Hồi chuông báo tử
Nhà thờ xứ chỉ cách xa nhà thờ họ chừng ngót một cây số ngàn. Khác nhau
có một chữ thế thôi mà địa vị hai cơ sở khác hẳn nhau. Xứ gồm nhiều họ.
Mỗi họ lớn đều có một ngôi thánh đường. Nhưng nhà thờ xứ sầm uất phồn
thịnh hơn nhà thờ họ cả trăm lần. Lý do vì các lễ nghi diễn ra thường
nhật tại nhà thờ xứ, còn nhà thờ họ thường khi đóng cửa then cài. Cả năm
chỉ có đôi ba tuần lễ, linh mục hàng xứ sang hàng họ làm phúc, quang cảnh nhà thờ họ mới náo nhiệt vui vẻ mà thôi.
Nhà
thờ họ này vốn to nhất địa phận, đứng sừng sững giữa một khoảng đất
rộng chừng vài mẫu ta. Ngọn tháp chuông cao vút chọc thẳng lên trời, đội
trên đầu một cây thánh giá sắt. Tháp chuông này tượng trưng cho một
hình ảnh cao cả: đó là ngón tay Thượng Đế chỉ cho loài người Nước Thiên
Đàng đầy sự hoan lạc bình yên. Phúc thay cho những ai đến với Chúa, phúc
thay cho những ai đi theo con đường Chúa đã chỉ dẫn, vì họ sẽ tới được
nơi cao sang tột bậc và bền vững vô cùng. Có phải thế chăng?
Sáng,
trưa, chiều và nửa đêm, quả chuông đồng trên ngọn tháp lắc lư theo đà
dây kéo, truyền ra khắp các hướng trời những âm thanh trầm bổng. Ngôn
ngữ của khối kim khí thanh tao ấy cũng có nhiều sắc thái khác nhau: sầu
thảm, vui mừng, thờ ơ, rộn rã, than van, thúc giục, cầu khẩn, trêu cợt,
tiếng chuông đổi thay tùy theo thời tiết và thời gian của mỗi năm. Tiếng
chuông nồng nàn trong tuần đại phúc khác với tiếng chuông bình thản
hằng ngày; tiếng chuông vào buổi nắng ráo sáng sủa, khác với lúc đất
trời nặng nề u ám.
Vấn đề còn tùy thuộc
một phần lớn vào kẻ kéo chuông, khi buồn khi vui, lúc no lúc đói, trạng
thái tâm hồn và thể chất hắn có ảnh hưởng nhiều đến tiếng chuông nhà thờ
họ này.
Việc kéo chuông vốn là trách
nhiệm của bác từ trong làng. Địa vị bác vốn thấp kém nhưng bác sung
sướng nhàn hạ hơn tất cả mọi người. Chỉ có việc trông coi nhà thờ, và
canh cho đúng giờ để kéo chuông, thế thôi. Nhà bác từ ở sát nách nhà
thờ, thấp thoáng trong một hàng rào cây găng bốn mùa xanh ngắt. Sống
giữa cảnh cô tịch nhàn hạ, bác thường uống rượu cho vui. Mới đầu uống
ít, sau uống nhiều. Dần dần bác nghiện rượu. Một lần ông trùm họ bắt gặp
bác say rượu nằm ngủ dưới cuối nhà thờ ngáy rền. Ông trùm vừa tức tối
vì hành động bất kính của bác vừa lo sợ thay cho bác là Chúa sẽ trừng
phạt bác về tội ngủ trong nhà thờ. Ông hối hả lay bác dậy bắt về nhà
ngủ. Trước mặt người trên, bác chợt tỉnh rượu, chắp tay bái ông trùm để
xin xá lỗi. Vốn nhân từ, ông trùm cũng bỏ qua hành động của bác, chỉ
khuyên răn và nhắc nhở rằng nhà thờ là nơi để cầu nguyện chứ không phải
để ngủ. Và nghiêm nét mặt, ông trùm nói nhỏ với bác, cảnh cáo là Chúa có
thể sẽ trừng phạt bác nhãn tiền về tội say sưa bừa bãi như vậy.
Nhưng
ít lâu sau, trong lúc ma men ngự trị thể xác, bác từ yếu đuối kia quên
phăng những lời cảnh cáo khuyên bảo của ông trùm. Kéo chuông xong bác
lại nằm vật xuống sàn nhà thờ mà ngủ. Ở đây rộng rãi mát mẻ hơn ở nhà,
lại tĩnh mịch vì không có tiếng khóc ỉ eo của đứa con dại, và tiếng ru
sầu thảm của bà vợ gầy gò.
Ngủ thỏa thuê
rồi bác trở dậy lấm lét nhìn lên ngọn đèn lù mù trước bàn thờ Chúa, rồi
lùi lũi về nhà. Chúa không hề trừng phạt bác. Ý hẳn Đấng cao cả đâu thèm
chấp nhất đến những cử chỉ liều lĩnh của bác từ say rượu tầm thường
kia. Trong bầy lũ thế nhân dưới cõi trần tội lỗi này, có biết bao việc
càn dỡ gấp trăm lần việc bác từ nghèo nàn nằm ngủ quên trong thánh
đường. Nhà nó thấp bé chật chội thì nó tới đây ngủ một chút cũng chẳng
sao. Thánh đường vừa rộng rãi vừa hoang vắng. Chắc hẳn Chúa cũng chẳng
hẹp lượng mà chấp nhất với bác như ý nghĩ trong khối óc nông cạn của ông
trùm họ. Mà bác từ vốn dĩ vẫn kính trọng Chúa, chăm chỉ kéo chuông. Đã
uống say, đã ngủ ngon giấc, bác từ thấy trong người khoái hoạt, hai cánh
tay như có thêm sức mạnh. Bác ghì sợi dây thừng một cách dẻo dai hơn,
nhịp nhàng hơn. Trên tháp cao, quả chuông chuyển động thật uyển chuyển,
phóng những âm thanh khoan nhặt vào lòng không khí. Cả ngôi làng êm ả
như lung linh trong màn sương chiều khi tiếng chuông ngân nga. Chuông
thay lời Chúa nhắc nhở cho mọi người bổn phận cao quý của họ đối với
Thượng Đế, với kẻ đồng loại và với chính mình. Tiếng chuông là lời nhắn
nhủ của Chúa, còn đôi cánh tay gầy gò của bác từ là một phần động lực
làm phát hiện những thanh âm huyền diệu đó. Những tín đồ đạo đức trong
làng tạm ngưng công việc, cúi đầu nghe tiếng chuông gợi cảm và lặng lẽ
làm dấu thánh giá. Nghe tiếng chuông, người ta thường chỉ nghĩ tới Chúa
và nghĩ tới hạnh phúc trong gia đình mình. Gần như không khi nào người
ta nghĩ tới bác từ gầy gò đang vận dụng hết sức lực để kéo sợi dây
chuông.
Càng nhiều tuổi, bác từ càng say
sưa nhiều hơn, đến đỗi nhiều khi bác ngủ khì quên cả kéo chuông. Nhân từ
đến mấy, ông trùm họ cũng chẳng sao làm ngơ cho bác. Mà dầu ông có muốn
làm ngơ đi nữa cũng không thể được. Còn có làng nước chứ. Thiếu tiếng
chuông báo hiệu giờ cầu nguyện đồng thời cầm chừng cho giờ làm việc. Năm
giờ sáng, đa số các người nhà quê nghe tiếng chuông ngân liền trở dậy
làm việc. Buổi trưa, buổi tối, họ xếp công việc lại khi tiếng chuông nổi
dậy. Tiếng chuông quan hệ đến đời sống hằng ngày của mọi người. Quên
kéo chuông quả là một tội lỗi nặng nề không thể tha thứ. Ông trùm liền
họp các bậc chức sắc trong làng để định thái độ với bác từ hư hỏng kia.
Sau một cuộc bàn định sôi nổi, hội nghị quyết định truất phế bác từ.
Nhưng người ta cũng biết ái ngại cho gia đình bác. Mất công việc làm ăn,
rồi đây gia đình bác biết trông nhờ vào đâu để sống. Sau cùng người ta
giải quyết êm thắm vấn đề này bằng cách cấp lại chức vụ kéo chuông cho
thằng Phả, con trai bác từ. Thằng bé vừa lớn lên, sức lực có thừa ắt hẳn
sẽ làm tròn nhiệm vụ. Vả chăng, hội nghị còn nghĩ rằng: "Con vua thì
lại làm vua, con bác từ chùa lại quét lá đa". Con sãi chùa làm sãi chùa
thì con bác từ ở nhà thờ nối nghiệp bố thật hết sức hợp lý. Các cụ trong
hội nghị lấy làm đắc ý về quyết định này lắm. Từ đấy thằng Phả lên thay
quyền bố nó, nhưng cũng phải qua một thời kỳ tập tành. Ông bố truyền
nghề cho con ông. Kéo chuông cũng khó khăn lắm chứ. Phải biết giật sợi
dây thừng thế nào cho chuông lắc lư đều đặn. Nhỡ tay một chút là hỏng
cả. Tiếng chuông người chết khác với tiếng chuông báo hiệu những dịp vui
mừng. Tiếng chuông dịp Sinh Nhật khác với tiếng chuông Mùa Chay. Bố
chăm chú chỉ dẫn, con chăm chỉ thụ giáo. Chỉ một vài ngày, thẳng Phả trở
thành một chú sãi có tài. Ngay trong bước đầu, nó đã tỏ ra có nhiều
năng khiếu đối với nghề giật thừng và ít lâu sau nó vượt hẳn bố trên
phương diện kéo chuông. Tiếng chuông của nó rất quyến rũ, rất gợi cảm,
đặc biệt là khi có kẻ vừa qua đời. Như một nhạc sĩ giỏi trình bày những
điệu nhạc sầu, thằng Phả biết tạo cho tiếng chuông sầu của nó một linh
hồn. Mỗi lần nghe tiếng chuông báo tử, những đàn bà đa cảm trong làng đã
phải nâng vạt áo chùi nước mắt. Không một nhà thờ nào trong xứ có tiếng
chuông thê thảm, đau đớn đến như vậy. Phải là một thiên tài mới có thể
sử dụng dây chuông một cách tài tình như thế. Và cũng như tiếng đàn,
tiếng chuông thường biểu lộ chân thành tâm hồn kẻ kéo chuông.
Tuy
trẻ tuổi, nhưng thằng Phả vốn đã có một bộ mặt đăm chiêu âm thầm. Nó
rất ít nói, ít cười, lúc nào cũng trầm lặng, lờ đờ như một nhà khổ tu.
Thỉnh thoảng, sau khi kéo chuông nó leo thang lên tầng tháp thứ ba ngắm
cảnh vật xung quanh. Vào những đêm sáng trời, nó ngồi hàng giờ trên tháp
chuông ngửa mặt quan sát những đám mây đám sao trên trời. Ai biết được
gã trai trẻ đó đang mãi tìm tòi gì trong đám tinh vân mù mịt ấy. Ai biết
được gã đang nghĩ ngợi đăm chiêu chuyện gì.
Thằng
bé vốn đa tình, mới mười tuổi đầu đã mê gái. Nó mê một con bé bằng trạc
tuổi. Ngày ngày, nàng tiên kiều diễm kia cắp sách đi học thường vẫn đi
qua trước cửa nhà thờ. Mỗi khi nghe tiếng chuông vang động trên ngọn
tháp, cô bé lại dừng bước ngẩng mặt nhìn quả chuông thấp thoáng lay động
trong khung cửa sổ. Giữa mớ tóc ngắn xõa xuống hai bờ vai, khuôn mặt
trái xoan trắng muốt lộ ra trông thật hiền hậu, dịu dàng. Cặp mắt to đen
láy đượm một vẻ quyến rũ, say đắm lạ lùng. Thằng Phả vốn vẫn để ý tới
con bé ấy, nhưng chưa bao giờ nó dám mơ tưởng gì cả. Chỉ là một chú sãi
con một bác sãi, nó đâu dám hy vọng sẽ lọt vào mắt xanh con bé xinh xắn
sang trọng kia. Con bé là quý nữ độc nhất của một vị chức sắc giàu có
trong làng. Địa vị một chú sãi nhà thờ với một cô nữ sinh con nhà giàu
quả là chênh lệch rất nhiều. Không có chút hy vọng nào chiếm được trái
tim người đẹp nhưng thằng Phả vẫn có quyền ngắm nghía con bé chứ sao.
Vào lúc cô bé đi qua, thằng Phả đứng lảng vảng dưới chân tháp để ngó tấm
thân uyển chuyển và khuôn mặt kiều diễm ấy. Nhưng ngày nào cũng giáp
mặt người đẹp trước sân nhà thờ thì thằng Phả hơi ngượng. Nó đổi vị trí,
leo lên tháp chuông, đứng trước cửa sổ để nhìn ngắm cho tự nhiên hơn.
Đứng trên tháp có điều hại nhưng cũng có điều lợi. Hại ở chỗ nhìn không
rõ mặt con bé nhưng lợi ở chỗ có thể thấy con bé rất lâu ngay cả khi con
bé đã rẽ vào những đường giong.
Mới đầu,
cô bé không biết thằng Phả đang rình nó trên tháp. Cô đi đứng tự nhiên,
một bàn tay ép sách vào ngực còn bàn tay kia thõng xuống, khẽ ve vẩy
bên đùi. Nhìn cái thân hình óng ả đó Phả thấy lòng mình rung động nhè
nhẹ. Một chút rạo rực khẽ chuyển trong thân thể nó.
Rồi
một chuyện xảy ra đã làm xáo trộn tâm hồn thằng bé đa tình. Một buổi
trưa mùa hạ, ánh nắng gay gắt đổ xuống khắp làng, cô bé đi học về vẫn
qua nhà thờ như thường lệ. Đến trước nhà thờ, hình như bị bóng ngọn tháp
và cây cối chung quanh quyến rũ nên cô bé dừng lại ngồi nghỉ trên bậc
thềm dưới chân tháp. Thằng Phả đứng rình trên tháp nhưng cô bé không
biết. Cô ngửa hẳn người dựa lưng vào tường nhà thờ, duỗi thẳng hai ống
chân và hít mạnh mấy hơi dài cho đỡ mệt mỏi. Phả uốn người ra phía ngoài
cửa sổ ngó xuống. Dưới mái tóc đen, bộ ngực con bé nhô hẳn lên và phập
phồng theo hơi thở. Tà áo lụa bị gió thổi sang bên để lộ bộ đùi nổi hằn
dưới hai ống quần lĩnh bóng. Con bé tuy còn ít tuổi nhưng vốn dĩ khoẻ
mạnh nên bộ ngực đã căng tròn và bộ đùi vừa dài vừa mập trông có vẻ ngon
lành… quá chừng.
… Nó quay mặt đi, rồi
quay lại. Hai ống chân ma quái kia thò hẳn ra ngoài nắng và ánh sáng mặt
trời làm cho chúng nõn nà bóng bẩy thêm.
Lát
sau con bé thong thả kéo ống quần xuống… Thằng Phả giật mình như vừa
tỉnh giấc mơ. Vô tình nó thụt hẳn vào trong thân thể hơi run rẩy, dường
như vừa phạm một tội lỗi xấu xa. Con bé đã đứng dậy, lơ đãng cầm mấy
cuốn sách thong thả bước đi dưới những bóng cây xanh thấp thoáng ánh
nắng. Người đẹp đã khuất sau rặng tre um tùm ở cuối một đường đất nhỏ
nhưng thằng Phả vẫn đứng thẫn thờ trên tháp. Nó áp má vào quả chuông
đồng mát rượi cho mặt đỡ nóng, rồi dùng móng tay trỏ khẽ cào vào mặt
chuông. Từ tảng kim khí gợn lên một âm thanh rất nhỏ nhưng Phả vẫn nghe
rõ. Đối với chú sãi trẻ tuổi, chút âm thanh ấy là một lời yên ủi. Phả
đăm đăm nhìn quả chuông như nhìn một người bạn thân thiết. Chỉ duy quả
chuông này biết được mối tình thầm kín của nó từ đây. Thằng bé lần xuống
mấy cây thang gỗ, uể oải thờ thẫn như kẻ mất hồn. Mà thật thế, hồn nó
còn đâu. Hồn nó đã bị tấm thân óng ả của cô nữ sinh kia thu hút mất rồi.
Lá vàng lìa cành rụng nhiều xuống mặt
đất. Thời tiết cuối thu ở miền duyên hải xứ Bắc mỗi ngày một thêm lạnh
lẽo. Trên bầu trời mờ xám, thỉnh thoảng có những đàn chim di thê bay đi
tìm những miền ấm áp hơn để tránh mùa đông sắp tới. Mỗi khi lên gác
chuông thằng Phả phải mặc thêm áo, nó mặc một chiếc áo nâu rách nhưng bề
ngoài nó thường khoác thêm một chiếc sơ-mi trắng tuy có chỗ đã vàng ố
nhưng vẫn còn lành lặn. Tóc nó để dài hơn và được vuốt bằng nước lã cho
ép sang hai bên.
Ai biết được trong lòng
chú sãi nhà thờ họ đã nảy ra một mối tình thầm kín, vô vọng. Không ngày
nào nó không luẩn quẩn ở khu nhà thờ để chờ đợi cô bé đi qua. Nó tới
trước rất sớm, chờ đợi trong sự mong mỏi hồi hộp. Cô bé vô tình không
hay biết gì cả. Tuy đôi ba lần bắt gặp Phả đứng trên gác chuông ngó
xuống, cô thoáng để ý tới hành động cử chỉ của Phả, nhưng chẳng bao giờ
nghĩ là thằng sãi thấp kém đó dám say mê cô. Một lần cô ngước mắt chăm
chú nhìn Phả rồ cúi xuống cười lặng lẽ. Chỉ có thế thôi nhưng thằng Phả
cũng giật mình đến đỗi bàng hoàng cả người. Trời ơi, cái nhìn kia sao có
vẻ đắm say thân mật như vậy, và nụ cười đó chắc hẳn bao hàm một ý nghĩa
tốt đẹp đối với Phả. Thằng sãi không dám tin cô bé có cảm tình đặc biệt
với nó nhưng nó vẫn phải nhận rằng ánh mắt và nụ cười của người đẹp có
một ý nghĩa tốt lành quá. Thật ra nỗi cảm động của Phả chỉ là kết quả
của một ảo tưởng hão huyền. Trời sinh ra đôi mắt cô bé có một vẻ đắm
say, dễ dãi tự nhiên thế thì dầu cô có nhìn tảng đá, mắt cô cũng vẫn như
vậy chứ có phải cô nhìn riêng Phả bằng ánh mắt ấy đâu. Thấy Phả đứng
trên lầu cao thì cô nhìn chơi, rồi thấy dáng điệu Phả luống cuống thì cô
cười. Nụ cười hồn nhiên không hề có ẩn ý gì hết.
Nhưng
chính cái ảo tưởng hão huyền buổi đó khiến Phả bắt đầu dám mơ ước hơn.
Nếu tình yêu có thể khiến cho kẻ hèn nhát trở nên can đảm, như lời một
nhà văn đã nói, thì sự si tình đã khiến thằng Phả dám vượt ra khỏi địa
vị nó lắm chứ. Tình yêu điên dại của nó thoáng nảy ra một tia hy vọng
nhỏ bé. Hy vọng điều gì, nó cũng chẳng biết rõ nữa. Nhưng tâm hồn nó đỡ
đau đớn, tủi hổ hơn trước. Người con gái mỹ miều ấy đã chẳng nhìn nó và
cười với nó đấy hay sao. Thằng Phả cảm thấy đầu óc lao đao hốt hoảng
hơn, nhưng nó cũng sung sướng, hồi hộp hơn.
Tuần
đại phúc tới vào khoảng giữa mùa đông. Cha chính xứ phái sang làng Phả
một vị linh mục để tổ chức các lễ nghi tại nhà thờ họ. Không khí nơi này
bắt đầu tưng bừng náo nhiệt. Cả năm chỉ có hai tuần đại phúc, một vào
khoảng giữa năm và một vào khoảng cuối năm. Những tín đồ trong làng hân
hoan đón mừng vị linh mục đại diện hàng xứ. Ai nấy đi xưng tội để dọn
mình rước lễ cho thật trọng thể. Suốt trong bảy ngày, nhà thờ họ sáng
chiều nào cũng đầy người. Sáng có lễ mi-sa, chiều có chầu Mình Thánh.
Đầu tuần và cuối tuần có rước kiệu chung quanh làng. Trước sân nhà thờ
có những cột cờ cao vút được dựng lên, trên ngọn phất phới những lá cờ
ngũ sắc. Lòng nhà thờ cũng được trang hoàng bằng những dây lụa đủ màu.
Đèn nến rực sáng trên bàn thờ. Hương hoa bốc mùi thơm ngào ngạt. Chú sãi
Phả lại phải một phen làm việc vất vả. Tuy vậy, Phả rất hài lòng vì
trong tuần đại phúc ngày nào người đẹp của Phả cũng tới nhà thờ cầu
nguyện. Tiếng chuông nhà thờ thường khi rất tưng bừng rộn rã nhờ ở đôi
tay linh hoạt đầy sinh lực của Phả. Lòng Phả vui vẻ, tuần đại phúc vui
vẻ ắt hẳn tiếng chuông phải rền lên những giọng hân hoan. Trước kia Phả
tài tình trong việc tạo nên những tiếng sầu, bây giờ gã tài tình cả
trong những điệu vui mừng. Nghe tiếng chuông nhà thờ thúc giục, dầu kẻ
khô đạo đến mấy cũng không thể nào ngồi yên ở nhà được.
Vào
sáng ngày cuối tuần đại phúc tại nhà thờ họ có lễ cưới. Phả trổ hết tài
năng kéo một hồi chuông báo sự vui mừng. Người ta chờ đợi cô dâu chú rể
tới. Vị linh mục đã mặc áo lễ, sẵn sàng để chủ tế. Từ đầu giong gần
đấy, một đám người vụt xuất hiện tiến về phía nhà thờ. Các bộ quần áo đủ
màu sắc chập chờn bên những rặng lá thưa thớt. Tiếng đàn harmonium ở
gian gác cuối nhà thờ nổi lên vui vẻ để chào mừng hai họ. Người ta bắt
đầu tiến lên bậc thềm. Cô dâu bẽn lẽn đi bên chú rể, giơ chiếc nón che
gần kín mặt.
Rất đông dân làng đứng chung
quanh sân nhà thờ để xem mặt cô dâu chú rể. Trong đám những người đứng
quan sát đó dĩ nhiên có thằng Phả. Khi đám người rước dâu tới gần, thằng
Phả bỗng nhiên khẽ kêu lên một tiếng đau đớn. Nó nhận ra cô dâu chính
là người con gái mà nó thầm mơ ước suốt mấy tháng (cô bé trạc tuổi Phả –
10 tuổi – làm sao có thể lấy chồng?) nay. Chân tay run rẩy, Phả phải
đứng tựa vào một thân cây cho vững. Rồi không sao cầm lòng được, Phả vụt
chạy khỏi nhà thờ, lần ra ngoài ruộng vắng.
Trời
trong trẻo không vẩn một đợt mây. Từng cơn gió khô lạnh chuyển mình
trên những đám mạ non. Thằng Phả chui vào một đám cỏ mọc hoang bên bờ
ruộng, nằm úp mặt xuống vành tay khóc nức nở. Mối tình đầu tiên của nó
thầm lặng u uất từ bao lâu bây giờ được dịp thoát ra bằng những giọt lệ
nóng hổi.
Trong nhà thờ, lễ cưới bắt đầu
cử hành. Hôm nay là ngày hạnh phúc nhất đời của cô nữ sinh có đôi mắt
huyền ảo và có tấm thân thể kiều diễm kia. Khi tân lang âu yếm trịnh
trọng luồn nhẫn cưới vào ngón tay thon dài của cô, cô đã đắm say liếc
nhìn người bạn trăm năm. Đó mới là cái nhìn thực sự say đắm, khác hẳn
cái nhìn vô tình cô đã ban cho thằng Phả trước kia.
Vào
buổi tối, khi tuần đại phúc chấm dứt, vị linh mục đã trở về nhà chung
và cửa nhà thờ đã khép lại, từ tháp thánh đường vụt nổi lên một hồi
chuông báo tử. Chưa bao giờ người ta thấy những tiếng chuông thê thảm,
rùng rợn đến như vậy. những người đàn bà yếu bóng vía rùng mình, run rẩy
giơ tay làm dấu thánh giá. Có dăm cụ già quỳ úp mặt xuống đất đọc kinh
sám hối. Tiếng chuông ảo não kia nhắc nhở các cụ giờ chết đã gần tới.
Trong
đêm tối, một bóng người lật đật chạy về phía nhà thờ. Đó là ông trùm
họ. Xưa nay phàm gia đình Công giáo nào trong họ có người qua đời đều
phải báo cho ông biết, rồi tự ông sẽ ra lệnh cho sãi nhà thờ nổi chuông
báo tử. Chưa có lệnh của ông không có người sãi nào dám nổi hồi chuông
đó. hôm nay trong họ có ai chết đâu. Tại sao lại có chuông báo tử?
Đến
cửa nhà thờ, ông trùm họ lớn tiếng gọi tên thằng Phả. Tiếng chuông vẫn
rền rĩ xoáy vào đêm tối và thằng Phả không trả lời. Vừa tức bực, vừa
ngạc nhiên, ông trùm họ rút chiếc đèn pin trong túi, bật lên, rồi đẩy
cửa bước vào nhà thờ. Trong ánh đèn rọi sáng, thằng Phả đứng lạnh lẽo,
một tay vẫn thong thả giật dây chuông. Ông trùm họ trợn mắt, vừa tiến
đến gần thằng sãi bướng bỉnh vừa hỏi giật giọng:
"Ai chết mà mày kéo chuông báo tử? Ai bảo mày kéo chuông báo tử?"
Nhưng
ông trùm đột nhiên rùng mình đứng sững. Trong ánh đèn, ông nhận thấy
mặt thằng Phả phờ phạc và xanh mét. Nó giương đôi mắt đỏ ngầu trân trối
nhìn thẳng vào mặt ông và tay nó vẫn giật tiếng chuông báo tử.
(Lê Huy Oanh - 1960)
- Hết -
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét