Phần I: Miền Nam
Chương III: Đánh tư sản
Sau
khi hàng trăm ngàn binh lính đã được “học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của
mình, còn các sỹ quan thì đã bị giữ trong các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động
bởi chiến dịch đánh tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản,
đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở
miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua
hai lần bị “đánh”.
“Chiến dịch X-2”
Vào
lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn họp
báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt
Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối
thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi Văn Lự, nhập
cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy; Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm gai cho quân đội
Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền xuất cảng cà phê…”. Hơn bảy giờ trước
đó, phần lớn các đối tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên đánh đợt đầu đã bị
bắt.
Theo
ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục, danh sách “tư sản mại bản”
bị đánh trong đợt này chủ yếu tham khảo từ một tài liệu về “Chính sách hậu chiến”
được viết năm 1974 của Chính quyền Sài Gòn, trong đó có phần đánh giá vai trò
lũng đoạn thị trường của các “vua” người Hoa ở Chợ Lớn. Giờ G của Chiến dịch
X-2 lúc đầu được định là 5 giờ sáng ngày 10-9-1975, sau do trục trặc trong “hợp
đồng tác chiến”, tin tức bị lọt ra, nên phải triển khai từ lúc 12 giờ khuya
ngày 9-9-1975. Hơn 10.000 công nhân, học sinh, sinh viên đã được điều động áp
sát các mục tiêu. Hàng vạn “quần chúng” khác được đưa xuống đường để gây áp lực
về dư luận.
Về
lý luận, “tư sản mại bản” được chính quyền cách mạng coi là “địch” nên phương
thức mà Chiến dịch X-2 tiến hành được xác định rõ là “đánh”. Tài liệu đã dẫn viết
tiếp: “Phản ứng của địch nói chung là yếu. Tư sản mại bản đối phó chủ yếu bằng
cách phân tán tài sản cho bà con thân thuộc. Số đã bị bắt thì tuy hoang mang, sợ
sệt nhưng lại tiếc của nên ngoan cố, không chịu khai ra của chìm, tiền bạc, hột
xoàn”.
Tối
10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung
ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các
đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng,
cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con
gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày” ở Thủ Đức. Một nhà tư sản
đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con
trai ông ta bị bắt để buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị
lọt ra, một số nhà tư sản đã kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn
bị trốn.
Trong
buổi giao ban của Thường vụ Trung ương Cục vào lúc 7 giờ tối ngày 10-9-1975, tại
Dinh Độc Lập, với sự có mặt của ông Phạm Hùng, bí thư Trung ương Cục, ông Nguyễn
Văn Trân, ủy viên thường vụ, cùng các lãnh đạo Quân quản như Nguyễn Võ Danh,
Phan Văn Đáng…, ông Mai Chí Thọ cho rằng các đoàn, các đội chỉ mới bắt được đối
tượng, mới nắm được tài sản nổi chứ chưa lấy hết tài sản chìm. Ông Mai Chí Thọ
tuyên bố: “Một tên tư sản Hoa có thể có từ 500 đến 1 ngàn lượng vàng. Qua chiếm
lĩnh và khai thác ta mới hỏi sơ chứ chưa lục xét, chưa truy sâu nên có thu được
vàng và ngoại tệ, nhưng so với số chúng đã có thì chưa bao nhiêu. Vì vậy, các
đoàn cần đi sâu lục soát hơn nữa trong nhà chúng để truy vàng bạc và ngoại tệ.
Phải dựa vào quần chúng, người làm công ở mướn phát động họ để phát hiện nơi giấu
cất”. Một tuần trước khi Chiến dịch X-2 diễn ra, do vật giá tăng quá cao, chính
quyền đã “đánh” một số đối tượng bị quy là lũng đoạn thị trường, nhất là thị
trường bột ngọt.
Đổi tiền
Sau
“Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao,
chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của
chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”.
Nhằm “giáng
tiếp những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của
chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.
Đổi
tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà Trung ương
Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ tiền tệ mới; ngăn chặn
giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị trường, đồng thời tước
đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát”.
Với nhận thức tiền còn là “phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”,
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền
hạn chế. Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn
cũ”- 500 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới Ngân
hàng Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể được đổi mỗi
người 15.000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải được đổi
100.000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi
từ 100.000 đến 500.000 đồng; khách vãng lai, mỗi người được đổi 20.000, số còn
lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên lai về địa phương giải quyết. Các hộ kinh
doanh và hộ gia đình nếu có nhiều tiền hơn mức được đổi ngay thì phần còn lại sẽ
quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ tiết kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc
gia Việt Nam.
Chập
tối ngày 21-9-1975, ngành ngân hàng huy động 10.000 cán bộ. Bộ Tư lệnh thành
huy động 17.921 bộ đội; các quận huy động 35.000 người. Tất cả được đưa đến các
quận, các khu vực, mà không biết trước sẽ được giao nhiệm vụ gì. Họ phải kê
khai tất cả tiền bạc, tư trang mang theo người và từ đó, “nội bất xuất, ngoại bất
nhập”. Trong đêm 21-9, họ được tập huấn công tác thu đổi tiền. Đúng 2 giờ sáng
ngày 22-9-1975, họ được triển khai xuống các “bàn đổi tiền”. Theo kế hoạch,
đúng 5 giờ sáng, mọi công tác chuẩn bị phải hoàn tất. Tuy nhiên, “do điều động
một số lượng người khổng lồ và phải chuyển tài liệu xuống tận các ‘bàn’, nhân sự
lại chỉ được tập huấn vội, trong khi lại phải kê khai và xét duyệt mất nhiều thời
gian, nên công tác kê khai, đăng ký cho đến 11 giờ ngày 22-9-1975 vẫn chưa
xong. Trước tình đó, Ban thu đổi Thành phố quyết định kéo dài thời gian đăng ký
kê khai tới 21 giờ ngày 22-9-1975 và chỉ thị cho các quận coi đây là khâu quan
trọng nhất, là khâu quyết định của chiến dịch đổi tiền. Đến ngày 23-9-1975, các
nơi bắt đầu thu tiền cũ, đổi
tiền mới cho đồng bào nhưng do tình hình phức tạp, đồng bào vẫn kéo tới đăng ký
kê khai với nhiều lý do: hai ba hộ, trong một nhà [hộ ghép] chỉ mới hưởng được
tiêu chuẩn của một hộ; đến trễ hoặc đến mà nhân viên đổi tiền làm không kịp…
Trong tình hình đó, Ban thu đổi tiền phát hiện được âm mưu phân tán tiền của tư
sản nên quyết định chấm dứt việc đăng ký kê khai tại bàn”. Có những
sỹ quan đang ngồi trong trại tập trung cải tạo khi nghe thông báo đổi tiền mới
giật mình vì không ai ở nhà biết nơi giấu tiền. Năm ngày sau, Chính phủ đã phải
lập “hội đồng cứu xét từng trường hợp” và có sỹ quan từ trại cải tạo đã được
đưa về tận nhà để chỉ cho gia đình nơi giấu tiền. Quyết định đổi tiền được báo
Sài Gòn Giải Phóng coi là để kết thúc “30 năm sống dơ và chết nhục của
đồng bạc Sài Gòn”. Đồng tiền Sài Gòn bắt đầu được phát hành
ngày 1-1-1955, được Chính quyền mới gắn cho nhiều tội lỗi. Ba
ngày sau đổi tiền, báo Đảng ở Sài Gòn viết: “Miền Nam đã có một nền tiền
tệ mới, khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh đã nâng niu từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với
một niềm hãnh diện chưa từng thấy sau bao nhiêu thế kỷ mất nước,
phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại bang”. Không biết
“tủi nhục” đã mất đi bao nhiêu sau Chiến dịch X-3, nhưng rất nhiều tiền bạc của
người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn. Kể từ sáng 23-9-1975, những ai còn đồng
bạc của chính quyền Sài Gòn cũ mà chưa đăng ký thì coi như hết giá trị.
Sáng
sớm ngày 23-9-1975, ông Phạm Văn Tư chở vợ, bà Võ Thị Mai, từ thị trấn Sông
Mao, Hải Ninh, Bình Thuận vô Phan Thiết sinh. Vừa rạng sáng thì xe ông bị chặn
lại. Du kích cho biết là có lệnh không cho bất cứ ai ra ngoại tỉnh nhưng khi thấy
một bà bầu đang ôm bụng, họ hội ý rồi cho đi. Đưa vợ vào nhà bảo sanh xong, để
cô con gái Phạm Thị Mai Hoa, năm ấy lên tám tuổi ở lại, ông Tư
nhanh chóng quay về nhà. Do thường xuyên cần tiền cho trại cưa hoạt động nên
khi ấy nhà ông có tới ba bao tải tiền mặt trị giá gần 7.000 lượng vàng. Đến
nhà, ông Tư phân tán tiền định nhờ bà con mỗi người đổi giùm một ít nhưng kế hoạch
bị bại lộ. Du kích bao vây nhà ông, bắc loa tuyên bố: “Nội bất xuất, ngoại bất
nhập”. Hôm sau, những bao tiền đó bị ném tung ra, bay trắng cả vườn. Ông Phạm
Văn Tư chỉ là một chủ trại cưa, nhưng khá “có tiếng” ở thị trấn Sông Mao, nên
khi ở Sài Gòn, “tư sản mại bản” bị đánh, địa phương bắt đầu quản lý trại cưa của
ông. Ông Tư cùng một người Hoa, ông Kim Ký, mua lại trại cưa này năm 1964, khi
“Việt Cộng” bắt đầu nắm giữ các khu rừng, dân kinh doanh liên quan đến gỗ phải
đi dây để không làm mất lòng hai phía. Chiến tranh càng lan rộng, thị trấn Sông
Mao trở nên nhộn nhịp khi trở thành căn cứ của Sư đoàn 23 Quân lực Việt Nam Cộng
hòa, công việc làm ăn của ông Tư càng thêm phát đạt.
Vào
những ngày cuối tháng 3-1975, ông Kim Ký ,người đã chạy khỏi Trung Quốc năm
1949, khuyên ông Tư nên di tản. Nhưng ông Tư không dễ gì từ bỏ một sản nghiệp
đã gây dựng cả cuộc đời, không dễ gì ra đi không biết nơi đến thế nào với bảy
người con đang tuổi ăn học. Trong khi đó, những Việt Cộng mà ông Tư gặp trong rừng
cũng khá dễ thương. Khi ông cung cấp đèn pin, đá lửa, thuốc ký ninh, họ đã trấn
an ông rằng ông vẫn được tiếp tục làm ăn như cũ. Khi những người có máu mặt
trong vùng lặng lẽ tới Phan Rí xuống tàu, vợ chồng ông Tư vẫn ở lại.
Ngày
10-9-1975, Chính quyền ập vào nhà kiểm kê từng lưỡi cưa, vòng bi trong nhà ông
và tuyên bố quản lý xưởng cưa. Ông Tư hôm ấy vẫn chưa ý thức được là tài sản của
ông đang bị tước đoạt. Sáng hôm sau, như thường lệ, ông vẫn mang xuống xưởng một
ấm nước chè cho anh em thợ. Vừa tới xưởng, ông bị một người thợ chặn lại: “Trại
cưa này không còn là của ông, từ giờ nó là của công nhân, ông không được đến
đây nữa”. Ông Tư sững lại nụ cười trên gương mặt ông từ từ méo
đi. Hơn mười ngày sau thì xảy ra vụ đổi tiền. Ông Tư gần như phát điên. Cô em vợ
nghe, chạy qua bị du kích chặn lại. Đứng ngoài bìa ruộng, nhìn thấy anh rể mình
cứ cười sằng sặc. Thương anh, cô chỉ biết một mình lặng lẽ khóc.
Ở
Huế, chiều ngày 21-9-1975, Hiệu phó kiêm Bí thư Đoàn trường Nguyễn Tri Phương
Trần Kiêm Đoàn được Thành đoàn Huế giao phối hợp với Đoàn trường
Đồng Khánh, dẫn 200 đoàn viên theo cửa Thượng Tứ vào Đại Nội. Trước khi đi, Thành
đoàn ra lệnh: “Chuẩn bị khăn gói, thức ăn ba ngày, sẵn sàng chiến đấu”. Ông
Đoàn kể: “Tụi tôi hồi hộp: Mỹ quay lại hay binh lính Sài Gòn nổi dậy? Tới 3 giờ
sáng thì mới hay tin sáng mai đổi tiền. Khi ấy tôi còn trẻ, hào hứng với những cái
mới nên nghe nói một đồng tiền mới giá trị bằng 500 đồng tiền cũ cũng có cái gì
đó tự hào. Sáng ra vẫn tả xung hữu đột đôn đốc đoàn viên hoàn thành nhiệm vụ”. Nhưng,
tới trưa, theo ông Trần Kiêm Đoàn: “Đi đâu cũng thấy dân kêu gào thất vọng. Ba
giờ chiều, tôi tranh thủ về nhà,
thấy vợ ngồi thẫn thờ, nước mắt lưng tròng: Anh! Mình trắng tay rồi!”. Mỗi gia
đình chỉ được đổi tối đa 100 nghìn tiền Sài Gòn trong khi tiền mặt trong nhà vẫn
còn tới gần mười triệu. Không chỉ nhà ông Đoàn, nhiều gia đình buôn bán ở cửa
Đông Ba, hàng xóm của ông, cũng đang kêu khóc. Những người càng tin tưởng vào
chế độ mới càng mất mát lớn hơn, vì khi chiến tranh kết thúc, họ đã đào vàng
lên bán, lấy vốn kinh doanh. Ông Đoàn kể: “Tôi trở về Đại Nội. Một vị chỉ huy lực
lượng đổi tiền biết chuyện kêu lại nói: ‘Muốn đổi bao nhiêu cũng được nhưng phải
chia 5:5. Về xóm coi có ai thì kêu họ đổi luôn’. Tôi về lấy tiền và móc nối với
mấy người trong xóm. Đúng là đổi bao nhiêu cũng được thật”.
Gần
một tháng trước đó, ngày 28-8-1975, Chủ tịch Hội Đồng Chính phủ Lâm thời Cộng
hòa Miền Nam Huỳnh Tấn Phát đã ký Nghị định “Đình chỉ vĩnh viễn 16 ngân hàng tư
nhân”. Ngày 3-9-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng thông báo việc “rút tiền tiết kiệm”,
theo đó, “những người có trương mục dưới một triệu có thể rút dần tiền về, số
trung bình mỗi nhân khẩu có thể rút là 10 nghìn đồng/tháng”, còn những trương mục
trên hai triệu “sẽ được ngân hàng quốc gia cứu xét riêng rẽ”. Trên thực tế,
không mấy ai rút được đồng tiết kiệm nào trước ngày đổi tiền, 22-9-1975.
Cũng
trong ngày 3-9-1975, Ngân hàng Quốc gia tuyên bố “Công khố phiếu không còn giá
trị”, Chính quyền giải thích: “Các loại công khố phiếu dù của các ngân hàng hay
của tư nhân là những giấy nợ của Nguyễn Văn Thiệu vay để thêm ngân sách cho guồng
máy chiến tranh, nay Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ đã mang tiền của tháo chạy,
Chánh quyền Cách mạng hiện đang quản lý tài sản của toàn dân, không lý gì và
không có quyền lấy tiền nhân dân trả nợ thế cho Nguyễn Văn Thiệu”.
Người dân miền Nam từng nghe những “luận điệu” như Việt Cộng về thì sẽ lấy kìm
rút móng những ai sơn móng tay, bắt đàn bà con gái lấy thương binh. Ít ai lường
được sẽ có những mũi kìm êm ái hơn như... đổi tiền. Nếu như “đánh tư sản mại bản”
chỉ liên quan đến mấy trăm gia đình, thì đổi tiền và chính sách mới về số tiền
gửi cũ trong các ngân hàng liên quan đến mọi người. Tiền bạc cũng giúp những
người như ông Đoàn hiểu thêm về con người trong chế độ mới.
“Gian thương”
Tháng
8, tháng 9-1975, giá cả các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là bột ngọt, tăng vọt.
Chính quyền Cách mạng, lúc này vừa kiểm soát tuyệt đối các phương tiện truyền
thông, đã cho rằng đó là “tội ác của các trùm tư bản”. Báo Sài Gòn Giải Phóng
ngày 27-7-1975 chạy tít: “Cơn sốt bột ngọt đã làm cho đồng bào nhận rõ bọn trùm
gian thương đầu cơ tích trữ”. Không chỉ có bột ngọt tăng giá. Trước tháng
6-1975, một ký muối bột giá bảy mươi đồng, đến tháng 8-1975, giá đã lên tới 300
đồng một ký; một viên đá lửa đỏ, giá tháng 6-1975 là mười đồng, hai tháng sau
đã lên đến sáu mươi đồng; giá một chiếc bu-gi xe lam tăng từ 500 đồng lên 1.100
đồng; một bộ vỏ, ruột xe Honda tăng 7.000 lên 17.500 đồng. Ngày 30-4-1975, một
ký bột ngọt giá chỉ 3.000- 3.500 đồng, đến tháng 8-1975 đã tăng lên
17.000-18.000 đồng.
Ngay
trong số báo ra ngày 10-9-1975, Tuổi Trẻ đã có bài “điều tra”, khẳng định: Nói
bột ngọt khan hiếm là vì “đã đưa hết ra Bắc” là một “luận điệu tuyên truyền ác
ôn”. Dẫn lời một “bác Hai” làm nghề khuân vác ở chợ Cầu Muối, bài báo kết luận:
“Bọn gian thương chứ không ai hết. Tụi nó bóc lột xương máu của nhân dân lao động
như thế quen rồi”. Cũng theo một “công nhân khuân vác” được trích dẫn trong bài
báo này thì, “tội ác của bọn chúng, phải tử hình mới thoả mãn ý chí của nhân
dân”. Ở các tỉnh Miền Tây, trong tuần lễ thứ hai của tháng 9-1975 cũng có tới
“hơn năm mươi tay gộc tư sản mại bản đã bị bắt giữ”.
Tài
liệu do Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt nam, đăng trên các
báo ra ngày 10-9-1975, nêu “mười tội ác” của tư sản mại bản. Để
phân biệt tư sản mại bản với tư sản dân tộc, ông Nguyễn Nam Lộc, ủy viên
Tuyên-Văn-Giáo của Liên hiệp Công đoàn Thành phố nói: “Ở đây ta không đi sâu
vào giải thích danh từ. Ta chỉ hiểu tư sản dân tộc đại để là những người bỏ vốn
ra kinh doanh vừa có lợi cho họ vừa có lợi cho dân tộc. Họ không dựa vào thế lực
kinh tế chính trị của ngoại bang hay tay sai của ngoại bang”. Khi
bị Tòa án Nhân dân Đặc biệt đưa công khai xét xử, “một số tên tư sản mại bản”,
trong đó có “tên” Hoàng Kim Quy, đã bị xử “hai mươi năm tù, tịch thu toàn bộ
tài sản”. “Tội trạng” của ông Hoàng Kim Quy được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn kết
luận đanh thép: “Bức thư y [Hoàng Kim Quy] gửi cho Tổng trưởng Ngoại giao Ngụy
thúc giục Chính quyền vay của Ả-Rập Xê-út 500 triệu đô la để mớm hơi cho chiến
tranh Việt Nam Hóa của Mỹ đang phá sản và trả dài hạn bằng cách cho đầu tư khai
thác mỏ dầu ở thêm lục địa Việt Nam. Quy đã suy nghĩ và hành động như một tên
xâm lược Mỹ với ý thức chống cộng sâu sắc, cam tâm bán đứng cả miền Nam để duy
trì chế độ thối nát của Ngụy quyền… Hoàng Kim Quy đã không mơ hồ về mưu đồ của
đế quốc Mỹ. Điều y thật sự mơ hồ là không hiểu hết sức mạnh của nhân dân ta.
Không hiểu hết được thắng lợi thần kỳ của Cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng làm
đế quốc Mỹ thất bại và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bóc lột của y phục vụ cho chủ
nghĩa thực dân mới”.
Cũng
với cách luận tội như trên, máy móc nông cụ nhập khẩu của “tên tư sản mại bản”
Lưu Trung được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn gắn với một “âm mưu xảo quyệt” của
“đế quốc Mỹ” dùng viện trợ kinh tế để “biến nông thôn thành chỗ dựa của ngụy
quyền”. Tiến trình cơ giới hóa của nền nông nghiệp miền Nam được
Công tố ủy viên Nguyễn Hoàn phân tích: “Thông qua viện trợ Mỹ về nông nghiệp,
chúng tìm cách tạo ra cảnh phồn vinh giả tạo, nhằm lừa mị nông dân, lôi kéo họ
ra khỏi ảnh hưởng của Cách mạng”. Phiên tòa diễn ra theo thủ tục
đặc biệt. Cho dù, “với bản chất ngoan cố, tên tư sản mại bản Lưu Trung tìm cách
nói quanh co để che lấp phần nào tội trạng của y”, nhưng mọi lập
luận kể cả của bào chữa viên nhân dân đều bị “tòa bác bỏ”. Những “tên tư sản mại
bản” khác như Lý Sen, kinh doanh sắt thép, Trương Dĩ Nhiên, “nhập cảng và sản
xuất phim ảnh đồi trụy phản động”… cũng đều lần lượt lãnh án tù. Người dân Sài
Gòn khi ấy mới chỉ nghe qua Marx-Lenin, chưa được trang bị “trình độ lý luận” để
hiểu về “tích lũy giá trị thặng dư thông qua bóc lột sức lao động”, để hiểu vì
sao một người mua bán máy nông cơ như Lưu Trung lại liên quan đến một âm mưu
sâu xa “làm dư ra lực lượng lao động nông thôn để cho Chính quyền Sài Gòn bắt
lính”. Chính quyền Cách mạng đánh giá: “Nhìn chung, các tầng lớp quần chúng cơ
bản, tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ đều
phấn khởi và tán thành việc đánh tư sản mại bản vì ai cũng căm thù tầng lớp tư
sản mại bản hại dân, hại nước”. Những đánh giá ấy không dựa trên
bất cứ một kết quả thăm dò dư luận nào mà chủ yếu căn cứ vào những phát biểu của
lãnh đạo Thành. Theo ông Mai Chí Thọ: “Trong giới nghèo lao động có dư luận bàn
tán cộng sản lấy tiền nhà giàu cho nhà nghèo”.
Trước
Chiến dịch X-2, chính quyền đã “bắt chín mươi hai tên tư sản mại bản đầu sỏ, đã
mời ra làm việc bốn mươi bảy người. Đã có ba bỏ trốn và một tự sát”.
Những gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê:
“Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong
đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng
(tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch:
97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu
được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm;
2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc;
96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ;
2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại
gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng;
19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho,
táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt”.
Năm
1976, tình hình tiếp tục khó khăn. Một đợt “đánh tư sản” lại được tiến hành, lần
này tập trung hơn vào giới tư sản người Hoa. Ngày 10-9-1976, vợ chồng nhà tư
sản người Hoa, ông Đào Tắc Kinh, bị bắt “trong lúc đang dồn tiền và của
quý vào tám va li để chạy trốn”. Sáng sớm hôm ông Đào Tắc Kinh bị bắt,
“các lực lượng quân đội, an ninh võ trang đã bắt giữ nhiều tên tư sản
mại bản lũng đoạn, đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường” như Lý Hơn,
Lâm Huê Hồ, Dương Hải, Trang Trịnh Nguyên, Mã Tuyên, Trần Thanh Hà, Trần
Liệt Hồng, Lý Hấn. Ngay sau khi bắt giữ các nhà tư sản, chính quyền lập tức
trấn áp trên diện rộng về mặt dư luận.
Sáng
11-9-1976, hàng ngàn người Hoa tại Chợ Lớn đã được chính quyền huy động
cho một cuộc biểu tình được báo chí mô tả là “sôi sục căm phẫn tố cáo tội
ác của bọn tư sản mại bản bóc lột và yêu cầu Chính phủ bài trừ
chúng tận gốc”. Tối cùng ngày, gần ba mươi cuộc mít tin đã được tổ chức
ở nhiều nơi trong thành phố. Sài Gòn lại được báo chí mô tả là “sôi sục khí
thế cách mạng”.
Chính
một số người Hoa được báo chí dẫn lời cho rằng: “Bọn tư sản mại bản Hoa
kiều càng giàu bao nhiêu thì chúng tôi càng cơ cực bấy nhiêu. Phải
trừ hết bọn này, người Hoa mới có thể sống yên ổn và hạnh phúc”. Họ
đòi “chánh quyền cách mạng nghiêm khắc trừng trị bọn tư sản mại bản
lũng đoạn, đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường, làm giàu trên xương
máu nhân dân”. Những hoạt động quần chúng này, không chỉ lý giải
cho các hành vi bắt bớ mà còn chuẩn bị dư luận cho một chính sách mới sắp sửa
ban hành. “Thể hiện ý chí, tình cảm và nguyện vọng tha thiết của
toàn dân ta”, trong kỳ họp thứ nhất khóa VI, “trên cơ sở hoàn toàn
tán thành bản báo cáo chính trị của đồng chí Bí thư thứ nhất Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam”, Quốc hội chung cả nước
đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới là: “Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc
phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam đồng thời
tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Ngày
25-9-1976, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã ký “Tuyên bố của Chính phủ
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công
thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam”. Theo tuyên bố này: “Chính phủ
chủ trương xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong cả nước ta và
tổ chức cho nền kinh tế ấy thống nhất trong cả nước; xóa bỏ dần
dần những sự khác biệt của mỗi miền: tạo ra những cơ sở kinh tế cơ
bản cho nền kinh tế độc lập, không bị phụ thuộc vào nước ngoài; tổ
chức lại lao động và tạo ra một sự phân phối mới công bằng, bảo đảm
đời sống nhân dân, nhất là nhân dân lao động; xóa bỏ mọi bất công
trong xã hội và lối làm ăn gian dối, phi pháp”. Cho dù đòi “xóa bỏ tư
sản mại bản và những tàn dư bóc lột phong kiến” ở miền Nam, trong giai
đoạn này, chính quyền vẫn chủ trương “sử dụng những nhà tư sản có vốn
liếng, có kỹ thuật, những người làm ăn riêng lẻ, cả những người buôn
bán nhỏ”. Thời gian đầu, các nhà tư sản nhỏ vẫn có thể tự mình kinh doanh
trong một số ngành nghề nhất định nhưng phải chuyển xác xí nghiệp của mình
thành công tư hợp doanh. Chính phủ cũng đưa ra danh mục “các
ngành nghề những nhà tư sản và tư nhân được kinh doanh” rất
hạn chế. Theo bản tuyên bố này, những ngành buôn bán và kinh doanh dịch vụ
đều phải “do nhà nước và các tổ chức quần chúng chịu trách nhiệm”.
Nhà nước bắt đầu độc quyền “nắm toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu, những
nguyên liệu quan trọng trong nước và hầu hết hàng hóa thiết yếu”.
Nhà nước sẽ “nắm hầu hết xuất nhập khẩu và cả bán buôn trong
nước”. Những tư nhân làm thương nghiệp “sẽ được chọn lọc và sử dụng
một phần làm đại lý cho mậu dịch quốc doanh; còn những người khác,
nhà nước sẽ giúp đỡ chuyển sang sản xuất”. Bản tuyên bố viết: “Dưới
chế độ ta, thành phần kinh tế quốc doanh giữ địa vị lãnh đạo. Đối
với công thương nghiệp tư bản tư doanh, kinh tế quốc doanh có trách
nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ… đi dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội
thông qua con đường cải tạo”.
Bản
tuyên bố ngày 25-9-1976 cũng nhấn mạnh: “Trước giờ phút vinh quang của Tổ
quốc, các nhà tư bản tư doanh hãy nhận rõ nhiệm vụ lịch sử lúc
này, nhận rõ con đường phát triển tất yếu của dân tộc ta, nhận rõ
tiền đề xán lạn của Tổ quốc Việt Nam, mà tiếp thu tốt sự cải tạo
xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời tuyên bố khuyến cáo: “Cùng với nhân dân lao động
đi lên theo con đường ấy, các nhà tư bản sẽ có cơ hội tự cải tạo
mình trở thành người đứng trong hàng ngũ đại gia đình dân tộc Việt
Nam. Đó là con đường mở ra một tương lai tốt đẹp cho bản thân mình và
cho con cháu”.
Mãi
tới sáng 1-11-1976, tại Dinh Độc Lập lúc bấy giờ đã mang tên Hội trường
Thống Nhất, Chính quyền mới tổ chức Hội nghị Liên tịch Ủy ban Mặt trận
và các đoàn thể cấp trung ương và thành phố để phổ biến bản tuyên
bố ngày 25-9-1976. Không phải là những người cộng sản từ Hà Nội vào, đoàn
chủ tịch hội nghị gồm: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, khi ấy là phó chủ
tịch nước kiêm chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam Việt Nam; Hoàng Quốc Việt, chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam;
Luật sư Trịnh Đình Thảo, chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực
lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam; Hòa thượng Thích Minh
Nguyệt… Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh Trung ương, ông
Nguyễn Văn Trân, bí thư Trung ương Đảng, người được bổ sung vào Trung ương Cục
trước khi Sài Gòn sụp đổ, cũng có mặt trong hội nghị.
Luật
sư Nguyễn Hữu Thọ phát biểu: “Chính phủ đã đề ra chính sách hợp tình
hợp lý đối với các nhà công thương nghiệp tư bản tư doanh, giúp cho
họ thấy rõ hơn con đường tiến lên của Cách mạng và tạo cho họ điều
kiện đóng góp công sức cùng với toàn dân xây dựng Tổ quốc Việt Nam
giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc, trong đó có quyền lợi chính đáng
của họ và của con cháu họ”. Còn Trưởng ban Cải tạo Nguyễn Văn Trân thì ngắn
gọn: “Bản tuyên bố của Chính phủ đã mở ra một tương lai tốt đẹp, một
tiền đề xán lạn cho các nhà tư sản công thương nghiệp”.
Từ
ngày 21-11-1976, giới công thương chỉ phải “đăng ký kinh doanh công thương
nghiệp và dịch vụ tư nhân”. Đến ngày 13-12-1976, 98% “các đơn vị và hộ
sản xuất kinh doanh, dịch vụ” đã khai trình và 93% số hộ này đã
được chính quyền cấp quận “xét” cấp giấy chứng nhận “đã đăng ký kinh
doanh”. “Nhiều người khai trình đúng đắn (nhưng) cũng còn khá nhiều
người, nhứt là các hộ kinh doanh lớn đều khai trình thiếu, sai biệt
xa với tài sản họ có thật. Một số người tìm mọi cách phân tán tài
sản nhiều nơi, thậm chí có người dùng xe chở hàng tẩu tán sang quận
khác đã bị bắt quả tang cả người lẫn hàng. Có người gây cản trở,
vu khống cán bộ đi thẩm tra hay dùng thủ đoạn mua chuộc cán bộ, tráo
hàng xấu vào hàng tốt”. Chính quyền đã gia hạn việc “đăng
ký” đến ngày 2-1-1977 và cảnh báo rằng: “Những hộ nào đã được chánh
quyền kêu gọi, giáo dục nhiều lần nhưng không thấy lợi ích chung xây
dựng đất nước mà ... vẫn còn tiếp tục có thái độ chống đối, giấu
diếm, phân tán, không chịu khai trình bổ sung là tự mình tách khỏi
hàng ngũ những nhà công thương chấp hành đúng chánh sách của Nhà
nước và bị coi là bất hợp pháp”. Sau khi kê khai, các hộ
kinh doanh vẫn được cấp giấy chứng nhận đã đăng ký kinh doanh và vẫn
hoạt động gần như bình thường. Nhưng kể từ đây, ranh giới của một nhà tư sản
dân tộc với “gian thương phá rối thị trường, phá hoại chủ trương” bắt đầu
trở nên mong manh, nhất là đối với một số ngành kinh doanh “phục vụ nhu cầu thiết
yếu của nhân dân”. Một trong những ngành chịu sự cải tạo sớm hơn và quyết liệt
hơn là ngành giao thông vận tải.
Trước
30-4-1975, tại các tỉnh phía Nam, số chủ xe là tư sản chuyên doanh vận tải ô tô
chiếm 3,5%, chủ là tư sản khác kiêm kinh doanh vận tải ô tô là 1%, tiểu chủ hơn
95%. Ban Cải tạo Giao thông vận tải các tỉnh phía Nam từng đánh giá: “Trong
lực lượng tiểu chủ, đại bộ phận có lòng yêu nước, có cảm tình với Cách mạng,
nhiều người đã là cơ sở tốt nuôi giấu cán bộ, chở người, chở vũ khí ra vào
thành phố, ủng hộ vật chất cho Mặt trận Giải phóng. Chính lực lượng này theo lời
kêu gọi của Mặt trận, sự huy động của Ủy ban Quân quản đã tự nguyện mang hàng
trăm xe chở bộ đội, binh khí kỹ thuật, hậu cần cấp tốc hành quân truy kích địch
ở phía Nam”. Những công lao được ghi nhận này đã không giúp họ giữ
được nghề nghiệp và xe cộ. Ngay từ đầu, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ
đã ra chỉ thị: “Công tác cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với lực lượng
vận tải tư doanh ở miền Nam đang được triển khai và yêu cầu phải làm gấp”.
Một thứ trưởng của Bộ Giao thông được cử vào Nam và ngay sau đó, xe cộ, kể cả
xe của các “quần chúng yêu nước”, đều bị sung công. Đây không chỉ là một chính
sách riêng lẻ của chính quyền Việt Nam. Vận tải là ngành, theo Tuyên ngôn Đảng
Cộng sản, phải do nhà nước thống nhất quản lý.
Từ
tháng 2-1977 đến tháng 9-1978, Ban Cải tạo đã “trưng mua và mua, trưng thu và tịch
thu” hầu hết phương tiện vận tải của tư nhân. Nói là mua và trưng
mua, nhưng thực chất, “giá xe do Nhà nước định trên thực tế chỉ tương đương với
1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến
khi không còn ở công ty, hoặc đã chết vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả
hết thì khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô”.
Trước
ngày 30-4-1975, ông Trần Văn Thành là chủ xe ca chạy tuyến miền
Trung. Cuộc sống gia đình ông được mô tả là “thường ăn cơm tiệm và cuối tuần
thường đi mua sắm”. Sau “giải phóng”, gia đình ông phải vạ vật trong những chuổi
ngày khó khăn: “Sau bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy nhường nhau bát cơm độn,
ông Thành xách túi ra xe kéo theo cái nhìn lo âu và tiếng thở dài của người
thân. Bởi cái xe của ông quá cũ nát không an toàn khi bắt buộc phải chở quá tải
trên những đoạn đường trường, bởi chắc chắn ông sẽ phải cố tìm một vài mặt hàng
lậu để bù vào tiền xăng dầu, bơm vá”. Nhưng sự thiếu thốn chưa phải
là tất cả những gì mà những người kinh doanh trong ngành phải chịu đựng. Từ lái
xe, năm 1973 ông Thành mua được một chiếc xe ca trị giá 3,5 triệu đồng.
Nếu thời cuộc không thay đổi, công việc kinh doanh thuận lợi có thể giúp ông
Thành lập được một hãng xe. Nhưng cũng như các chủ xe khác, ông Thành đã phải
“bán” xe cho Nhà nước. “Bán xe xong, ai biết lái xe thì được nhận làm công nhân
của công ty. Lái theo chuyến, ăn luơng theo quy định. Ai không biết lái xe thì
coi như mất xe… Có những ông chủ hãng xe 30-40 chiếc, cai quản hàng trăm lái,
phụ xe, sau cải tạo muốn quá giang 30-40km nếu không mua được vé thì vẫn bị đẩy
xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ xe xin mãi mới được làm phụ
xe, rồi còn bị anh lái xe mình thuê ngày xưa mắng mỏ mỗi khi trái ý”.
“Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”
Nếu
như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có nhất miền
Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh. Nhưng, hai năm rưỡi
sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một chiến dịch mới được gọi là “Cải
tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một chiến dịch được ông Đỗ Mười triển khai với
“bàn tay sắt”. Lý do của đợt cải tạo này được nói trong Thông báo ngày
23-3-1978 của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: “Các nhà tư sản thương
nghiệp, bằng hoạt động đầu cơ, buôn bán chợ đen, tích trữ hàng hóa và tiền mặt
đã lũng đoạn kinh tế và thị trường, nâng giá hàng hóa bán ra, phá rối việc thu
mua của nhà nước, gây cảnh hỗn loạn thị trường để làm giàu bất chính, thậm chí
tung hàng giả ra thị trường để gạt gẫm và bóc lột người tiêu dùng. Họ dùng mọi
thủ đoạn xảo quyệt móc hàng của xí nghiệp, kho tàng nhà nước, ăn cắp những bí mật
kinh tế quốc gia, nhằm đục khoét kinh tế xã hội chủ nghĩa đang bước đầu xây dựng
và làm hư hỏng một số cán bộ nhân viên nhà nước, rồi qua đó mà nói xấu chế độ”.
Cơ sở pháp lý của đợt “cải tạo thương nghiệp tư bản chủ nghĩa”, được nói là
theo Quyết định số 100 CP ngày 12-4-1977, nhằm “xây dựng nền thương nghiệp xã hội
chủ nghĩa” theo hướng “chấm dứt kinh doanh thương nghiệp của các nhà tư sản,
chuyển các nhà tư sản thương nghiệp sang sản xuất”.
Trước
đây, khi Trưởng Ban Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa Trung ương Nguyễn Văn Linh gặp giới
công thương, “nhiều anh chị em công thương” khi phát biểu ý kiến, đã “hoan
nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Thậm chí có những
ý kiến đã “nói lên những tồn tại của giới công thương”, chỉ trích “một số nhà
công thương còn theo lối kinh doanh cũ, vi phạm các chính sách luật lệ của
chính quyền cách mạng”. Lần ấy, sau khi “nêu lên chính sách đúng đắn, có tình,
có lý của đảng và nhà nước”, ông Nguyễn Văn Linh đã “kêu gọi các nhà công
thương… ra sức cải tạo bản thân, đem hết khả năng và những hiểu biết của mình để
tham gia xây dựng tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội”. Sau hai ngày làm việc ấy, ông Linh “hẹn sẽ có dịp
nói chuyện” một cách đầy đủ hơn về chính sách cải tạo. Nhưng bản thân ông Nguyễn
Văn Linh cũng chưa hình dung được ý đồ cải tạo của ông Lê Duẩn. Đầu năm 1978,
chức trưởng Ban Cải tạo mà ông Linh đang nắm giữ được Tổng Bí thư Lê Duẩn trao
lại cho ông Đỗ Mười. Ngày 16-2-1978, sau khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký “Chỉ thị
115”, ông Đỗ Mười đưa quân tập kết vào Sài Gòn để bắt đầu kế hoạch.
Sáng
23-3-1978, khi người dân Sài Gòn chưa kịp thức dậy thì trước những cửa tiệm, lớn
có, nhỏ có, đã lố nhố từng tốp thanh niên, mặt mày nghiêm trọng. Họ chỉ chờ chủ
nhà thức dậy là ập vào, kiểm kê, niêm phong hàng hóa và bắt đầu chốt giữ. Đêm
hôm trước, toàn bộ lực lượng thanh niên đã được Thành đoàn huy động: sinh viên
các trường đại học thì nghỉ học, công nhân trong các nhà máy thì nghỉ làm, những
người chưa có công ăn việc làm thì được phường trưng dụng. Cũng trong buổi sáng
hôm đó, các báo cho đăng Quyết định 341/QĐ-UB của Ủy Ban Nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh, công bố năm điều quan trọng của chính sách cải tạo: Đình chỉ mọi hoạt
động kinh doanh thương nghiệp của tư nhân; ra lệnh kiểm kê hàng hóa tồn kho; cấm
các nhà tư sản làm nghề buôn bán và “khuyến khích” họ chuyển sang sản xuất.
Người
ký Quyết định 341, ông Vũ Đình Liệu, thừa nhận: “Quyết định được
ký nhân danh Ủy ban, lực lượng nói là của Thành phố, nhưng nòng cốt là Trung
ương đưa vô, kế hoạch Trung ương đưa vô. Ở cấp Thành phố cũng có Ban Cải tạo nhưng
từ thành phố cho tới quận huyện đều có người được ông Đỗ Mười đưa từ Hà Nội
vào. Họ mới là người đưa ra quyết định. Đau xót nhất là họ cứ theo tiêu chí tư
sản Hà Nội để áp dụng cho Sài Gòn. Quy sai thành phần đã khiến cho cải tạo trở
thành cuộc chiến trên diện rộng”.
Theo
ông Nguyễn Văn Trân, viện trưởng Viện Kinh tế Trung ương: “Khi bắt đầu chiến dịch,
Bộ Chính trị chuyển anh Nguyễn Văn Linh sang làm Dân vận rồi đưa anh Đỗ Mười
vào vì anh Đỗ Mười đã làm cải tạo công thương nghiệp ở Hà Nội. Anh Mười vào Sài
Gòn áp dụng y chang những gì đã làm ở miền Bắc trong năm 1960”. Theo ông Hoàng
Tùng: “Năm 1955, khi đánh tư sản ở Hải Phòng, Đỗ Mười cũng cho xóa sạch”. Ông
Hoàng Tùng thừa nhận là thoạt đầu ông đã cùng ông Đỗ Mười vào Nhà khách Trung
ương tại Sài Gòn (T78), viết bài ủng hộ chiến dịch này, nhưng sau thấy Đỗ Mười
đánh cả tiểu thương ông bỏ về. Ông Mười hỏi: “Sao về?”. Hoàng Tùng nói: “Tôi
theo anh, tôi sa lầy”. Trong suốt thời gian đặt “Tổng hành dinh” tại Thủ Đức,
ông Đỗ Mười ít khi xuất hiện công khai. Nhưng quyền lực của ông là bao trùm và
cách mà ông tiến hành thì cứng nhắc đúng như những giai thoại về ông lúc đó.
Theo ông Đỗ Hoàng Hải, đại biểu Quốc hội Khóa IX, người được phân công “phát động
giai cấp công nhân tham gia” lực lượng cải tạo: Cứ “đánh” xong ngành nào thì
các ngành tương ứng từ Trung ương - phần đã vào từ trước, phần mới vào theo ông
Đỗ Mười - lập tức nhảy vào tiếp quản. Ví dụ Bộ Công nghiệp nhẹ tiếp quản ngành
Dệt; Bộ Giao thông tiếp quản các cơ sở liên quan đến xe cộ, bến cảng; Liên hiệp
Công đoàn Giải phóng thì tiếp quản số 14 Cách Mạng Tháng Tám, nơi vốn là trụ sở
Liên đoàn Lao động của Trần Quốc Bửu.
Ông
Đỗ Hoàng Hải nói: “Lực lượng công nhân do tôi chỉ huy lúc đó hết sức phấn khởi
vì Thành ủy dành 35% quỹ nhà cải tạo chia cho giai cấp công nhân, coi như đó là
một chính sách lớn của Đảng đối với thành phần nòng cốt. Ngày cao điểm, chúng
tôi huy động tới 3000 công nhân, sáng ra phát cho mỗi người một ổ bánh mì rồi
khi có lệnh là lên xe đến ‘chốt’ nhà của ‘tư sản’. Trước đó, những lực lượng
khác đã xộc vào các cửa hàng, phát hiện, kê biên hàng hóa, đồng thời ‘đấu tranh
chống các hành vi xấu”. Cán bộ làm công tác cải tạo được mô tả: “Đã nhã nhặn,
đúng mực, nhưng rất cương quyết, dứt khoát, trong sạch; đã làm thất bại một số
vụ mua chuộc xấu xa của giai cấp tư sản. Nhiều công nhân lao động chẳng những
phát hiện các hộ tư sản thương nghiệp lọt sổ, tố giác các kho hàng cất giấu, mà
còn cương quyết từ chối và đấu tranh chống lại hành động hối lộ của một số hộ
tư sản”.
Một
nhân viên cải tạo từ chối nhận hối lộ đã được Ban Chỉ đạo “thông báo cho toàn quận
và được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cộng sản vào tối ngày 26-3-1978 ngay tại
nơi cô tham gia công tác cải tạo”. Người dân cũng được phát động để “kịp thời
phát hiện, phê phán, đấu tranh, tố giác, chống những hành vi xấu như hối lộ, tẩu
tán hàng hóa, tuyên truyền xuyên tạc, chia rẽ của một số hộ tư sản không thức
thời”. Hầu như không có chống đối, chỉ một số tư sản người Hoa phản
ứng ở mức thăm dò. Vào lúc 7 giờ sáng ngày 23-3-1978, khi xuống một phường ở Quận
5, ông Mai Chí Thọ được báo cáo: “Nhiều nhà tư sản biết trước lệnh cải tạo đã
khóa cửa bỏ đi, cán bộ tới không có chủ nhà để đưa lệnh kiểm kê tài sản”. Ông
Mai Chí Thọ suy nghĩ rồi ra lệnh: “Cho niêm phong tất cả cửa ra vào, cho một tổ
chốt trước nhà những người đi vắng. Thông báo cho họ một thời hạn, nếu không tự
giác thì các đồng chí cứ cho phá cửa vào lập biên bản”. Trừ một số
trốn đi luôn, phần lớn đã trở về chịu để chính quyền kê biên tài sản.
Tại
Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn ngày đầu
với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những tháng sau
đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600 “tiểu thương
và trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người
trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm
khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những gia đình
tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng chất đầy
trên chiếu.
Những
năm sau 1975, cứ mỗi khi có một thành phần nào đó trong xã hội trở thành đối tượng
của Chính quyền, lại có một thành phần khác, gọi là quần chúng, được đưa đứng
ra lên án. Chín mươi hai nhà tư sản mại bản vừa bị đánh vào rạng sáng ngày
10-9-1975 thì sáng hôm sau, 11-9-1975, đã có “1.200 nhà tư sản dân tộc, tiểu
thương, tiểu chủ mở đại hội bất thường” tại rạp Rex để “bày tỏ quyết tâm bài trừ
bọn tư sản mại bản, đầu cơ tích trữ, lũng đoạn, phá rối thị trường”.
Thậm chí, “giới người Hoa tỏ ý muốn Chánh quyền công bố đầy đủ danh sách và tội
trạng của tất cả các tên gian thương đã bị sa lưới. Giám đốc một xí nghiệp tại
Chợ Lớn (xin giấu tên) là người Hẹ, cho biết, theo ông nên tịch thu toàn bộ tài
sản của bọn gian thương, đem xử công khai trước nhân dân và cho bọn này đi cải
tạo lao động lâu dài để chúng biết giá trị của lao động”. Ông giám đốc người Hẹ
này khi ấy chắc không ngờ có ngày mình cũng trở thành đối tượng của “nhân dân
lao động”.
Hai gia đình tư sản
Tuy
không sơ khai như thời kỳ Cải cách ruộng đất, nhưng phương thức “đấu tranh giai
cấp” của thế hệ cộng sản sau năm 1975 cũng có những điểm tương đồng. Ngay từ
tháng 9-1975, Đoàn Thanh niên Cộng sản đã “đánh tư sản mại bản” bằng chính tiếng
nói của con cái các nhà tư sản. Trên báo Tuổi Trẻ, Anh Thanh Tùng, một học sinh
người Hoa học lớp 12, trường Lý Phong, nói: “Bản thân tôi thấy rõ chính sách của
chính phủ là đánh bọn gian thương bóc lột nhân dân chứ không đánh vào người
Hoa. Tư sản mại bản đầu cơ tích trữ thì dù là Việt hay Hoa đều có tội với nhân
dân, là kẻ thù của nhân dân”. Ôn Đường, học sinh lớp 9 trường Việt Tú, thì cho
rằng: “Chúng ta phải phát động quần chúng đứng lên tiêu diệt bọn gian thương”.
Còn Lý Mỹ, học sinh lớp 10, trường Lý Phong, thì nói: “Tôi nghĩ rằng những nhà
tư sản nào muốn hợp tác với chính quyền cách mạng để xây dựng kinh tế thì đó là
điều tốt. Nhưng phải tiêu diệt bọn tư sản mại bản, có như thế mới ổn định đời sống
nhân dân”.
Năm
1978, thay vì chỉ tuyên bố, Lý Mỹ, con gái một nhà tư sản người Hoa, vừa trở
thành đoàn viên, đã dẫn các “đồng chí” của mình vào nhà, chỉ cho họ những tài sản
mà cha mẹ mình đang cố giấu. Cô được ca ngợi trên báo chí: “Hai năm qua đất nước
ta chuyển mình đi lên chủ nghĩa xã hội, cũng như nhiều bạn trẻ khác, Lý Mỹ đã
hòa mình trong ngọn lửa triều thời đại ấy”. Chính Lý Mỹ cũng viết
trên trang đầu tiên của nhật ký: “Hãy đấu tranh để giành hạnh phúc”. Nhưng qua
những dòng ghi chép của cô, cuộc đấu tranh ấy không chỉ mang về hạnh phúc.
Lý Mỹ thuộc thế hệ trưởng thành trong khuôn viên Thành đoàn, đọc
Pavel Korchagin và được nghe các nhà lý luận từ miền Bắc vào giảng giải luận điểm
của Marx về kinh tế. Một bên là những niềm tin mới của cô về một xã hội tốt đẹp,
một bên là kế sinh nhai của gia đình. Từ tháng 6-1977, khi cải tạo chưa bắt đầu,
Lý Mỹ đã phải “nuốt nước mắt” để thuyết phục cha mẹ mình nghe theo những gì cô
được Đoàn dạy bảo. Lý Mỹ nói với má: “Sống như vậy con thấy phi pháp quá”. Gia
đình Lý Mỹ khi ấy có một cửa hàng kinh doanh vải trên đường Cách Mạng Tháng
Tám. Khi Nhà nước “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”, Lý Mỹ đang là học sinh
lớp 12C, trường Trần Khai Nguyên. Ngày 23-3-1978, khi “nhiều toán thanh niên
đóng chốt ở những cửa hàng lớn” trên con đường mà cô đi qua, Lý Mỹ viết: “Rồi đây
cuộc sống sẽ trở nên phong quang hơn, đời sống đồng bào sẽ trở nên dễ chịu hơn
khi những ung nhọt của một cơ thể đã được giải phẫu từ ngày hôm nay - ngày mở đầu
một cuộc đấu tranh lớn”. Trong những ngày sau đó, Lý Mỹ đã “bám từng giây, từng
phút để vận động gia đình kê khai tài sản". Báo Tuổi Trẻ theo sát, tường
thuật từng lời nói, hành động của cô. Cái ngày mà toàn bộ gia sản của gia đình
bị kê biên, Lý Mỹ đã không giấu được niềm vui hoàn thành nhiệm vụ: “Mỹ kêu mẹ
đi ngủ để mình làm công việc kê khai cùng với toán công tác đang chốt tại đấy.
Đêm 24-3-78, Mỹ thức đến ba giờ khuya - không phải để thao thức, trăn trở trong
sự khổ sở - mà để sao bốn bản kê khai trong một sự vui sướng tràn trề. Lòng Mỹ
rộn ràng như lần đầu tiên biết mình được đứng vào hàng ngũ của Đoàn”.
Cuốn Nhật ký của Mỹ khép lại vào lúc 3 giờ sáng ngày 25-3-1978: “Má đã yên tâm
rồi. Còn mình lại càng yên tâm hơn khi gia đình mình đã chấm dứt quá khứ từ
ngày hôm qua để chuẩn bị bước vào tương lai. Mình không còn mặc cảm với bạn bè,
nhân dân lao động vì gia đình mình không còn sống bằng nghề bất chính. Mình đã
đấu tranh, đã thực hiện được lý tưởng, ước mơ của mình. Hãy cất cao tiếng hát,
hãy tiến lên. Không có gì có thể ngăn cản được bước tiến của mình. Mình trở lại
phấn khởi rồi, vui quá!”. Nhưng điều mà lúc ấy Lý Mỹ tưởng là niềm vui, rồi sẽ
khoét vào lòng cô một như vết thương - một vết thương không bao giờ có khả năng
khép lại. Cho dù được báo Nhân Dân ca ngợi, được đoàn viên từ khắp
nơi trong cả nước viết thư thăm hỏi, động viên và bày tỏ lòng ngưỡng mộ, Lý Mỹ
cũng chỉ là một sản phẩm hy hữu của Thành đoàn. Con cái của các nhà tư sản
khác, trong những ngày ấy, đã bị buộc phải trưởng thành để cùng cha mẹ bảo vệ
tài sản gia đình trước nguy cơ cải tạo.
Gia
đình ông Võ Quang Trữ, một trong những người giàu có ở Sài Gòn lúc bấy giờ, là
một ví dụ. Năm 1960, ông Trữ đưa gia đình di cư từ Quảng Nam vô Sài Gòn. Thời
gian đầu, chồng làm thư ký cho một công ty, vợ làm thợ dệt. Khi đó, xứ Bảy Hiền
còn rất hoang sơ. Chỉ một thời gian ngắn sau, ông Võ Quang Trữ cùng một số người
di cư bàn bạc khôi phục nghề dệt của Quảng Nam. Bắt đầu là dệt, kế tiếp là hồ,
rồi tiến tới buôn bán hàng tơ sợi. Từ tay trắng, họ nhanh chóng trở thành những
người giàu nhất. Sáng 30-4-1975, giữa khi súng đạn vẫn còn đùng đoàng, ông Trữ
đã chở con bằng xe Vespa từ nhà riêng ở 177C Lý Thường Kiệt lên Bảy Hiền lấy gần
một trăm lá cờ Giải phóng về phân phát cho hàng xóm. Nhưng sự hào hứng này của ông
không kéo dài được bao lâu. Một hôm đi làm về, ông thấy, tấm biển “trụ sở công
an phường” tự nhiên được treo lên trước một ngôi nhà của mình ở Bảy Hiền. Khi
ông đi vắng, mấy người “Cách mạng 30-4” mang bảng tới, nói: Chúng tôi muốn dùng
tầng trệt làm trụ sở công an, rồi treo lên mà không chờ chủ nhà đồng ý.
Sau
Chiến dịch X-2, quan sát bạn bè bị “đánh tư sản mại bản”, ông Trữ đi trước một
bước bằng cách đưa nhà máy với hơn 5.000 công nhân của mình “hiến” cho Nhà nước
dưới danh nghĩa lập xí nghiệp “công tư hợp doanh”, rồi nhận chức phó
giám đốc trong nhà máy của mình theo sự phân công. Một số lớn máy móc và tiền bạc
khác được ông Trữ đưa về quê, xây thêm hai nhà máy công tư hợp doanh, rồi hiến
cho Đà Nẵng. Ngay trong ngày 23-3-1978, một tổ cải tạo năm người đã đến chốt
trước tiền sảnh ngôi nhà số 57 Hồ Tấn Đức nơi gia đình ông Trữ đang cư ngụ. Họ ở
đó hai đợt, tổng cộng sáu tháng. Võ Quang Dũng, con trai ông Trữ, sinh năm
1964, kể: “Hàng ngày bắt đầu từ sáng sớm, họ thẩm vấn từng thành viên trong
nhà, lặp đi lặp lại gần như chỉ một câu: tiền vàng giấu ở đâu?”. Không ai, kể cả
vợ con, biết vàng ông Trữ giấu ở đâu. Gần như không có một viên gạch nào ở
trong nhà là không bị cạy lên. Nhưng những mưu sâu kế dày mà trước đây các gia
đình Cách mạng đã dùng để qua mặt cảnh sát Sài Gòn, nuôi giấu cán bộ, giờ đây
được chính nhân dân áp dụng một cách triệt để thoát khỏi Chính quyền Cách mạng.
Ngay từ rất sớm, ông Trữ đã có các phương án đề phòng. Ngày 26-11-1975, một
toán năm tên cướp có vũ khí đột nhập vào ngôi nhà 177C Lý Thường Kiệt của ông,
bắn chết bà mẹ già tám mươi tuổi. Vợ ông khi đó đang bị tai nạn, nằm trên giường,
chứng kiến cuộc đấu súng kéo dài giữa công an và tên cướp cố thủ trong nhà cho
đến khi hắn ta bị công an bắn hạ. Sau đó, ông Trữ quyết định chuyển nhà lên Bảy
Hiền. Chính trong thời gian xây nhà 57 Hồ Tấn Đức ở vùng Bảy Hiền, ông
Trữ đã cho làm hai căn hầm bí mật có nhiều tầng: một dưới gầm cầu thang, một
ngay dưới bàn ăn gia đình. Hơn mười nghìn lượng vàng đã được ông xếp trong những
lon guygoz, bọc giấy dầu rồi xếp xuống hầm. Quan sát thấy lực lượng cải tạo chỉ
khám người, túi xách của hai vợ chồng ông Trữ và của người giúp việc chứ không khám
người mấy đứa con - đặc biệt là hai đứa trẻ: Võ Quang Dũng, mười bốn tuổi; Võ
Thị Anh Đào, mười hai tuổi – ông Trữ bắt đầu cho thực hiện kế hoạch. Mỗi đêm,
ông mang lên khoảng năm mươi lượng vàng. Tới giờ đi học, ông cho vàng vào ruột
tượng, buộc ngang bụng Dũng và Đào, rồi để các con tự đi ra ngoài. Võ Quang
Dũng kể: “Chúng tôi bị tước mất tuổi thơ từ đó. Vốn là những đứa trẻ vô tư,
nhưng hàng ngày hai anh em đều phải đóng kịch, giả vờ vui vẻ ra khỏi nhà, khi
thì với quả bóng, khi thì với một món đồ chơi, để qua mặt tổ cải tạo đang đứng
canh trước cửa. Từ cổng, khi thì xích lô, khi thì taxi, khi thì một bác xe ôm đứng
đón. Họ chở tôi đi một đường, em gái tôi đi một đường. Mỗi ngày, chúng tôi đi đến
một địa điểm mà ba tôi cho biết chỉ vài phút trước khi ra khỏi nhà. Ở đó, một
người được ba tôi đặc biệt tin cẩn và huấn luyện trước đã chờ sẵn, đón chúng
tôi, nhận hàng rồi đi ngay lập tức”. Công việc vận chuyển vàng ra khỏi nhà trước
mắt lực lượng cải tạo trong suốt sáu tháng trời đã khiến cho cha con ông Võ
Quang Trữ trở thành những người có vẻ ngoài lạnh lùng. Năm 1979, anh em Dũng vượt
biên không thành trở về, gặp nhau ngoài ngõ nhưng cha con chỉ khẽ gật đầu như vừa
đi đâu đó ngoài đường về. Mãi tới khi vào bên trong nhà, ông Trữ mới
ôm lấy các con và cả mấy cha con cùng bật khóc.
Kinh tế mới
Không
chỉ bị “tước đoạt tài sản”, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho
dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa
các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh
bạch. Ngày 10-4-1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng
“hỏi-đáp”, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo
chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.
Các
nhà tư sản thương nghiệp bị phê phán là chỉ biết “làm giàu, ăn chơi phè phỡn,
bóc lột người lao động và ăn cắp của nhà nước, coi khinh lao động và nói xấu chế
độ” trong khi “ba năm qua trên 700.000 nhân dân lao động hồi hương lập nghiệp”.
“Về những hành vi tội lỗi đó, nhân dân lao động và chính quyền cách mạng đã
không bắn giết, không bắt giam, không đày ải, không đấu tố, không tịch thu mặc
dù có đầy đủ sức mạnh và lý lẽ để làm như vậy. Nhân dân lao động và chính quyền
chỉ buộc họ chấm dứt những hành vi đó, chấm dứt triệt để và vĩnh viễn... Không
những các nhà tư sản thương nghiệp phải chuyển sang sản xuất nông nghiệp, nghề
cá, nghề rừng là chuyển về các tỉnh, mà cả sản xuất công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp cũng chuyển về các tỉnh, theo sự bố trí màng lưới công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp ở địa phương”.
Hai
ngày sau khi báo Đảng đăng bài “hỏi-đáp” này, một cuộc “hội thảo” kéo dài hai
ngày, 12 và 13-4-1978, với sự tham gia của “hơn 200 trí thức” đã được chính quyền
tổ chức. Phát biểu trong “hội thảo”, Bác sỹ Lê Cửu Trường nói rằng:
“Lề lối kinh doanh tư bản chủ nghĩa không thể tiếp tục kéo dài trong một xã hội
đang tiến lên con đường xóa bỏ chế độ người bóc lột người”. Ông Phương Kiến
Khánh, người được giới thiệu là đang công tác ở Phân Viện Nghệ thuật, cho rằng:
“Chuyển các nhà tư sản thương nghiệp sang sản xuất là trả họ về với thiên chức
con người, là giải phóng họ khỏi kiếp ăn bám, bóc lột”.
Tối
17-4-1978, tại sân vận động Thống Nhất, “40.000 công nhân viên chức đại biểu
cho gần nửa triệu công nhân lao động” đã “hưởng ứng chủ trương xóa bỏ kinh
doanh của các tư sản thương nghiệp”. Phát biểu trên sân vận động Thống Nhất,
Chủ tịch Vũ Đình Liệu nói: “Chúng ta đang ở trong giai đoạn đấu tranh giai cấp
có phần gay gắt và cuộc đấu tranh vẫn còn tiếp tục”.
Ngày
10-6-1978 là “hạn chót để các nhà tư sản thương nghiệp rời thành phố đi sản xuất”.
Chính quyền ca ngợi những người tích cực đăng ký các chương trình kinh tế mới
nhưng đồng thời cũng nói với họ rằng: “Đây là một chính sách lớn... nhằm giúp
các nhà tư sản tự giải thoát khỏi con đường bóc lột, biến họ từ một lực lượng
phi sản xuất gây tác hại cho xã hội thành một lực lượng sản xuất có ích cho xã
hội”. Không ít nhà tư sản được trích lời trên báo nói, họ chuyển
sang sản xuất là để “tẩy rửa cái mặc cảm bóc lột tội lỗi” của mình. Nhưng, như
phát biểu của ông Vũ Đình liệu, “cuộc đấu tranh giai cấp” diễn ra ở bên trong từng
gia đình đúng là đang “có phần gay gắt”.
Nhật
ký ngày 8-6-1978 của Lý Mỹ cho thấy không khí trong gia đình cô “thật lạ và căng
thẳng”. Ba cô tuyên bố “sẽ đi kinh tế mới” nhưng giọng nói của ông làm cho cô
“nghi ngờ”. Cũng như nhiều gia đình tư sản, đặc biệt là tư sản người Hoa khác,
gia đình Lý Mỹ biết rõ, “kinh tế mới là nơi đày ải, đầy khó khăn gian khổ không
thể nào sống được”. Phần lớn các nhà tư sản sau đó đã vượt biên. Nhật ký của Lý
Mỹ viết: “Cùng gia đình bỏ trốn hay ở lại. Tôi nghĩ, tôi phải can đảm lên, chấp
nhận đấu tranh và mất mát, tôi sẽ không trốn đi nơi nào cả. Nếu gia đình không
lay chuyển, tôi bằng lòng ở lại sống cô đơn, không tài sản của cải gì của cha mẹ
để lại, tôi sẽ gặp vất vả, khó khăn và sóng gió. Đồng chí Paven ơi, nỗi khổ và
sự phấn đấu của tôi có nghĩa gì so với đồng chí”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận:
“Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một
sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến
hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng
không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo
cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười
kêu những người buôn bán là bọn con buôn”. Ngay trong thời gian đang cải tạo,
những cuộc tranh cãi nổ ra gần như thường xuyên giữa ông Võ Văn Kiệt, ông Nguyễn
Văn Linh với ông Đỗ Mười. Nhưng khi ấy Đỗ Mười đang nắm trong tay “thượng
phương bảo kiếm”. Ông Vũ Đình Liệu thừa nhận: “Họp Thường vụ chúng tôi cũng có
ý kiến, đi cơ sở về chúng tôi cũng có ý kiến, nhưng bị bên anh Đỗ Mười cự”.
Tuy tranh cãi phương thức, nhưng cả ông Võ Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh vẫn thống
nhất với ông Đỗ Mười về chủ trương. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu tôi nhận
thức, cải tạo là chuyện tất yếu và coi như đó là con đường để đi lên
chủ nghĩa xã hội. Cho tới lúc ấy, tôi chỉ đi các nước Đông Âu, thấy cuộc sống của
họ so với mình đã là những gì mà mình ước mơ. Tôi nghĩ, phải kinh qua những bước
như mình đang làm bây giờ mới có ngày đạt được như những gì họ có”. Nhưng rồi
khi nhìn cả thành phố vốn là một trung tâm thương mại trở nên tiêu điều, tan
hoang, nhất là khi nhìn thấy chính những ân nhân của cách mạng cũng trở thành nạn
nhân, những người đã từng bám trụ ở miền Nam, ở Sài Gòn bắt đầu nhìn lại những
gì mà mình đang thực hiện. Khi ông Đỗ Hoàng Hải mới về 14 Cách Mạng Tháng Tám
chuẩn bị “cải tạo tư sản”, ông Trần Văn Đước - một cơ sở đã từng nuôi giấu và cứu
mạng ông Hải trong Mậu Thân 1968 - ngày nào cũng nấu cơm rồi cho người mang
sang. Cũng như trong chiến tranh, ông Đước không biết rõ ông Hải đang làm gì,
chỉ giúp đỡ vì biết ông Hải là người “bên Cách mạng”. Khi ông Trần Văn Đước chạy
đến báo: “Bác bị người ta mang xe tới chở hết kiếng đi rồi”, ông Hải vẫn tưởng
rằng: “Chắc là có sự nhầm lẫn”.
Con
trai ông Trần Văn Đước là liệt sỹ. Tiệm kiếng của ông mở tại nhà riêng ở số 12
Ngô Tùng Châu chỉ là một ngôi nhà cấp 4, chiều ngang bốn mét, dài mười bốn mét,
tường gạch, lợp ngói. Nhưng ông Đước vẫn bị quy vào diện tư sản thương nghiệp,
kiếng hàng hóa và cả nhà riêng của ông đều bị “sung công”. Không chỉ có trường
hợp ông Trần Văn Đước. Năm 1957, ông Lai Ninh đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng,
lái xe đưa ông Lê Duẩn đào thoát sang Phnom Penh trong sự truy lùng gắt gao của
Chính quyền Sài Gòn. Năm 1978, khi ông Lê Duẩn đưa ông Đỗ Mười vào Nam, nhà máy
xay lúa của gia đình ông Lai Ninh đã bị sung công. Con gái ông, bà Lai Kim
Dung, một tư sản người Hoa, cũng bị xếp vào thành phần cải tạo. “Công cuộc cải
tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” ở miền Nam, tiến hành từ sau 1975, đã cải
tạo 3.560 cơ sở tư bản tư doanh công nghiệp, trong đó có 1.354 cơ sở của tư sản
mại bản bị công hữu hóa, tịch thu, 498 cơ sở bị chuyển thành công tư hợp doanh;
chuyển 5.000 tư sản thương nghiệp sang sản xuất; chuyển chín vạn tiểu thương
sang sản xuất; sử dụng 15.000 người vào mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ
nghĩa. Sau Cải tạo, dưới dạng kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh, Nhà nước
nắm: 100% ngành năng lượng; 45% ngành cơ khí; 45% ngành xay xát lương thực;
100% ngành bia, nước ngọt, bột ngọt, thuốc lá; 45% trong các ngành chế biến đường,
dầu thực vật; 60% ngành dệt; 100% ngành sản xuất giấy; 80% ngành sản xuất bột
giặt, xà phòng. Thương nghiệp quốc doanh nắm 80% nguồn hàng công nghiệp; 92% số
xã trên toàn miền Nam có hợp tác xã mua bán.
Trước
khi cải tạo công thương nghiệp tư doanh, nhà nước đã tìm mọi cách để tập trung
mọi nguồn hàng vào tay mình. Không chỉ có sản phẩm của các xí nghiệp quốc doanh
phải tiêu thụ qua thương nghiệp của nhà nước, “các xí nghiệp tư bản, các hợp
tác xã, các tập đoàn và cơ sở sản xuất thủ công, cá thể, được nhà nước cung cấp
lương thực, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, điện; cho vay vốn…
(cũng) phải bán sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh”. Chính quyền
tin rằng: “Ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa là cơ quan hậu cần của toàn
dân, là người nội trợ của toàn xã hội”. Chẳng bao lâu sau, niềm
tin này sẽ nhanh chóng tan thành mây khói.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét