Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí
Công đi đón Tổng Bí thư Rumania Ceausescu. Lễ đón được tổ chức trước Nhà khách
Ngô Quyền, hình Hồ Chủ tịch đặt trên nóc tòa nhà Ngân hàng Nhà nước, một phông
vải lớn căng che nhà Ngân hàng, cờ quạt trông như một sân khấu hát bội. Cả
chúng tôi và dân chúng được huy động đến phải đứng đợi giữa nắng. Tôi thấy
không ổn, nghĩ, phải thay đổi từ những việc tưởng là nhỏ như thế này. Nhưng khi
đó tôi mới chỉ là phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng”.
Chuyển nơi đón khách thì buộc phải
phá một “vườn hoa con cóc” ở trước sân Phủ Chủ tịch, Quyết định của ông Kiệt bị
phản ứng. Ông Kiệt kể: “Có người tố cáo với anh Phạm Văn Đồng: Ông Kiệt san bằng
di tích. Anh Đồng gọi tôi đến, tôi thưa: anh biết rõ cái gọi là di tích ở đó,
chỉ là một cái mỏ neo cắt trên một thảm cỏ cây. Rồi tôi nói, để tổ chức một lễ
đón các nguyên thủ cho có tư thế quốc gia, không có chỗ nào trang trọng như trước
Phủ Chủ tịch. Mặt khác, chúng ta cũng không thể phơi nắng, phơi mưa cả chủ lẫn
khách như lâu nay vẫn làm. Anh Đồng nói: anh nói cũng phải. Thế là tôi về, cho
sửa. Lúc đầu ta vẫn đón khách theo kiểu duyệt binh, có đủ hải-lục-không quân.
Tôi bỏ duyệt binh, chỉ để đại diện các binh chủng đứng thành hàng và không còn
bắt dân phơi nắng nữa”.
Ông Kiệt nói: “Các anh làm đối ngoại
lâu năm như anh Nguyễn Duy Trinh, anh Nguyễn Cơ Thạch, đặc biệt, anh Thạch là một
bộ trưởng ngoại giao rất có tầm, sau anh không có ai bằng. Nhưng, lạ là các anh
ấy vẫn để cho việc lễ tân trong những cuộc họp hành, đón khách quốc tế rất luộn
thuộm. Gần như không có đối chiếu, gần như không để ý đến cái không phù hợp của
mình, để sửa”. Ngay như quyết định của ông Kiệt cấm đi dép lê và yêu cầu mặc
comple, thắt cà vạt tại các nghi lễ trọng thể, theo ông Vũ Khoan: “Anh em làm
ngoại giao lúc đầu cũng cho rằng đó là một quyết định không thực tế. Cho tới một
lần, lên một tỉnh miền núi họp, tôi bị hố vì chỉ có tôi ăn mặc tuềnh toàng
trong khi các vị lãnh đạo địa phương đều mặc comple, đeo cravat”.
Ông Võ Văn Kiệt cũng là nhà lãnh đạo
đầu tiên nhận ra nhu cầu chấn chỉnh cung cách thiếu chuyên nghiệp của các cơ
quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài. Năm 1990, khi tới Davos dự Diễn đàn Kinh
tế thế giới, ông Kiệt nhận ra sự thiếu chuyên nghiệp của các quan chức ngoại
giao. Nữ phiên dịch của ông trong chuyến đi, bà Tôn Nữ Thị Ninh kể: “Khi tiễn
ông ra sân bay, sứ quán nói, đại sứ ra trước để chuẩn bị, tôi với ông đi sau.
Nhưng cậu lái xe lại không biết phòng VIP ở đâu, ba thầy trò loay hoay mãi. Cuối
cùng, tôi đành phải tìm một góc yên tĩnh, để ông ngồi đấy. Tôi đi được ít phút
thì người của sứ quán chờ không thấy ông, đi tìm. Ông không la mắng gì nhưng rất
bực mình, trên đường về ông nói, cơ quan ngoại giao của mình ở nước ngoài chưa
đủ tầm và thiếu chuyên nghiệp”.
Chuyến đi Davos tháng 2-1990 là chuyến
đi đến phương Tây đầu tiên của ông Võ Văn Kiệt. Trước ngày lên đường, bà Phan
Lương Cầm, phu nhân của ông, cho mời bà Tôn Nữ Thị Ninh đến, nói: “Chị sống ở
bên đó lâu, xin chị mạnh dạn góp ý, kể cả chuyện ăn mặc, anh Sáu nên thế nào?”.
Bà Ninh nói: “Ông Kiệt có phong thái của một chính khách rất gần với phương
Tây”.
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm
cho rằng: “Quan hệ cá nhân đóng một vai trò quan trọng trong công tác đối ngoại.
Trong đàm phán, ông Kiệt thường tạo được cảm tình và độ tin cậy rất cao, không
chỉ với những nhà lãnh đạo châu Á như Mahathir, Than Shwe, Chatichai, Aquino…
Các nhà lãnh đạo ASEAN như Chatichai, Mahathir, đặc biệt là Lý Quang Diệu đều
giữ quan hệ khá thân mật với ông Võ Văn Kiệt.
Ông Võ Văn Kiệt gặp ông Lý Quang Diệu
năm 1990, ở Davos, khi cả hai cùng tham dự Diễn đàn Kinh tế thế giới. Lần đó
khi phát biểu trên diễn đàn, ông Lý Quang Diệu nói: “Tôi qua đây, có tiếp xúc với
mười đoàn, và hiện đoàn Việt Nam đang muốn gặp”. Ngồi ở dưới nghe, ông Kiệt
nghĩ: “Ông này chơi mình đây. Cuộc gặp là thỏa thuận của đôi bên, nhưng ổng nói
như mình xin gặp ổng”. Sau đó khi gặp nhau, Lý Quang Diệu lại chỉ trích: “Việc
chọn đi theo mô hình Liên Xô đã làm cho nền kinh tế Việt Nam lạc hậu mất hai
mươi năm”. Nhưng, thay vì tạo thêm xung đột, ông Kiệt đã tìm cách kết bạn với
người đã phê phán mình.
Năm 1991, khi ông Võ Văn Kiệt tới
Singapore, Lý Quang Diệu đã thôi làm thủ tướng được đúng một năm, nhưng vẫn là
một nhân vật đầy quyền uy. Trong một dạ tiệc đón tiếp, ông Kiệt ngồi gần, nói với
ông Lý Quang Diệu: “Chúng tôi hân hạnh mời ngài qua thăm Việt Nam và ngài nên bố
trí thời gian đi thăm nhiều nơi, qua đó ngài có thể có những ý kiến đề xuất, gợi
ý vì chúng tôi từ chiến tranh ra, chưa có nhiều kinh nghiệm xây dựng kinh tế”.
Ông Kiệt kể: Ông Lý cảm ơn lia lịa và nhận lời. Sáng hôm sau, khi báo chí phỏng
vấn, Lý Quang Diệu nói: “Thủ tướng Việt Nam mời tôi làm cố vấn và tôi đã nhận lời”.
Ở nhà, ông Đỗ Mười, rất lo. Ông Kiệt về, ông Mười hỏi: “Anh mời Lý Quang Diệu
làm cố vấn à?”. Ông Kiệt kể: “Tôi thuật lại sự tình nhưng có vẻ như ông Mười
không tin lắm. Ông nói, như thế là bất lợi. Tôi động viên, không sao, biết đâu
về chính trị, không phải bất lợi mà hay, vì mình được tiếng chịu chơi. Thực tế
là hay. Sau đó, báo chí nước ngoài viết: Việt Nam mời một ông chống cộng làm cố
vấn chắc đã đổi mới lắm”.
Năm 1992, Việt Nam được mời làm quan
sát viên của ASEAN với điều kiện năm năm sau mới có thể trở thành quốc gia
thành viên. Nhưng, theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Chỉ hai năm, họ đặt vấn đề, nếu
Việt Nam đã chuẩn bị và sẵn sàng gia nhập ASEAN thì phải trả lời trong hội nghị
ngoại trưởng các nước ASEAN năm 1994 để năm 1995 gia nhập chính thức”. Đúng lúc
đó, theo Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm: “Trong Bộ Chính trị có anh phân
vân, quan hệ với ASEAN thì được nhưng gia nhập ASEAN thì không được. Đào Duy
Tùng nói: ASEAN là sự tiếp nối của khối SEATO”. Ông Cầm cho rằng:
“Nhận thức của một số đồng chí trong Bộ Chính trị lúc bấy giờ không theo kịp những
thay đổi của tình hình thế giới”.
Đầu năm 1994, ASEAN thông báo nếu Việt
Nam đủ điều kiện tham gia thì đến Hội nghị các bộ trưởng ngoại giao ASEAN tại
Bangkok phải trả lời. Tháng 7-1994, trước giờ ông Nguyễn Mạnh Cầm đi Bangkok,
Hà Nội vẫn chưa đưa ra quyết định. Ông Cầm kể: “Sáng sớm, gặp Thường vụ Bộ
Chính trị, tôi nói: Khi còn vấn đề Campuchia, ASEAN có những đối kháng với
mình. Nay, họ cũng có nhu cầu quan hệ với mình, ta phải tranh thủ. Bán anh em
xa mua láng giềng gần. Mình có quan hệ được với ASEAN thì mới quan hệ được với
các nước”. Đỗ Mười, Lê Đức Anh đồng ý nhưng, Đào Duy Tùng kiên quyết phản đối.
Ông Tùng cho rằng vào ASEAN không mang lại lợi ích gì trong khi lại làm tăng
nguy cơ “diễn biến hòa bình”. Đến giờ ông Cầm phải ra máy bay, Đào Duy Tùng vẫn
bảo lưu ý kiến, ông Đỗ Mười dặn: “Anh cứ đi nhưng chưa trả lời, chờ điện của Bộ
Chính trị”.
Rồi, ông Đỗ Mười cử ông Vũ Khoan vào
Sài Gòn gặp ông Võ Văn Kiệt, lúc bấy giờ đang làm việc với Chính quyền Thành phố
Hồ Chí Minh. Ông Kiệt từ cuộc họp trong 86 Lê Thánh Tôn ra bảo: “Tôi đã nói từ
lâu, chuyện này còn có gì mà phải cân nhắc nữa. Anh báo ngay với anh Cầm là ta
đồng ý”. Ông Kiệt nói: “Các chính khách thân tình của ASEAN nói với tôi, nếu
ASEAN đặt vấn đề mà Việt Nam do dự thì sẽ mất thời cơ vì họ sẽ nghĩ, Việt Nam
chỉ thăm dò chứ không thành thật. ASEAN làm việc theo nguyên tắc đồng thuận, chỉ
cần vài nước rút lại ý kiến là sẽ rất bất lợi”.
Ông Nguyễn Mạnh Cầm kể: “Ông Đỗ Mười
dặn phải chờ điện trả lời của Bộ Chính trị. Theo kế hoạch, các bộ trưởng sẽ gặp
nhau trong bữa ăn tối ngày hôm đó, tôi hy vọng nhận được điện vào buổi chiều
nhưng chờ tới sáng hôm sau vẫn không thấy đâu. Tôi quyết định vẫn trả lời ‘có’
với ASEAN. Anh Kiệt đã nỗ lực để đưa Việt Nam gia nhập ASEAN và tôi tin nếu có
gì thì anh sẽ đấu tranh trong nội bộ. Mãi tới chiều hôm sau mới có điện của Bộ
Chính trị đánh sang trả lời đồng ý”. Điện do Ủy viên Thường trực Thường vụ Bộ
Chính trị Đào Duy Tùng ký.
Khi nhận được câu trả lời từ ông Cầm,
Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia, ông Badawi, vui vẻ: “Cầm ơi, năm tới Việt Nam sẽ
là thành viên của ASEAN nhưng với anh thì còn hai điều kiện”. Ông Cầm hỏi: “Điều
kiện gì?”. Badawi: “Đến đây, anh không nói tiếng Pháp hoặc tiếng Nga nữa mà phải
nói giỏi tiếng Anh và, điều kiện thứ hai là phải biết đánh golf”. Ông Cầm: “Tiếng
Anh thì tôi cố gắng được còn golf thì tôi sợ lắm. Thời gian để tôi chuẩn bị
đánh golf còn khó hơn Việt Nam chuẩn bị điều kiện gia nhập ASEAN”. Badawi: “Việt
Nam điều gì cũng làm được. Tôi sẽ giúp anh chuẩn bị. Golf là làm việc chứ không
phải chơi”.
Thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn
Quốc, quốc gia mà cho tới khi đó vẫn được Việt Nam gọi là Nam Triều Tiên, cũng
là một mốc đáng nhớ trong tiến trình hội nhập, cho dù bên thúc đẩy không phải
Việt Nam. Việt Nam và Hàn Quốc bắt đầu có quan hệ buôn bán, đầu tư từ năm 1983,
nhưng chỉ ở mức phi chính phủ. Ông Vũ Khoan kể: “Năm 1991, Ủy ban Kinh tế Xã hội
của Liên Hợp Quốc về châu Á và Thái Bình Dương, ESCAP, họp ở Seoul. Nam Triều
Tiên muốn có đại diện của Việt Nam, họ mua vé và chi phí cho cả đoàn. Tôi trở
thành quan chức đầu tiên của Việt Nam đến Nam Triều Tiên. Tại Seoul, chúng tôi
bắt đầu đàm phán về thiết lập ngoại giao. Họ muốn đặt sứ quán tại Hà Nội ngay,
nhưng mình chủ trương mở trước ở cấp tổng lãnh sự. Hai bên thỏa thuận là bàn
kín nhưng đang bàn thì họ lộ tin cho báo chí, tôi bỏ ra về”.
Sau đó, Nam Triều Tiên đề nghị đàm
phán ở cấp vụ. Họ cử đại sứ tại Thái Lan sang Hà Nội. Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm:
“Trong quá trình đàm phán có mấy điểm phải xin ý kiến Bộ Chính trị: Mình đòi bồi
thường chiến tranh, họ nói nếu chúng tôi nhận bồi thường, người Mỹ sẽ gây khó
khăn; mình đòi họ phải có trách nhiệm với Việt Nam, họ nói, vậy cũng không được
vì Mỹ có trách nhiệm lớn hơn. Thay vì bồi thường, họ hứa sẽ ưu tiên vốn ODA cho
Việt Nam và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ giữa hai nước”.
Việc thiết lập ngoại giao với Nam Triều
Tiên cũng không suôn sẻ. Trước 1975, Nam Triều Tiên là nước đồng minh của Mỹ,
cùng với Australia, Chính quyền Park Chung Hee có gửi quân đến tham chiến ở miền
Nam Việt Nam. Họp Bộ Chính trị, ông Nguyễn Hà Phan phát biểu: “Tôi không bao giờ
quên tội ác của lính Park Chung Hee, các anh muốn quan hệ thì phải giải trình,
phải làm tư tưởng với người dân miền Đông nơi lính Park Chung Hee đã gây nhiều
tội ác. Tôi tin là người dân sẽ phản ứng”. Ông Phan nói: “Anh Đào Duy Tùng cũng
có ý kiến là tụi này nó xấu lắm”. Cả ông Nguyễn Hà Phan và Đào Duy Tùng thật ra
chỉ là người phát ngôn. Theo ông Võ Văn Kiệt, nói Nam Triều Tiên đã từng đưa
quân tới Việt Nam chỉ là cái cớ. Việc thiết lập ngoại giao với Nam Triều Tiên bị
Bắc Triều Tiên phản ứng và Trung Quốc thì tỏ ý không hài lòng .
Tháng 4-1992, hai nước đồng ý thiết lập văn phòng liên lạc.
Ngày 24-5-1992, sau một chuyến thăm Đại
Hàn, Xuân Lương, thành viên Hội Nhà báo Việt Nam viết bài “Seoul, Mùa Xuân
Thoáng Qua” đăng trên tờ Hà Nội Mới Chủ Nhật. Bài viết mô tả: Nam Triều Tiên
sau giải phóng rất nghèo bởi tài Xuân Thoáng Qua” đăng trên tờ Hà Nội Mới Chủ
Nhật. Bài viết mô tả: Nam Triều Tiên sau giải phóng rất nghèo bởi tài 1992, có
bài đăng trên báo Nhân Dân, tựa đề: “Nam Triều Tiên Chặng Đường Đi Tới Phồn
Vinh, mô tả “sự xuất hiện của bốn con rồng Châu Á” theo đó, ca ngợi “con rồng”
Nam Triều Tiên đi lên nhờ “tinh thần dân tộc, tính nhẫn nại cộng với chủ trương
đúng đắn của nhà nước”.
Ngay sau đó, Đại sứ Bắc Triều Tiên tại
Hà Nội đã gặp Vụ phó Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao Đỗ Công Minh để phản ứng về hai
bài báo của Xuân Lương. Ông Đại sứ cho rằng, cuộc chiến tranh năm 1953 ở bán đảo
Triều Tiên là “chiến tranh giải phóng”; sở dĩ Nam Triều Tiên phát triển là vì
“họ sống bám vào viện trợ của Mỹ, Nhật”. Ông Đại sứ còn đặt vấn đề: “Có thể dẫn
tới sự chia tay giữa ngành báo chí hai nước”.
Từ trước đó, các phản ứng của Bình
Nhưỡng đã được đưa ra cân nhắc trong các cuộc họp của Bộ Chính trị. Yếu tố xã hội
chủ nghĩa được đặt lên bàn cân. Ông Võ Văn Kiệt phát biểu: “Bắc Triều Tiên là
xã hội chủ nghĩa nhưng khi ta đánh sang Campuchia, họ là nước tiên phong chống
ta nhất chứ không phải Nam Triều Tiên. Nếu nói về xấu tốt thì chưa chắc sang
Campuchia, họ là nước tiên phong chống ta nhất chứ không phải Nam Triều Tiên. Nếu
nói về xấu tốt thì chưa chắc 12-1992, Bộ trưởng Ngoại giao hai nước ký tuyên bố
chung thiết lập ngoại giao ở cấp đại sứ.
Tháng 2-1993, khi Bộ trưởng Nguyễn Mạnh
Cầm đến Seoul, ông được đón tiếp rất trọng thị. Ông Cầm nói: “Cả tổng thống
đương nhiệm và tổng thống đắc cử đều bảo tôi, họ muốn mời Thủ tướng Võ Văn Kiệt
sang thăm. Tôi trả lời: Tôi nghĩ là Thủ tướng sẽ đồng ý”.
Trước chuyến đi của Thủ tướng Võ Văn
Kiệt vào tháng 5-1993, Đại sứ Nam TriềuTiên tại Hà Nội trình lên Bộ Ngoại giao
một lá thư, đề nghị Việt Nam, từ nay gọi họ là Hàn Quốc thay vì gọi Nam Triều
Tiên. Ông Đoàn Mạnh Giao kể: “Ông Kiệt tham vấn, tôi nói: Thưa chú, cháu tên là
Giao, cháu yêu cầu mọi người gọi cháu đúng tên không lẽ hàng xóm có quyền không
chịu. Ông Kiệt cười. Trước khi ông lên đường, Văn phòng Chính phủ có một công
văn yêu cầu các cơ quan trong nước từ nay chính thức gọi Nam Triều Tiên là Hàn
Quốc”. Khi tiếp ông Võ Văn Kiệt, theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm: “Tổng thống
Kim Young Sam nói: Ngày trước, Hàn Quốc có một món nợ với Việt Nam. Đó là điều
đáng tiếc xảy ra trong một thời điểm mà chúng tôi không thể tránh vì là đồng
minh với Mỹ. Giờ đây tôi xin sửa bằng cách hợp tác với nhau tốt hơn”.
Khi đàm phán để ký kết hiệp định hợp
tác với EU, trong Bộ Chính trị, cũng có nhiều ý kiến phản đối cho dù lúc đó Việt
Nam rất cần các bạn hàng châu Âu nhất là bạn hàng dệt may. Ông Võ Văn Kiệt nói:
“Bàn đi, bàn lại rất nhiều. EU đưa ra các điều kiện đòi Việt Nam phải tôn trọng
nhân quyền. Có ý kiến cho rằng, đó là điều kiện chính trị, không thể chấp nhận.
Tranh luận không ngã ngũ. Năm 1995, khi tôi chuẩn bị đi châu Âu, tôi nói với
ông Đỗ Mười: Đề nghị anh đồng ý với tôi về mặt nguyên tắc, nếu như trong các hiệp
định mà EU ký với các nước khác không có điều kiện nhân quyền mà chỉ đặt ra khi
ký với mình thì tôi sẽ thuyết phục họ rút lại. Nếu đó là nguyên tắc mà EU áp dụng
chung thì đề nghị anh cho tôi quyết định vì mình không phải là một ngoại lệ. Việt
Nam cũng không thể đặt mình trong một sự khác biệt và không thể từ chối các đòi
hỏi hợp lý về nhân quyền. Ông Mười đồng ý về mặt nguyên tắc”.
1995: Gia nhập ASEAN, bình thường hóa
quan hệ với Mỹ, ký hiệp định khung với EU. Kể từ khi Việt Nam đổi mới cho tới
năm 1996, ngoài việc phục hồi quan hệ với một số quốc gia, Việt Nam thiết lập
quan hệ mới với năm mươi bốn nước. Năm 1950, chỉ có các nước xã hội chủ nghĩa
công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ 1950-1987, Việt Nam thiết lập quan hệ với
112 nước. Năm 1996, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 166 nước.
Tổng cục II
Khi nhận chức bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, Tướng Lê Đức Anh chọn người đã kế vị mình ở Campuchia, Tướng Đoàn Khuê,
làm tổng tham mưu trưởng. Năm 1992, Đoàn Khuê trở thành bộ trưởng Bộ Quốc phòng
và, năm 1991, một nhân vật khác cũng từng ở Quân khu IX và Bộ tư lệnh 719 với
Lê Đức Anh, Tướng Lê Khả Phiêu, được đưa lên làm chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Ngoài những chức năng hiến định, ông
Lê Đức Anh còn được Bộ Chính trị phân công phụ trách công tác quốc phòng, an
ninh và ngoại giao. Nhưng, khi nói đến thực quyền của ông không thể không nhắc
đến lực lượng tình báo quân đội mà cho dù trong thời bình, đã được ông nâng từ
cấp cục lên tổng cục.
Cuối năm 1986, khi Tướng Lê Trọng Tấn
mất đột ngột, Lê Đức Anh thay vị trí tổng tham mưu trưởng. Chỉ huy tình báo
quân đội, Tướng Phan Bình, được cho về hưu. Trung tướng Phan Bình là người kế
nhiệm Đại tá Lê Trọng Nghĩa làm cục trưởng Cục II kể từ năm 1968, thời kỳ mà
tình báo quân đội thực sự phục vụ cho quốc phòng. Sau khi bàn giao, Tướng Phan
Bình vào Sài Gòn. Ông nghỉ tại nhà khách Cục II, số 30 Lê Quý Đôn. Đêm 13 tháng
Chạp năm Bính Dần (đầu năm 1987), ông chết ở tư thế “ngã sấp trên thềm nhà trước
phòng khách, ở đầu bị bắn toác một lỗ rộng”.
Những thông tin không chính thức sau
đó nói rằng “đồng chí Phan Bình bị bệnh tâm thần, tự sát”. Tướng
Lê Đức Anh đưa Nguyễn Như Văn, vốn là trưởng Đoàn 12, cơ quan tình báo quân đội
bên cạnh Bộ tư lệnh 719 ở Campuchia lên làm cục trưởng Cục II. Đại tá Vũ Chính,
người kế vị ông Tư Văn ở Đoàn 12 được đưa lên làm cục phó. Năm 1995, Cục II được
nâng cấp thành Tổng cục II, Tướng Vũ Chính thay Nguyễn Như Văn nắm quyền tổng cục
trưởng. Một triều đại mới của tình báo quân đội bắt đầu.
Không dừng lại ở quy mô tổng cục. Dưới
sự chỉ đạo của Tướng Lê Đức Anh, chủ tịch nước kiêm phó bí thư thứ nhất Đảng ủy
Quân sự Trung ương, Tướng Vũ Chính bắt đầu soạn thảo Pháp lệnh tình báo theo đó
thay đổi gần như căn bản chức năng nhiệm vụ của cơ quan tình báo. Pháp lệnh được
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua và được Chủ tịch Nông Đức Mạnh ký vào ngày
14-12-1996. Sau khi có Pháp lệnh, Tổng cục II soạn thảo một nghị định trình lên
Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Ông Kiệt thừa nhận là khi nhận thấy sự
bất ổn của nghị định tình báo, lẽ ra ông phải đủ can đảm để từ chối ký (Nghị định
96/CP). Nhưng, ông Kiệt giải thích: “Phần do ông Lê Đức Anh không ngừng thúc
ép, phần do, theo nguyên tắc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh
thì Chính phủ có chức năng phải hướng dẫn thi hành nên chín tháng sau, ngày
11-9-1997, tôi đã phải ký”. Ông Phan Văn Khải giải thích thêm: “Nghị định tình
báo mở rộng quá, ông Kiệt cảm thấy bất ổn nhưng không vượt qua được”.
Từ một cơ quan trực thuộc Bộ Tổng
tham mưu, Pháp lệnh Tình báo đã đặt những cơ quan như Tổng cục II “dưới sự lãnh
đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của
Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ”. Pháp lệnh cũng biến Tổng cục
II, từ một cơ quan thay vì chỉ làm chức năng chuyên trách tình báo về quân sự
và thực thi các nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng, trở thành một cơ quan có chức năng
“tình báo” trong nội bộ, có quyền: cài người vào các địa phương, các cơ quan của
Đảng, Nhà Nước, các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa và kinh tế, được phép
thiết lập kênh thông tin đặc biệt với lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước.
Trong quá trình đàm phán Hiệp định
Thương mại Việt Mỹ, theo ông Nguyễn Đình Lương, nhiều ủy viên Bộ
Chính trị nhận được những “báo cáo tình báo” của Tổng cục II do Tướng Vũ Chính
trực tiếp đưa tận tay. Những báo cáo này đã từng có tác động không nhỏ đến tiến
trình đàm phán. Theo ông Võ Viết Thanh: “Xem lại các báo cáo của Tổng cục II thấy,
phần lớn đó là những báo cáo mang tính chất tác động vào nội bộ của lãnh đạo Việt
Nam, tạo bất lợi về mặt tâm lý trong các hoạt động đối ngoại, có khuynh hướng đẩy
tới sự đối đầu với Mỹ. Tôi không hiểu tại sao khi đọc những báo cáo như vậy mà
Bộ Chính trị không yêu cầu chấn chỉnh”.
Ông Phan Văn Khải thừa nhận: “Ông Lê
Đức Anh dùng quân đội, lực lượng tình báo quân đội để tạo thế và dùng tin tình
báo để gây ảnh hưởng lên cả các vấn đề nhân sự. Năm 2002, khi Nguyễn Chí Vịnh
được bổ nhiệm làm tổng cục trưởng Tổng cục II thay bố vợ là Vũ Chính, tôi có dặn:
anh đừng có dùng Tổng cục II vào những việc như bố vợ anh đã từng làm, Vịnh
nói, cháu sẽ nghe lời chú”. Thời Vũ Chính còn làm tổng cục trưởng,
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cũng đã không thoát khỏi “lưới Tổng cục II” của Tướng
Lê Đức Anh.
Đất quân đội
Hai ông Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt chính
thức nhận vị trí “nguyên thủ” ngay sau Đại hội Đảng lần thứ VII, trong khi ông
Lê Đức Anh phải đợi Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công chủ trì việc thông
qua Hiến pháp mới. Tướng Lê Đức Anh nhận chức Chủ tịch nước vào tháng 9-1992,
khi Quốc hội khóa IX bắt đầu nhóm họp. Ông có lẽ là vị nguyên thủ đầu tiên kết
hợp khá nhuần nhuyễn quyền lực trên thực tế với vai trò mang tính biểu tượng của
chức danh chủ tịch nước. Không phải ngẫu nhiên khi đã trở thành nguyên thủ quốc
gia, ông Lê Đức Anh vẫn ở trong Thành. Quân đội vẫn là một lãnh địa mà ông tiếp
tục nắm vững rồi từ đó tỏa ra sức mạnh.
Tướng Lê Đức Anh là người đưa ra sáng
kiến phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Ngày
10-9-1994, Lê Đức Anh ký Lệnh ban hành Pháp lệnh 29-8-1994 và ngày 29-12-1994,
trong một đại lễ được Đài truyền hình Việt Nam trực tiếp truyền đi, Lê Đức Anh
đã cùng với hàng trăm bà mẹ, khi ấy ở tuổi ngoài 70, cùng duyệt hàng quân danh
dự trong khuôn viên Phủ Chủ tịch.
Chiến tranh đã cướp đi hàng triệu
sinh linh của cả hai bên, chỉ riêng phía Cộng sản đã có tới 44.253 bà mẹ Việt
Nam đủ mất mát để được gọi là anh hùng: miền Bắc có 15.033 bà; miền Nam có
29.220 bà. Họ là những người phụ nữ bị mất đứa con duy nhất, bị mất cả chồng lẫn
con, bị mất ba con, thậm chí, có những người như bà Nguyễn Thị Thứ, ở xã Điện
Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam, có tới 9 người con được Chính quyền công nhận là liệt
sỹ.
Từ năm 1987, khi Việt Nam bắt đầu rút
quân ở Campuchia, căng thẳng biên giới với Trung Quốc giảm dần, hơn 600 nghìn sỹ
quan, binh lính được cho giải ngũ: 37.338 người đã được Bộ Quốc phòng “xuất khẩu
lao động” sang các nước Đông Âu, trong đó có 9.333 sỹ quan; 25.454 hạ sỹ quan
và quân nhân chuyên nghiệp; 2.551 người thuộc diện con em cán bộ quân đội. Phần
lớn phải tự mình xoay xở: một số trở lại quê hương lam lũ; một số đưa vợ con
vào Nam, lên Tây Nguyên… Các chàng trai chỉ mong có ngày cởi bỏ những bộ quân
phục, chia tay với súng đạn, ít ai nghĩ tới những ưu đãi mà quân đội sắp dành
cho những người ở lại.
Đầu thập niên 1990, sỹ quan quân đội
bắt đầu được hưởng mức lương ưu đãi theo hệ số 1,8. Theo đó, một sỹ quan sẽ nhận
được số lương trên thực tế cao gấp 1,8 lần so với một viên chức dân sự có cùng
ngạch bậc. Theo ông Vũ Quốc Tuấn: “Ông Võ Văn Kiệt không đồng ý. Ông Kiệt cho rằng,
nếu anh ở chiến trường hoặc ở biên cương, hải đảo thì mức lương đó tôi tán
thành. Nhưng nếu anh ở Hà Nội hay Sài Gòn, hằng ngày về với vợ con mà hưởng
lương thế là vô lý”. Tranh cãi kéo dài suốt từ năm 1991 đến 1994
nhưng không có kết quả. Vấn đề không phải là công bằng mà là vai trò quân đội
trong tương quan chính trị.
Tướng Lê Đức Anh có một quyết định
khác làm đổi đời nhiều sỹ quan, đó là quyết định lấy đất doanh trại và đất mà
các đơn vị quân đội đang nắm giữ ở các thành phố như Sài Gòn, Hà Nội, Cần Thơ,
Đã Nẵng… chia cho cán bộ xây nhà. Ở Hà Nội là các phần đất quân sự xung quanh
sân bay Bạch Mai, sân bay Gia Lâm, khu Lý Nam Đế… Ở Sài Gòn là các vùng đất bao
quanh Trung tâm như: trại Hoàng Hoa Thám; trại Đào Duy Từ; căn cứ 26; Bộ Tổng
Tham mưu; căn cứ Hải quân, từ khu vực Ba Son ăn thông sang khu Lê Thánh Tôn,
kéo xuống Tân Cảng; các nhà máy thuộc Tổng cục Kỹ thuật kéo từ đường 3-2 đến
Chí Hòa…
Con trai Tướng Lê Đức Anh, ông Lê Mạnh
Hà nói: “Trong thời gian ông (Lê Đức Anh) làm Bộ trưởng Quốc phòng, ngoài những
việc về vấn đề chiến lược quốc phòng, hay bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc,
mà tôi không dám lạm bàn, có một việc ông làm mà tôi nghĩ được nhiều quân nhân
đánh giá cao, nếu không nói là biết ơn. Đó là việc chia đất cho sĩ quan quân đội,
những người hầu như không có gì cả sau khi các cuộc chiến kết thúc. Cuộc sống của
họ rõ ràng có sự thay đổi, bởi như các cụ vẫn nói an cư lạc nghiệp” (theo
Vietnamnet).
Những người được cấp đất có thể sẽ dễ
dàng đồng ý với ông Lê Mạnh Hà. Nhưng, trong số hơn 1,6 triệu quân lúc đó, chỉ
có hơn 50.000 sỹ quan và quân nhân chuyên nghiệp được cấp đất, họ là những người
may mắn công tác trong những đơn vị đóng quân tại các thành phố lớn. Nhiều tướng
lĩnh đã có biệt thự ở cư xá Bắc Hải, cư xá Lam Sơn… vẫn được cấp đất trên đường
Sư Vạn Hạnh, trên đường 3-2 hay đường Cộng Hòa. Trong khi, nhiều sỹ quan khác,
có người là tướng, là sỹ quan cao cấp, trở về quê chỉ nhận được một ít lương,
trợ cấp.
Đặc biệt, hàng trăm nghìn người lính,
nhất là những người đang bám trụ ở biên giới, hải đảo, đã không may mắn được hưởng
đặc ân đất đai, nhà cửa. Không chỉ tạo ra sự không công bằng trong quân đội, việc
cấp đất ồ ạt cho sỹ quan xây nhà trên những khu đất không được đầu tư cơ sở hạ
tầng đã tạo ra nhiều vấn nạn về đô thị và xã hội. Phần lớn các khu nhà này đều
được xây lên mà không có đường sá, cầu cống, đặc biệt là không có điện nước.
Các gia đình tự khoan giếng và câu điện. Nhiều nơi, mỗi khi mưa xuống là cả khu
ngập ngụa, lầy lội.
Ông Lê Văn Năm, khi ấy là Viện trưởng
Viện Quy hoạch Thành phố Hồ Chí Minh, nói: “Thành phố biết trước những khu đất
này sẽ được chuyển giao cho mục tiêu dân sự nên muốn chủ động quy hoạch để phát
triển đồng bộ. Nhưng, những năm 1987, 1988, mỗi lần vào khu vực Tân Sơn Nhất
hay Hoàng Hoa Thám, chúng tôi đều phải xin phép trước. Chủ tịch Thành phố Phan
Văn Khải dặn: Giữ thân, Lê Văn Năm ơi. Tôi đến Quân khu 7 xin cho làm quy hoạch,
làm không công, tôi nói: Làm xong sẽ trình các anh trước. Nhưng chỉ khi chia đất,
xây nhà xong, quân đội mới giao cho Thành phố. Chúng tôi lại phải điều chỉnh
quy hoạch, khép mối các tuyến đường vừa mở”.
Năm 1989, Chính phủ lập Đoàn Thanh
tra 186. Mặc dù chỉ ra nhiều điều bất cập về quy hoạch phát triển và không ít
tiêu cực trong quá trình phân phối đất, Đoàn Thanh tra chỉ đóng vai trò hợp thức
hóa quyền cấp đất cho Bộ Quốc phòng. Ngày 24-5-1990, Bộ Quốc phòng và Tổng cục
Địa chính ban hành một thông tư liên bộ, thừa nhận quyền cấp đất của các quân
chủng, quân khu với yêu cầu quân nhân được cấp đất trước khi xây nhà phải liên
hệ với chính quyền sở tại.
Nhưng, các khu nhà ở vẫn mọc lên theo
cách tự phát vì bản thân chính quyền các địa phương cũng không hài lòng khi quyền
chia đất không nằm trong tay mình. Không phải sỹ quan nào được cấp đất cũng có
tiền mua nhà, một số xẻ đất ra bán một phần, hoặc bán hết rồi về quê.
Không chỉ tạo ra sự bất bình đẳng giữa
những người được cấp đất và những người không được cấp, hệ lụy do sự cát cứ đất
đai của các cơ quan không chỉ quân đội khiến cho tài nguyên quốc gia quan trọng
này đã không được huy động theo cách đúng đắn nhất cho quá trình xây dựng đô thị.
Sau năm 1975, đất đai, nhà cửa ở miền Nam cũng được coi như một loại chiến lợi
phẩm. Từng ngành tiếp quản các cơ sở mà Việt Nam Cộng hòa đã sử dụng cho các chức
năng tương ứng. Ví dụ: Bộ Công nghiệp vào tiếp quản các nhà máy; Bộ Giáo dục tiếp
quản trường học; Bộ Y tế vào nắm các bệnh viện… Vì Sài Gòn là thủ đô của một bộ
máy chiến tranh, Bộ Quốc phòng tiếp quản nhiều đất đai, nhà cửa nhất, với tổng
diện tích lên tới 1.600 hecta.
Đất đai do các đơn vị quân đội tiếp
quản trở thành các lãnh địa mà địa phương bất khả sử dụng. Theo ông Vũ Quốc Tuấn,
trợ lý của ông Kiệt, đây cũng là một trong những vấn đề khiến cho Lê Đức Anh và
Võ Văn Kiệt thường có những bất đồng. Đất đai, nhà xưởng mà quân đội nắm giữ rộng
mênh mông. Ở Đà Nẵng, có lần địa phương dẫn ông Kiệt đi xem cả một dọc dài những
vùng đất có thể phát triển hạ tầng cho các khu kinh tế nhưng Đà Nẵng không thể
làm gì vì nó đang nằm trong tay quân đội. Ở Sài Gòn, quân đội nắm phần lớn những
vị trí có vai trò yết hầu.
Theo ông Lê Văn Năm, khi Thành phố
trình phương án Quy hoạch Tổng mặt bằng, dự kiến bắc bốn cây cầu qua sông Sài
Gòn ở hướng Thủ Thiêm, ông Lê Đức Anh nói: “Tại sao các cậu đòi nhiều cầu thế,
trước nay Sài Gòn chỉ có một cầu cũng đủ kia mà”. Theo quy định, Bộ Chính trị
trực tiếp xem xét và quyết định quy hoạch của những thành phố như Hà Nội, Sài
Gòn. Thay vì dự báo mức tăng trưởng để phát triển hạ tầng tương ứng, các nhà
quy hoạch phải “vẽ” một thành phố chỉ với quy mô dân số mà Bộ Chính trị phê duyệt.
Theo ông Lê Văn Năm: “Năm 1993, Bộ Chính trị yêu cầu khống chế quy hoạch Thành
phố ở quy mô 5 triệu dân. Khi đó, chúng tôi đã thấy là không thể nào đáp ứng
yêu cầu. Năm 1998, Bộ Chính trị phải đồng ý điều chỉnh quy mô dân số Thành phố
lên 10 triệu”.
Khi trở lại Sài Gòn làm Chủ tịch, ông
Võ Viết Thanh có ý định di chuyển xưởng Ba Son và Tân Cảng về Thủ Thiêm, ông
nói: “Tôi và anh Mai Xuân Vĩnh, Tư lệnh Hải quân nhất trí với nhau, trước sau
cũng phải dời, thấy trước, chủ động thì đỡ tốn kém”. Một trong những cây cầu mà
Thành phố định làm, được bắc từ đường Tôn Đức Thắng, thẳng theo con đường này
tính từ hướng Đinh Tiên Hoàng chạy xuống bờ sông, trước khi nó uốn cong về phía
cột cờ Thủ Ngữ. Chủ tịch Võ Viết Thanh nói: “Tôi trình bày riêng với Thủ tướng
Võ Văn Kiệt, ông nhất trí. Nhưng, theo lời khuyên của ông Kiệt, tôi mời Bộ trưởng
Quốc phòng Đoàn Khuê vào, dẹp hết các ấn tượng cá nhân về con người này, tôi
đích thân cùng ông đi canô dọc sông Sài Gòn để xem kế hoạch di dời Tân Cảng,
Ba Son trong điều kiện xây cầu Thủ Thiêm. Ông Đoàn Khuê không kết luận gì,
nhưng sau chuyến đi ấy, thấy anh Mai Xuân Vĩnh cho Thành phố mượn trước 30 tỷ để
giải phóng mặt bằng”.
Nhưng khi phương án được trình lên,
theo ông Võ Viết Thanh: “Tại cuộc họp Bộ Chính trị, khi ông Đỗ Mười chưa kịp
nói gì, ông Đoàn Khuê đã phản ứng gay gắt. Đoàn Khuê nói rằng, xây cầu, nếu có
chiến tranh thì làm sao bảo vệ. Tôi nói thẳng, vấn đề là làm sao đừng để chiến
tranh xảy ra, chứ khi đã có chiến tranh thì không chỉ cầu mà đường hầm cũng
không bảo vệ được. Tôi không nghĩ là tất cả Bộ Chính trị đều không nhận ra tư
duy quân sự ấu trĩ ấy của Đoàn Khuê”. Theo ông Trần Xuân Giá: “Ông Lê Đức Anh
cũng cho rằng, dứt khoát không được làm cầu nổi vì Ba Son cần giữ bí mật”.
Khi làm đại lộ Đông - Tây, lẽ ra nếu
làm cầu thì chỉ hết chưa tới 100 triệu đôla, nhưng Thành phố cũng đã bị buộc phải
làm đường hầm qua Thủ Thiêm với kinh phí cao hơn gần gấp ba lần. Ông Võ Văn Kiệt
nói: “Thôi, Bảy Thanh, hãy để cho 4 triệu dân Thành phố đánh giá”. Nhưng, sẽ
không có một thiết chế chính trị nào để bốn triệu dân Thành phố đánh giá những
quyết định của các nhà chính trị. Bản chất vấn đề, theo ông Lê Văn Nam: “Ông Kiệt
nói ngắn gọn: Tụi mình thua nhà binh”.
Theo Bộ trưởng Trần Xuân Giá, nhiều lần,
ông Võ Văn Kiệt “tức như bò đá” vì có những dự án đầu tư đã xong đâu vào đấy
nhưng không thể nào thực hiện vì Bộ Tổng Tham mưu trả lời không. Theo nguyên tắc,
tất cả các dự án đầu tư nước ngoài đều phải có văn bản hỏi ý kiến Bộ Tổng Tham
mưu về vị trí. Bộ Tổng Tham mưu sẽ căn cứ vào bản đồ “Bố phòng Quốc gia” để trả
lời được hay không mà không cần giải thích.
Theo ông Giá, quốc gia nào cũng có một
bản đồ bố phòng, nhưng vấn đề là những người lãnh đạo Bộ Quốc phòng đã sử dụng
tư duy quân sự của thập niên 1960 để điều chỉnh những bước đi của thập niên 1990,
2000. Có lần ông Kiệt phải kêu lên: “Tôi là Thủ tướng, là Ủy viên Bộ Chính trị
mà cũng không được xem bản đồ bố phòng”. Theo ông Giá, đấu tranh mãi cuối cùng
ông Kiệt mới yêu cầu Bộ Chính trị tổ chức một cuộc họp, đưa bản đồ bố phòng quốc
gia ra, thống nhất chỗ nào dứt khoát người nước ngoài không được đầu tư, chỗ
nào có thể xem xét.
Tuy nhiên, ông Kiệt cũng không dễ
dàng thắng “tư duy nhà binh”. Theo ông Giá: “Khi xem xét những vấn đề cụ thể
như khu đô thị Nomura, ông Lê Đức Anh cũng phản đối. Lê Đức Anh nói: Chúng ta để
cho người nước ngoài đứng ở những đầu cầu vững chắc để tấn công Hà Nội. Có lẽ
ông ấy nghĩ, Nomura được đầu tư bởi người nước ngoài thì cũng có thể thành một
căn cứ quân sự của nước ngoài”.
Hóa giá nhà
Ở Sài Gòn và các tỉnh phía Nam, sau
ngày 30-4-1975, Chính quyền tiếp quản hàng trăm nghìn căn nhà, phần từ quỹ nhà
công của Việt Nam Cộng hòa, phần nhà tư của những người di tản trước ngày
30-4-1975 hoặc tịch thu của những người ở lại.
Hơn 70.000 căn nhà ở Thành phố Hồ Chí
Minh, trong đó có hàng ngàn căn biệt thự, được phân phối cho cán bộ, công nhân
viên, dưới danh nghĩa là “thuê”. Nói là thuê, nhưng những cán bộ ở trong đó đã
coi việc thuê nhà như một động thái chiếm hữu. Theo chính sách bao cấp, tiền
thuê những căn nhà, kể cả những căn biệt thự đó, được tính không quá 5% tiền
lương của người thuê. Nhà nước chỉ thu được một khoản tiền rất tượng trưng: một
ngôi biệt thự chỉ từ 10 đến 20 nghìn đồng/tháng; một căn hộ cấp II, 5000 đồng/tháng;
một căn hộ trong chung cư có từ 2 -3 phòng, giá chỉ từ 2000 đến 4000 đồng/tháng.
Chính sách bao cấp đưa cả căn biệt thự rộng 400 - 500m2 cho một hộ 3-4 nhân khẩu,
trong khi hàng triệu người vẫn không có nhà.
Vì là chủ sở hữu nên Nhà nước vẫn có
trách nhiệm phải sửa chữa những căn nhà này khi có yêu cầu. Chính quyền Thành
phố tính rằng, phải thu 100 năm tiền thuê nhà mới bằng khoản tiền mà Nhà nước
phải bỏ ra để sửa chữa trong hơn 10 năm đó. Trong thời gian bao cấp, ít ai để
ý, nhưng khi nền kinh tế chuyển dần sang thị trường, các nhà đầu tư nước ngoài
bắt đầu vào, nhu cầu thuê nhà xuất hiện thì sự bất hợp lý này càng bộc lộ. Giá
biệt thự cho người nước ngoài thuê ở thời điểm đầu thập niên 1990, trung bình từ
1000-3000 USD/tháng/căn, có khi lên tới 6.000 USD, chủ nhà lại thường được trả
trước một năm tiền nhà với một khoản tiền đủ để đi mua nhà mới. Thành phố điều
chỉnh bằng quy định, “điều tiết” một phần tiền từ những người này với mức tối
đa 25.000 đồng/m2 15 USD/m2.
Chính sách bao cấp đã làm cho diện
tích bình quân về nhà ở ở Sài Gòn giảm từ 8m2/người năm 1945 xuống
còn 5,1m2/người năm 1989. Với tốc độ tăng dân số bình quân mỗi năm
là 100.000 người, để giữ được diện tích tối thiểu của năm 1990: 5m2/người,
mỗi năm Thành phố phải xây mới 500.000m2 nhà ở. Trong khi, theo thống
kê của Sở Nhà đất, 15 năm “sau ngày giải phóng”, Thành phố chỉ xây được từ
150.000 đến 175.000 m2 nhà ở/năm.
Ở thời điểm năm 1990, Thành phố có
43.000 căn nhà lụp xụp, rách nát, trong đó có 17.000 căn hộ sống trên kênh rạch
ô nhiễm nặng cần phải cải thiện hoặc giải tỏa. 15 năm sau ngày “giải phóng”,
trong số 185 hộ ở Cầu Ván, một vùng nghèo ở vùng ven, chỉ có một hộ thay được
mái lá bằng mái tôn, loại tôn cũ gỡ lại. Ở phường 12, quận Bình Thạnh, năm
1990, có 1.200 người sống trong 300 căn hộ dựng tạm trên nghĩa địa, không nước,
không điện. Toàn Thành phố còn hơn 10.000 người sống lang thang dọc các vỉa hè
hoặc gầm cầu.
Từ cuối năm 1989, Thành phố chủ
trương tìm nguồn vốn bằng cách bán những căn nhà đang cho thuê này cho những
người đang thuê những căn nhà đó, chủ yếu họ là cán bộ, công nhân, với giá nhà
nước, thấp hơn nhiều so với giá thị trường, gọi là hóa giá nhà.
Theo ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp, khi ấy
là Chủ tịch Thành phố: “Đoàn của Hội đồng Bộ trưởng đã đồng ý cho phép Thành phố
làm và khuyến khích khẩn trương làm. Ngày 9-2-1990, Ủy ban Nhân dân Thành phố
ra thông báo về chỉ đạo này của Hội đồng Bộ trưởng để các nơi tích cực chuẩn bị
tổ chức thực hiện”. Từ đó cho tới tháng 7-1991, theo Báo cáo của giám đốc Sở
Nhà đất: đã có 12.000 đơn xin hóa giá nhà cấp III, IV; các ban chỉ đạo hóa giá
nhà đã hoàn tất 3.349 hồ sơ, trong đó đã thu tiền bán 1.761 căn nhà; trong số
này, có 87 căn nhà theo diện chính sách được cấp không.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng
6-1991, ông Đỗ Mười trởthành tổng bíthư, ông Võ Văn Kiệt, tuy chưa chính thức
được Quốc hội bỏ phiếu bầu, nhưng theo sự phân công của Đảng đã trở thành người
thay thế ông Đỗ Mười đứng đầu Chính phủ. Theo ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Thành phố
cử ba cán bộ phụ trách lĩnh vực - ông Nguyễn Văn Huấn, ủy viên Ban Thường vụ
Thành ủy, phó chủ tịch Ủy ban Phụ trách nhà đất; Ông Lê Văn Năm, ủy viên Ủy
ban; Ông Lê Thanh Hải, giám đốc Sở Nhà đất - ra Hà Nội xin ý kiến Thường vụ Hội
đồng Bộ trưởng và Bộ Xây dựng cho hóa giá nhà cấp I, II và biệt thự”. Đây là những
cán bộ đã từng có mối quan hệ gần gũi với ông Võ Văn Kiệt và sau khi tiếp xúc,
cả chính thức và tại nhà riêng, Đoàn về báo cáo với Thường vụ Thành ủy, Thường
vụ Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Xây dựng đồng ý cho thành phố làm.
Sáng 12-7-1991, trong một cuộc họp có
báo chí tham dự, Chủ tịch Nguyễn Vĩnh Nghiệp chỉ thị phải tăng nhanh tiến độ
hóa giá nhà để đến cuối tháng 9-1991 phải hóa giá xong nhà cấp III, IV. Ngày
30-7-1991, Thành phố ra Quyết định “hóa giá nhà cấp I, II và biệt thự”.
Hàng trăm căn biệt thự đã được bán ra
với giá vô cùng rẻ mạt. Thế nhưng, để có tiền mua hóa giá, nhiều người đã phải
“bán lúa non” cho người khác với giá cao hơn hàng chục lần so với giá thực trả
cho Nhà nước. Thanh tra phát hiện ra bốn trường hợp bán lại, trong đó có những
trường hợp đã kịp bán lại hai lần trong những tuần đầu. Một trong những người
bán lại sớm nhất nhà hóa giá là Đại tá Lê Hãn, con trai trưởng Tổng Bí thư Lê
Duẩn.
Khi được điều vào Quân khu VII, ông
Hãn được cấp một căn biệt thự có khuôn viên rộng trên đường Nguyễn Thông, giữa
trung tâm quận Ba. Ngay sau khi “hóa giá”, ông Lê Hãn đã bán lại căn nhà này với
khoản chênh lệch giá lên tới 1,6 tỷ, một khoản tiền khổng lồ lúc đó. Ông Lê
Thanh Hải nói: “Tôi biết là có chuyện liền gửi thư cho Lê Hãn nói đừng làm thế,
nhưng Lê Hãn không nghe”.
Khi cho cán bộ công nhân viên thuê
nhà, thực chất là Nhà nước đã trả lương cho những cán bộ, công nhân đó một khoản
tiền lương bằng hiện vật. Nhưng, có tới 70% cán bộ, công nhân viên và lực lượng
vũ trang trên cả nước không được cấp nhà, nghĩa là không được hưởng phần lương
bằng hiện vật này. Trong số 30% được cấp nhà ấy, phần lớn sống tại các thành phố
phía Nam, đặc biệt là Sài Gòn.
Trừ một số vị công thần của Đảng, đa
số cán bộ ở Hà Nội, đầu thập niên 1990 chỉ được sống trong những căn hộ chật hẹp,
hoặc có khi, hàng chục hộ chia nhau một căn biệt thự. Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn
Đình Lộc và Chủ tịch thành phố Hà Nội Hoàng Văn Nghiên khi nhận chức đều đang sống
trong những căn hộ chỉ có 24m2. Trong khi, chỉ cần cán bộ cấp sở ở
Sài Gòn cũng đã có thể được cấp những căn biệt thự có khuôn viên rộng hàng trăm
mét. Con số chênh lệch giá lên tới hàng trăm lượng vàng sau khi được hóa giá
nhà trở thành những thông tin làm rúng động cả nước. Ông Nguyễn Văn Huấn nói:
“Bà Ngô Bá Thành cho rằng Thành phố tham nhũng tập thể. Nhiều ý kiến nói Thành
phố chia chiến lợi phẩm, cướp công trạng của cả dân tộc, chia chác xương máu của
cả nước”.
Ngày 13-9-1991, Hội đồng Bộ trưởng có
công điện yêu cầu Thành phố đình hoãn việc hóa giá nhà. Nhưng, như đã đâm lao,
Thành phố không thể dừng lại ngay vì sức ép của chính các cán bộ đang ở trong
những căn nhà mà nếu được hóa giá ngay lập tức họ trở thành triệu phú. Nếu như,
trong khoảng từ 30-7 đến 13-9-1991, Thành phố chỉ hóa giá được 465 căn nhà cấp
I, II và biệt thự, thì chỉ bảy ngày sau khi có lệnh ngưng của Hội đồng Bộ trưởng,
từ ngày 13 đến 19-9-1991, số nhà được hóa giá lên tới 991 căn.
Bộ Chính trị triệu tập lãnh đạo Thành
phố, Bí thư Võ Trần Chí, Phó Chủ tịch Trương Tấn Sang và Giám đốc Sở Nhà đất Lê
Thanh Hải, ra Hà Nội. Những người ở hậu trường biết rõ, mũi tên hóa giá nhà chủ
yếu nhắm thẳng vào ông Võ Văn Kiệt. Ông Võ Văn Kiệt lúc đó buộc phải nói rằng
những người gặp ông hồi đầu tháng 7-1991 đã hiểu sai câu nói của ông, Hội đồng
Bộ trưởng chưa có chủ trương cho hóa giá nhà cấp I, II và biệt thự.
Trước áp lực chất vấn của Quốc hội
(ngày 20-12-1991), Bộ trưởng Xây dựng Ngô Xuân Lộc nói: “Việc hóa giá nhà cấp
III, IV là hợp lệ vì Hội đồng Bộ trưởng đã cho phép. Tuy nhiên, hóa giá nhà cấp
I, II và biệt thự thì Hội đồng Bộ trưởng chưa có chủ trương. Việc Ủy ban Nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh ký quyết định cho hóa giá là vượt thẩm quyền”. Ông Lộc
còn cho rằng: “Chúng ta đang điều hành Nhà nước theo pháp luật nhưng đấy là một
việc làm sai pháp luật, gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước. Hội đồng Bộ
trưởng tiếp tục yêu cầu hoãn hóa giá nhà cấp I, II; những người đã mua, đã có
chủ quyền, tạm thời không được bán; khẩn trương xác định danh sách khu vực nhà
không được bán để thu lại những nhà đã hóa giá”.
12-1991 của Thành phố nói rằng “việc
hóa giá nhà, Thành phố chỉ làm sau khi có thỉnh thị ý kiến của Hội đồng Bộ trưởng
và Bộ trưởng Bộ Xây dựng”. Gần hai mươi đại biểu có ý kiến ngay sau đó, nhiều
người đòi “đặt vấn đề hóa giá nhà của Thành phố trong bối cảnh chống tham
nhũng” để xử lý, nhất là với những cán bộ đương chức được hóa giá nhà với giá rẻ
có thể bán lại thu lợi hàng trăm lượng vàng. Chánh án Phạm Hưng, Phó Chủ nhiệm Ủy
ban Pháp luật Nguyễn Tài, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Ngô Bá Thành, đòi “vụ việc
phải được xử lý trước pháp luật”.
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt
phải xuất hiện, ông nói: “Tôi tán thành với ý kiến của các đại biểu và đề nghị
Quốc hội lập một đoàn thanh tra, nếu phát hiện sai phạm pháp luật thì xử lý
theo pháp luật”. Các đại biểu Quốc hội cho rằng lập đoàn thanh tra là cần thiết
để xử lý các sai phạm, để thu hồi tài sản thất thoát và đòi Quốc hội phải ra một
nghị quyết bày tỏ thái độ.
Lúc ấy, nhiệm kỳ của “tam nhân” chỉ mới
bắt đầu, sức ép đã đủ để ông Võ Văn Kiệt có những bước lùi. Về mặt công khai,
Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo cho trì hoãn việc Quốc hội ra nghị quyết bằng
cách hứa là Hội đồng Nhà nước sẽ ra quyết định. Ông Võ Văn Kiệt vượt qua được
sóng gió nhưng đã phải chịu những tổn thất lớn trong tình cảm với những người bạn
ở Sài Gòn.
Đường dây 500
Không còn như thời kỳ “nhà nước đảng”.
Bắt đầu từ thập niên 1990, Chính phủ trực tiếp ban hành và trở thành trung tâm
điều hành các chủ trương, chính sách lớn. Một trong những chủ trương lớn của thời
kỳ đó là cho xây dựng đường dây tải điện siêu cao áp từ Nhà máy thủy điện Hòa
Bình vào miền Nam, về sau gọi là Đường dây 500 Kv.
Cuối năm 1991, miền Nam thiếu điện
nghiêm trọng, trong khi, Nhà máy thủy điện Hòa Bình, dự kiến vào năm 1995, sẽ sản
xuất ra một lượng điện mà miền Bắc không có khả năng khai thác hết. Bộ Năng lượng
tuy đưa ra hai phương án: bán sang Trung Quốc hoặc làm đường dây siêu cao áp để
tải vô Nam. Nhưng Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải vẫn nói trong Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng:
“Chúng tôi khảo sát, nếu bán sang Trung Quốc thì giá không đến nỗi nào nhưng do
phải xây dựng một đường dây 220 kV để tải điện sang nên tính ra không còn dư
bao nhiêu. Nếu chuyển điện vào miền Nam thì phải xây một đường dây siêu cao
áp”.
Việt Nam khi ấy vừa bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc, phương án bán điện cho họ cũng được một số người tán
thành. Nhưng, theo ông Kiệt: “Nam Bộ thiếu điện trầm trọng, các nhà đầu tư vào,
câu đầu tiên là hỏi về điện. Vấn đề không chỉ là Trung Quốc, trong đầu tôi
không có chuyện bán điện. Cũng may là khi bàn chuyện bán điện, có người phản ứng,
miền Bắc thiếu gạo thì miền Nam đưa ra, bây giờ miền Nam thiếu điện, không lẽ
miền Bắc đưa bán sang Trung Quốc”. Theo ông Vũ Ngọc Hải: “Ông Kiệt nói: Tôi còn
làm Thủ tướng thì không bán điện đi đâu cả”. Ông Kiệt quyết định sớm làm đường
dây siêu cao áp để đưa điện vào Nam. Chủ trương này được Tổng Bí thư Đỗ Mười đồng
tình.
Về mặt thủ tục, ông Võ Văn Kiệt thừa
nhận, quá trình hình thành chủ trương xây dựng đường dây 500 kV cũng có những
thiếu sót. Ông Kiệt nói: “Tôi và ông Đỗ Mười trao đổi, hai bên thống nhất lắm.
Hai, ba lần họp Bộ Chính trị, ông Mười nhắc: Anh Kiệt nên làm gấp đường dây
500. Nhưng, ông Mười không bao giờ cho bàn chính thức để đi đến một quyết nghị
của Bộ Chính trị. Thế rồi, khi anh Nguyễn Văn Linh hỏi anh Đỗ Mười: Chủ trương
đâu, thì té ra, trong Bộ Chính trị cũng có nhiều người không đồng tình, tỏ ra bực
bội, nói ông Kiệt tự ý làm. Anh Mười im lặng. Ông Linh dựa vào đó nạt mình”.
Trước Tết năm 1992, nghĩa là ở thời
điểm mà chủ trương đã hình thành, Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn, một Việt kiều ở
Pháp, nêu ra ba nghi vấn về đường dây 500 kV: Đường dây dài gần 1.500 km, tạo
ra chênh lệch 1/4 bước sóng cho nên không thể tải điện đi miền Nam; Chưa có luận
chứng mà đặt mục tiêu thi công trong hai năm là không tưởng; Giá thành sẽ rất
cao, về mặt hiệu quả kinh tế là không có. Nhà báo Minh Thu kể: “Tôi đến gặp ông
không lâu sau khi có thư của ông Nhẫn. Ông đưa lá thư cho tôi coi rồi nói: Chú
đã cho thư ký photo gửi hết cho anh em. Tôi kêu lên: Trời ơi, sao chú làm thế?
Ông cười: Không có ai chỉ ra những điểm yếu của mình đầy đủ như những người phản
đối mình. Ở đây có những cảnh báo mà anh em chưa đặt ra hết”.
Ông Vũ Ngọc Hải thừa nhận: “Dù tin
anh em, ông Kiệt vẫn bị ám ảnh bởi ý kiến của Giáo sư Nhẫn”. Ông Kiệt triệu tập
khẩn cấp ông Vũ Ngọc Hải. Ông Hải nói: “Tôi thức trắng một đêm, xem tài liệu và
tự mình tính toán. Việc xử lý chênh lệch 1/4 bước sóng bằng năm trạm bù đã được
các chuyên gia nước ngoài thẩm định. Tôi quyết định ký và đảm bảo với Thủ tướng:
Anh an tâm, tôi lo nhất là vấn đề an ninh chứ không phải là an toàn. Anh đảm bảo
vấn đề an ninh, vấn đề kỹ thuật, tôi đảm bảo. Ông Kiệt quyết định và nói: Cứ
làm, nếu thất bại thì không đợi cách chức, tôi sẽ chủ động từ chức”.
Nhưng lá thư của ông Nhẫn đã được những
người phản đối công trình khai thác. Theo ông Vũ Ngọc Hải, ông Nguyễn Văn Linh
vốn ủng hộ phương án bán điện, lấy tiền xây nhà máy nhiệt điện ở miền Nam,
nhưng trước đó, chưa có đủ lập luận để phản bác. Sau khi có được lá thư của ông
Nhẫn, từ miền Nam, bà Ngô Bá Thành, người được ông Nguyễn Văn Linh đưa lên chức
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội, nói gần nói xa: Làm đường dây 500 là tự
sát. Ông Đỗ Mười lúng túng.
Trụ điện đầu tiên của công trình đường
dây 500 kV được khởi công vào ngày 1-3-1992. Ông Võ Văn Kiệt đã “đổ thêm dầu
vào lửa” khi, ngày 24-3-1992, ngày Quốc hội khóa VIII khai mạc kỳ họp cuối
cùng, ông bay lên Hòa Bình dự lễ khởi công công trình xây dựng cột điện ở nơi
khởi nguồn của đường dây. Ông Nguyễn Hà Phan nói: “Bữa ông đi khởi công, tôi
khuyên: Anh đợi tới chiều hẵng đi, dự khai mạc Quốc hội đã. Nhưng ông vẫn đi.
Bà Nguyễn Thị Bình, Phó Chủ tịch nước nói: Ông này bất kể thiên địa. Một ông rất
to trong Quốc hội lo: Gió bão nó đổ một cây cột thì ai chịu? Chủ tịch Quốc hội
Lê Quang Đạo nói với tôi: Sáu Phan à, làm cái này coi bộ vướng”.
Trong khi đó, Hà Nội nhận được những
tín hiệu mà Cố vấn Nguyễn Văn Linh phát ra từ Sài Gòn. Khi không chính thức đưa
công trình đường dây 500 ra bàn ở Bộ Chính trị, ông Đỗ Mười cũng có những tính
toán. Năm 1989, hai lần ông Đỗ Mười cho thảo một nghị quyết để Bộ Chính trị hoặc
Ban Chấp hành Trung ương thông qua, hợp thức hóa chủ trương chống lạm phát bằng
“lãi suất cưỡi sóng” của ông, nhưng cho dù ủng hộ, ông Nguyễn Văn Linh lờ đi.
Chỉ khi làm thí điểm ở Hải Phòng có kết quả, Hội nghị Trung ương 6 khóa VI mới
đưa vấn đề chống lạm phát vào Nghị quyết.
Không phải ông Võ Văn Kiệt không biết
tình huống chính trị này, nhưng khi không hối thúc ông Đỗ Mười chính thức có chủ
trương, ông Kiệt cũng có những cân nhắc. Ông Kiệt không muốn tạo tiền lệ Chính
phủ làm gì cũng phải được bàn trước trong Bộ Chính trị và phải xin ý kiến Quốc
hội. Việc ông Kiệt phát lệnh khởi công một công trình lớn ba tuần
trước khi Quốc hội khóa VIII họp kỳ cuối cùng đã làm mếch lòng rất nhiều đại biểu.
Ngày 13-4-1992, trong phiên họp toàn
thể của Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Giáo
sư Vũ Đình Cự nói: “Ủy ban chúng tôi đã phải làm một việc rất khó khăn vì phải
phát biểu ý kiến về một công trình quan trọng, nhân dân cả nước quan tâm, đã có
quyết định của Hội đồng Bộ trưởng và lại vừa được cử hành lễ khởi công rất trọng
thể ở nhiều nơi trong nước”.
Hội đồng Thẩm tra Nhà nước chỉ làm việc
trong một ngày, vậy mà đến ngày 19-2-1992 đã trình lên Hội đồng Bộ trưởng để
phê duyệt. Từ đó dẫn đến một số khiếm khuyết. Nhiều vấn đề khoa học kỹ thuật và
công nghệ chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo... Chúng tôi xin nói thêm là
khi đề nghị các chuyên gia đầu ngành về kỹ thuật điện cho biết là đã có những
nước nào làm đường dây 500 kV dài trên 1000 cây số, thì các đồng chí không nắm
vững; có một đồng chí cho biết đường dây của chúng ta là đường dây thứ ba. Trên
thế giới mới có hai đường dây trên dài trên 1000 cây số và điện áp là siêu cao
áp. Sau khi xây dựng chỉ có đường dây của Pakistan, dài 1200 cây số là dùng được,
còn đường dây kia, dài 1700 cây số thì không dùng được”. Đặc biệt, theo ông Vũ
Đình Cự: “Chưa có cơ sở về khả năng thi công hoàn thành đúng thời gian trong
hai năm khi mà nguồn vốn chưa được xác định vững chắc, vật tư chủ yếu đều phải
nhập ngoại”.
Một thành viên của Hội đồng Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước Đặng Hữu, cũng dấy lên không ít hoài nghi
khi ông nói trước Quốc hội: “Chủ trương đặt ra là cần thiết nhưng, có nhiều vấn
đề khoa học chúng ta chưa kịp nghiên cứu. Anh em cũng hơi băn khoăn lo lắng…
Cái phần 1/4 bước sóng, tôi đồng ý như anh Nguyễn Đình Tứ đã nói. Thực ra, về
lý thuyết anh em hiểu hết và trên thực tế các nước đã làm rất nhiều ở Liên Xô
và Mỹ. Nhưng vấn đề lại là chúng ta chưa có đội ngũ chuyên gia để làm những
công việc đó. Lo là lo chỗ đấy!… Nếu như làm một cái trụ thôi thì có lớn hơn
chúng ta cũng có thể làm được. Nhưng mà đây là làm một dãy dài hơn 3.000 cái trụ
trong một thời gian ngắn. Mặt thứ hai, nếu dựa vào nước ngoài một nửa thì hôm
trước anh Hiệu có đề xuất với anh Sáu (Võ Văn Kiệt), anh Sáu cũng đồng ý có thể
mời chuyên gia Liên Xô cùng tham gia vào đây”.
Nhưng hai tiếng “chuyên gia Liên Xô”
được nói lên ở thời điểm này lại dấy lên những quan ngại khác. Bí thư Trung
ương Đảng, Viện trưởng Viện kiểm sát Tối cao Trần Quyết nói: “Liên Xô trước đây
thì chúng ta rất an tâm bởi vì là nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản cầm quyền,
bây giờ Đảng Cộng sản mất rồi, chính quyền Xô viết mất rồi. Những chuyên gia mà
lại là đảng viên cộng sản thì còn được dùng không? Có được gửi sang Việt Nam
không? Hay người ta gửi những thứ ba vạ sang đây, mang tiếng chuyên gia Liên
Xô. Cái ông Yeltsin ấy, Quốc hội chẳng lạ lùng với những gì họ làm ở nước Nga.
Họ phá tan Đảng Cộng sản, phá tan Liên bang Xô viết. Vậy thì đối với Việt Nam thì
như thế nào”.
Tháng 8-1992, tại Hội nghị Cán bộ tổ
chức toàn quốc, họp tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Linh, bấy giờ
đang là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương đến dự đã nói: “Làm đường dây 500 kV là
một chủ trương phiêu lưu, mạo hiểm. Là lợi dụng tiền Nhà nước để gây thanh danh
cá nhân”. Đặc biệt tại đây, ông Linh đã dấy lên những lo ngại về vấn đề tham
nhũng.
Nữ nhà báo Minh Thu nhớ lại: Đầu thập
niên 1980, khi lên Trị An làm phóng sự, bà chứng kiến một nhóm cán bộ đứng
trong rừng trước một tấm bản đồ. Chính giữa họ là một người đàn ông trạc 60 tuổi,
phong trần, mặc áo may ô, đang nói rất say sưa: “Tôi nói với mấy anh rằng, xây
dựng một công trình như thế này mà tham ô, ăn cắp, thì cũng như ăn đồ dơ”. Ông
chấm dứt câu nói bằng một cú chém tay rất mạnh ngang trong không khí. Minh Thu,
một phóng viên mới vào nghề, sau đó mới biết đó là Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt.
Hơn mười năm sau khi bắt đầu đường
dây 500 kV, ông Kiệt cũng căn dặn “các tướng” của mình là “không được tắt mắt”.
Ngày 24-3-1992, khi ông Kiệt lên xã Mạc Đức, Hòa Bình làm lễ khởi công trụ điện
số Một, một công nhân đã bỏ vào túi ông Vũ Quốc Tuấn, thư ký ông Kiệt, một lá
thư tố cáo vụ mất cắp năm tấn xi măng ở công trường. Ông Vũ Ngọc Hải nói: “Ông
Tuấn báo với ông Kiệt, ông Kiệt đọc và nói với tôi: Phải xử lý ngay để làm
gương”. Vừa bắt đầu ra quân đã phải trảm tướng: Giám đốc Công ty xây lắp Điện I
bị cách chức.
Về sau, chính tác giả của đường dây
500, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải cũng phạm phải một sai lầm chết người.
Ban Quản lý công trình do ông Hải đứng đầu có thẩm quyền nhập thẳng thiết bị, vật
tư từ nước ngoài. Nhưng, ông Hải đã đồng ý cho một “công ty đời sống” của Hội hữu
nghị Việt Nam - Ba Lan mà ông làm Chủ tịch, đấu thầu đứng ra nhập 4.000 tấn
thép, giúp công ty này hưởng một khoản lời khá lớn. Công trình đường dây 500
lúc ấy có hàng chục nghìn công nhân nhưng đồng thời cũng có hàng triệu con mắt
để ý đến từng chi tiết. Áp lực chính trị đè nặng lên ông Võ Văn Kiệt khi có nhiều
ý kiến yêu cầu bỏ tù ông Hải.
Ông Vũ Ngọc Hải lúc bấy giờ đang là một
ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, theo nguyên tắc Đảng, việc khởi tố ông chỉ có
thể tiến hành sau khi Trung ương họp quyết định hình thức kỷ luật. Ông Hải kể:
“Hôm Trung ương họp để kỷ luật tôi, họ có mời tôi đến nhưng tôi không
được vào phòng họp ngay. Một chuyên viên của Văn phòng Trung ương đợi tôi ở
cổng số 4 Nguyễn Cảnh Chân, kèm tôi đi vào một phòng riêng, đợi đến khi Hội
nghị Trung ương khai mạc mới cho tôi vào dự. Trước Hội nghị Trung ương, tôi
thừa nhận đã ‘bút phê’ để công ty của Hội có thể tham gia đấu thầu và cho rằng
việc đó không có gì sai pháp luật. Nếu là một công ty khác, tôi vẫn giới thiệu”.
Trình bày xong, người của Văn phòng Trung ương lại đến bên ông Hải nói:
“Theo yêu cầu của Ban Bí thư, mời anh về”.
Ông Hải không được có mặt trong phần
“luận tội” sau đó. Thủ tướng Võ Văn Kiệt thấy “cách làm không dân chủ” cũng bỏ
về. Theo Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Lê Xuân Trinh: Cuộc họp do ông
Đỗ Mười chủ trì. Thứ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Tâm Long chỉ nói một câu:
“Nếu không khởi tố anh Hải với anh Lê Liêm thì vụ án coi như bỏ đi”.
Ông Đỗ Mười kết luận: “Cứ khởi tố, nếu điều tra xong mà không thấy
vấn đề gì thì thôi”. Sau Hội nghị Trung ương, ông Đỗ Mười cho gọi Bộ trưởng
Nội vụ Bùi Thiện Ngộ và Chánh án Tối cao Phạm Hưng lên, quán triệt: “Đây
là Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, các anh chấp hành”.
Sau đó, theo ông Vũ Ngọc Hải, ông
Nguyễn Văn Linh có ra Hà Nội gặp ông Lê Thanh Đạo, viện trưởng Viện Kiểm
sát Nhân dân Tối cao. Cáo trạng, được điều chỉnh từ khung 1, cảnh cáo, lên
khung 2, có mức án từ ba năm tù trở lên. Ông Hải sau đó lãnh án 3 năm tù
giam. Thứ trưởng Lê Liêm lãnh án tù treo.
Mất tướng giữa đường, ông Võ Văn Kiệt
càng quyết tâm cao hơn để hoàn thành công trình. Ông có mặt ở những nơi cam go
nhất. Ông chứng kiến những công nhân gùi vật tư leo lên đèo Lò Xo, đầu người đi
sau chạm vào gót chân người đi trước. Thay vì dùng trực thăng kéo cáp như Thái
Lan, ông chứng kiến cảnh công nhân cầm bó mía đi trước dụ con voi đang cong
lưng kéo những đoạn cáp mồi. Đường dây hoàn thành đúng tiến độ. Nhưng chính đây
lại là thời điểm ông Kiệt lo lắng nhất: Đóng điện.
Chiều ngày 27-5-1994, báo chí túc trực
trước cổng Tổng công ty Điện lực Việt Nam, ông Kiệt đến từ cổng sau. Gần 6 giờ
mà báo chí vẫn chưa được vào. Nhà báo Minh Thu kể: “Tôi viết vào một mảnh giấy
nhỏ: Xin chú cho quay làm tư liệu thôi. Sát giờ đóng điện, ông nói với Điện lực:
Cho truyền hình vào. Tôi là người duy nhất có mặt. Khi ấy ông vẫn rất căng thẳng,
môi ông khô khốc, miệng há hốc, ngước nhìn lên bảng điện. 19 giờ 07, đèn bật
sáng, báo: Phú Lâm đã nhận được dòng điện đúng như tính toán. Ông thở phào bước
lên phòng tiếp tân. Người đầu tiên mà ông đi tới, ôm lấy, là Thứ trưởng Lê
Liêm, đang thụ án treo. Ông Liêm, khi ấy đã ngoài 60 tuổi, mếu máo trong vòng
tay Thủ tướng”.
Sáng hôm sau, vào lúc 5 giờ sáng ở trại
giam Thanh Xuân, phạm nhân Vũ Ngọc Hải đang tập thể dục ở sân thì một Trại
phó chạy tới bảo: “Anh Hải về mặc quần áo nhanh lên, Thủ tướng vào
thăm đấy”. Ông Hải nhớ lại: Tôi thay đồ, lên phòng khách, Thủ tướng đã
ngồi đó. Ông mang theo hai chai sâm banh, ba chiếc ly, vì sợ trong tù
không có ly. Ông đứng dậy nắm chặt tay tôi, hỏi tôi có khỏe không, sinh
hoạt ra sao. Trầm ngâm một chút, ông hỏi: “Có biết vì sao mình vào
không?”. Tôi bảo: “Tôi biết hôm nay đóng điện, chỉ không biết đóng vào
giờ nào thôi! Nhưng tôi tin là đóng điện đã thành công”. Ông bảo: “Mấy
hôm nay mình mất ngủ vì lo”. Tôi hỏi: “Thế còn tối hôm qua anh có ngủ
được không?”. Ông nói: “Cũng mất ngủ vì vui sướng quá!”. Rồi ông gắn
huy hiệu đường dây 500KV cho tôi. Ông bảo: “Anh là người đầu tiên được
gắn huy hiệu này đấy”. Ông tự tay rót ba cốc sâm banh, một cốc đưa cho
tôi, một cốc đưa cho Giám thị trại giam. Chúng tôi cùng chạm cốc. Còn
một chai nữa, ông đưa cho tôi: “Hải cầm lấy”.
Phạm nhân được giữ lại trong trại cho
đến khi Thủ tướng về. Khi vừa ra khỏi phòng, họ giơ tay chào ông Hải, có
người hỏi: “Bộ trưởng vừa mới tiếp Thủ tướng à?”. Ông Hải: “Bộ
trưởng cái cóc khô”. Nhưng rõ ràng là ông Hải đã ở tù như bộ trưởng. Ông Hải
kể: “Khi tôi nhập trại, ông Lê Minh Hương, khi đó là thứ trưởng Bộ Nội
vụ vào kiểm tra trại giam và cho giải phóng một cái trạm xá cũ để
tôi vừa ở vừa tiếp khách. Cái trạm xá này một nửa nằm trong trại, một
nửa nằm nhô ra khu tập thể của cán bộ trại. Hằng ngày, khách đến thăm
tôi nhiều nên anh em bố trí một phòng gần phòng làm việc của cán bộ
trại giam. Đồng thời bố trí một phạm nhân phục vụ, cứ có khách đến
đăng ký thì họ lại gọi tôi lên phòng đó tiếp khách, tiếp không có
công an ngồi kèm đâu. Trong thời gian tôi ở tù, ngoài Thủ tướng, Phó
Thủ tướng, có hai mươi tám bộ trưởng, thứ trưởng và hai phu nhân bộ trưởng
cũng vào thăm”.
Sau Tết năm 1995, Phó Thủ tướng Phan
Văn Khải vào thăm. Ông Hải kể: “Anh Khải đem hai chai rượu, nói: Đây là
cơ quan tặng cậu. Rồi anh lấy ra một chiếc áo rét: Cái này của tớ.
Rồi rút ra một bao lì xì đỏ: Còn đây là của vợ tớ lì xì cậu! Anh
Khải bảo: “Đường dây 500KV đóng điện thành công thế mà có vị vẫn
phản đối đấy”. Tôi nói: “Cái này thì tôi biết. Khi mới bị khởi tố,
tôi vào Thành phố Hồ Chí Minh, đến chơi nhà vợ chồng ông Mười Hải, một
người cũng vừa bị khởi tố trong vụ án khác, ông Mười Hải nói: “Vị
ấy đã đồng ý sẽ thả tớ, nhưng cậu sẽ chết”.
Sau khi vào trại gắn huy hiệu cho
ông Hải, ông Kiệt tác động để ông được tha. Ông Nguyễn Văn Linh nghe tin, điện
cho ông Đỗ Mười ngăn chặn. Ông Mười nói với ông Kiệt: “Tình hình chưa thể
cho anh Hải ra trước Tết được”. Ông Kiệt nói: “Ta có bản lĩnh của ta,
vì sao lại phải sợ?”. Ông Mười: “Thôi cứ để sau Tết”. Sau Tết ông Hải
được đặc xá cùng với hàng ngàn phạm nhân khác. Lần đầu tiên, lệnh đặc xá được
Hà Nội áp dụng, ở Sài Gòn, ông Nguyễn Văn Linh nói: “Đây là con bài để tha
thằng Hải!”.
Đường dây 500 kV thành công nhưng Ban
Bí thư không đồng ý cho làm lễ khánh thành. Một người thư ký cũ của ông Kiệt
lúc bấy giờ là Phó Chủ tịch trực Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, ông
Nguyễn Văn Huấn, nói: “Chẳng lẽ không làm gì? Tôi nói với anh Sáu Dân: Để tôi
làm cho. Anh Sáu dặn, không được lấy một cắc từ ngân sách. Tôi huy động Hàng
không, Sài Gòn Tourist tài trợ, tổ chức một bữa tiệc mời 600 quan khách. Trước
Dinh Độc Lập treo băng-rôn: Thành phố Hồ Chí Minh mừng dòng điện 500 kV ”.
Nhà báo Minh Thu kể: “Tôi vào Dinh,
không có một quan chức nào của Ban Bí thư hay Bộ Chính trị vào dự. Thấy ông ngồi
một mình, tôi đến, hỏi: Chú, cái nhà trẻ xây xong còn có lễ khánh thành, sao một
công trình thế này mà không có ngày khánh thành hả chú. Ông kéo tôi ngồi xuống:
Thôi, đóng điện an toàn là tao mãn nguyện lắm rồi”.
Suốt buổi lễ, ông Kiệt im lặng. Một
diễn từ cực ngắn được ông Nguyễn Văn Huấn đọc: “Cái tên Phú Lâm giờ đây đã trở
nên quen thuộc, thân thương. Bởi, Phú Lâm là điểm cuối cùng của đường dây huyết
mạch nối liền với Hòa Bình. Sức mạnh sông Đà qua Phú Lâm tỏa khắp phương Nam,
làm đẹp, làm giàu thêm, miền đất Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh có thêm điều
kiện mới để tiến lên trong vận hội mới. Cho phép tôi được thay mặt đồng bào
Thành phố gửi tới hai vạn người anh hùng, vẫn đang đứng trên công trường, bất
chấp tất cả”. Nhiều năm sau, khi kể lại câu chuyện này, ông Nguyễn Văn Huấn vẫn
tỏ ra vô cùng tâm đắc với câu: Bất chấp tất cả!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét