Phần I : Miền Nam
Chương V : Chiến tranh
Mặc
dù từ giữa năm 1977, Pol Pot bắt đầu được nói tới như những bóng ma áo đen, đêm
đêm cầm dao quắm lẻn sang giết chóc dọc biên giới Tây Nam, nhưng người dân Việt
Nam vẫn sững sờ khi ngày 25-1-1978, tình trạng chiến tranh được Chính phủ công
khai thừa nhận. Kể từ khi Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, đất nước trải qua
ba mươi năm chiến tranh liên tiếp chiến tranh. Chưa kịp hưởng một ngày thực sự
yên vui, trai tráng lại phải khoác lên vai cây súng, lần này là đánh nhau với
những “người anh em” Cộng sản.
Biên giới Tây Nam
Ngày
25-1-1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Ngô Điền, vụ trưởng Vụ Thông tin Báo
chí Bộ Ngoại Giao, chủ trì họp báo, cho biết nhà cầm quyền Campuchia đã huy động
phần lớn lực lượng quân đội của họ đến đóng dọc biên giới, mở những cuộc tiến
công quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, rồi sư đoàn vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam.
Cuộc họp báo của ông Ngô Điền diễn ra bốn ngày sau khi Khmer Đỏ kết thúc một cuộc
tấn công kéo dài trên vùng biên giới Tây Nam.
Từ
ngày 11 đến 19-1-1978, ba trung đoàn Khmer Đỏ đã đánh vào vùng Tịnh Biên, Phú
Cường ở bờ đông kênh Vĩnh Tế, sâu hơn 3km trong lãnh thổ Việt Nam. Ngày
18-1-1978, hai trung đoàn khác đã tiến công lấn chiếm khu vực Giang Thành, thuộc
huyện Hà Tiên, Kiên Giang. Trong ngày 21-1-1978, ba tiểu đoàn Khmer Đỏ chiếm Rộc
Xây, một khu vực ở sâu trong đất Việt Nam từ 10-12km. Ông Ngô Điền nói: “Nghiêm
trọng là ngày 19-1-1978, lần đầu tiên họ (Pol Pot) dùng pháo tầm xa cỡ lớn đặt
trên đất Campuchia bắn hàng trăm quả đạn vào thị xã Châu Đốc và vùng chung
quanh thị xã Tây Ninh làm chết và bị thương nhiều người, phá hoại nhà cửa và
tài sản của nhân dân Việt Nam”.
Ông
Điền đặc biệt lưu ý: “Lực lượng vũ trang Campuchia không chỉ tàn sát người Việt
Nam mà còn tàn sát một số người Campuchia dọc biên giới, mổ bụng, moi gan rồi
quay phim chụp ảnh nhằm mục đích vu cáo Việt Nam”. Hai tù binh Khmer Đỏ do ông
Ngô Điền đưa đến cuộc họp báo đã “thừa nhận những hành động của Pol Pot” và tiết
lộ: “Ban chỉ huy trung đoàn nói với chúng tôi rằng, Việt Nam muốn xâm lược
Campuchia, Việt Nam là kẻ thù số một”. Khmer Đỏ đã khai chiến một
ngày sau khi họ chiếm được Phnom Penh.
Ngày
18-4-1975, ngay sau khi Khmer Đỏ chiếm được thành phố Ta Keo, Soeun, chỉ huy
trung đoàn 120, đã cho triển khai quân dọc biên giới Việt Nam. Seoun, con rể của
Ta Mok, tư lệnh quân đội Khmer Đỏ, tuyên bố: “Chúng ta phải đánh Việt Nam vì mười
tám tỉnh của chúng ta, kể cả Prey Nokor (Sài Gòn) đang ở đó”. Ngày 19-4-1975, một
người con rể khác của Ta Mok, Khe Muth, đã cho hải quân đổ bộ lên đảo nhỏ thuộc
vịnh Thái Lan và tấn công đảo Phú Quốc.
Quân
đội Sài Gòn đã phải chiến đấu với quân của Khe Muth cho tới tận ngày 30-4-1975.
Ngày 1-5-1975, Khmer Đỏ quấy rối nhiều nơi dọc theo biên giới từ Tây Ninh đến
Hà Tiên. Ngày 4-5-1975, một lực lượng đổ bộ lên đảo Phú Quốc, nhưng
đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam, vừa thay thế Quân đội Sài Gòn, đánh đuổi.
Ngày 10-5-1975, Pol Pot cho quân đổ bộ lên quần đảo Thổ Chu, triệt phá làng mạc,
bắn giết và bắt đi 515 người.
Ông
Phạm Văn Trà, khi ấy là trung đoàn trưởng Trung đoàn U Minh, đơn vị trực tiếp
đánh chiếm đảo Phú Quốc và Poulo Vai từ tay Khmer Đỏ, kể: “Hàng trăm ngư dân của
ta sinh sống lâu nay ở trên đảo Phú Quốc, thấy tàu đổ quân Pol Pot lên bờ lại
nghĩ là quân Giải phóng, không đề phòng và không kịp chạy, liền bị chúng bắt
ngay lập tức. Chỉ những ai đi vắng mới thoát nạn. Lính Pol Pot tập trung tất cả
thường dân vô tội, xả súng bắn chết rồi hất xác xuống biển”.
Ngày
2-6-1975, ông Nguyễn Văn Linh, đại diện cho Đảng Lao động Việt Nam tới Phnom
Penh gặp Bí thư Pol Pot. Trong chiến tranh, hai người đã từng biết nhau và tại
cuộc gặp này, Pol Pot nói: “Quân đội Campuchia do không nắm được địa lý nên đã
để xảy ra va chạm đổ máu rất đau xót”. Pol Pot nói vậy, nhưng mãi
cho tới ngày 6-6-1975, khi Quân đội Việt Nam tiến đánh, bắt sống sáu trăm tù
binh, Khmer Đỏ mới bỏ chạy và bị truy đuổi tới một hòn đảo mà phía Việt Nam gọi
là Hòn Trọc, phía Campuchia gọi là Poulo Vai. Một tuần sau, Pol Pot, Nuon Chea
và Ieng Sary viếng thăm Hà Nội, đề nghị Việt Nam ký một “hiệp ước hữu nghị, tôn
trọng độc lập, chủ quyền của nhau”. Do Pol Pot lồng vào vấn đề ranh giới trên vịnh
Thái Lan nên lúc đó “hiệp ước” chưa được ký.
Từ
trung tuần tháng 5-1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng các đảo mà phía Việt
Nam gọi là Hòn Ông, Hòn Bà, phía Campuchia gọi là Poulo Wai, được thành lập.
Poulo Wai nằm cách thị xã Rạch Giá 220km và cách An Thới, Phú Quốc 113km về
phía tây. Hòn Ông cao năm mươi mốt mét, Hòn Bà cao sáu mươi mốt mét, nằm song
song, cách nhau ba cây số, diện tích tương đương nhau. Mỗi đảo có một bãi cát
vàng; còn lại bốn bề của đảo đều là vách đá dựng đứng. Quân đội Sài Gòn từng
xây trên đảo Hòn Bà một cây đèn biển và một sân bay dã chiến, chủ yếu cho trực
thăng và máy bay trinh sát L.19 đậu. Trung đoàn U Minh được giao đánh chiếm
Poulo Wai trong vòng hai đến ba ngày. Mặc dù được trang bị tàu há mồm và có sự
hiệp đồng tác chiến của máy bay ném bom A.37, trực thăng vũ trang và máy bay
trinh sát L.19, nhưng do lực lượng Pol Pot chiếm đảo sử dụng hỏa lực mạnh nên
chiến sự kéo dài từ ngày 5-6-1975 cho đến sáng 14-6-1975, Trung đoàn U Minh mới
làm chủ hoàn toàn hai đảo, bắt sống 782 lính Khmer Đỏ.
Ngày
2-8-1975, đích thân Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đến Phnom Penh, ký với Pol Pot một
bản thông cáo chung. Phía Việt Nam đồng ý trả lại Poulo Wai cho Campuchia. Ngày
4-8-1975, khi Nuon Chea, phó bí thư Trung ương Đảng Campuchia, tới Hà Nội, ông
ta được Nguyễn Văn Linh thông báo: “Lực lượng vũ trang Việt Nam không còn ở đảo
Trọc nữa”. Nuôn Chea nói: “Vấn đề đảo Wai, thay mặt Đảng, chúng tôi xin cảm ơn
sâu sắc”. Nhưng khi ông Linh thắc mắc về số phận của 515 người dân Thổ Chu bị
Khmer Đỏ bắt đi hôm 10-5-1975, Nuôn Chea chỉ hứa: “Sẽ giải quyết”.
Từ đây, sẽ không ai còn được nghe nói tới số phận của 515 người dân Việt Nam
này.
Tháng
4-1976, hai đảng Campuchia và Việt Nam thỏa thuận sẽ có cuộc gặp vào tháng 6
năm đó giữa lãnh đạo cấp cao để bàn bạc giải quyết vấn đề biên giới, tạo tiền đề
cho việc ký kết về mặt nhà nước một hiệp ước về biên giới. Cuộc đám
phán gần như không đạt được kết quả nào, nhưng ngày 23-5-1976 trong thư gửi Bộ
Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, Nuon Chea vẫn dùng những lời lẽ thắm thiết:
“Công việc của hai đoàn chúng ta trong thời gian qua đã đạt được thắng lợi lớn,
củng cố và phát triển hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu… Hai đoàn chúng ta đã hiểu
biết, thông cảm với nhau và hết sức chân thành trên tinh thần là bạn chiến đấu
là anh em cách mạng”. Khmer Đỏ cho đến lúc bấy giờ vẫn được gọi
là đồng chí, và Hà Nội đã không phân tích đúng mức các báo cáo của bộ đội biên
phòng lúc bấy giờ. Theo ông Ngô Điền: “Năm 1978, tôi đưa đoàn nhà báo nước
ngoài đến vùng biên giới An Giang và Tây Ninh, bản thân tôi sững sờ, ghê tởm
trước hành động dã man của bọn diệt chủng. Về Hà Nội, tôi gặp anh Phạm Văn Xô, ủy
viên Trung ương Đảng. Khi ở Trung ương Cục miền Nam anh thường được giao liên hệ
với bọn Pol Pot - Ieng
Sary. Tôi thuật lại cho anh những điều mắt thấy tai nghe về tội ác của Pol Pot.
Cho đến lúc đó, anh Hai Xô vẫn còn cho rằng những tội ác đấy có thể do chủ
trương của lãnh đạo địa phương”. Chỉ trong năm tháng đầu tiên sau
ngày Pol Pot cầm quyền, đã có hơn 150 nghìn người từ Campuchia chạy sang tị nạn
tại các tỉnh biên giới Việt Nam; trừ những người gốc Việt, hàng chục nghìn người
Hoa và người Khmer đã bị buộc quay trở lại. Số phận của họ, cũng như của hàng
triệu người Campuchia khác, được tin là đã bị các Angkars đặt dưới dao, dưới
búa. Hàng trăm người thân của những người Khmer Issarak tập kết
ra miền Bắc Việt Nam, trở về gia nhập Khmer Đỏ từ năm 1970, cũng đã bị giết khi
đến Campuchia tìm chồng, cha, sau ngày “Phnom Penh giải phóng”.
Pol Pot
Cuối
tháng 7-1976, lần đầu tiên một đoàn nhà báo nước ngoài được phép đến Campuchia.
Đoàn do ông Trần Thanh Xuân, phó tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, dẫn đầu. Tuy
vẫn rất lịch lãm, thân thiện và tỏ rõ “tình hữu nghị giữa hai dân tộc”, nhưng
trong suốt quá trình làm việc, Pol Pot vẫn giữ tư thế nguyên thủ quốc gia với
ông Xuân. Không ai biết, trong thời gian học đại học ở Paris, cũng như nhiều người
Khmer cộng sản khác, Pol Pot thường xuyên đến nhà ông Xuân, có khi chỉ là để lục
cơm nguội. Ở Paris, nhà ông Xuân được những người Khmer coi như một cơ sở của
Đông Dương Cộng sản Đảng. Cử chỉ riêng tư duy nhất mà ông ta thể hiện là trước
khi chia tay đoàn nhà báo, Pol Pot ghé tai ông Xuân hỏi nhỏ: “Chị có khỏe không
anh?”.
Thời
thơ ấu, Pol Pot được mô tả là một cậu bé nghiêm túc học hành thay vì tham gia
các trò chơi với bạn bè cùng lứa. Cha mẹ Pol Pot, một phú nông ở vùng Kongpong
Thom, “có sáu con trâu và chín hecta ruộng”. Pol Pot - đứa con út của họ, sinh
ngày 19-5-1925 với tên gọi là Saloth Sar - thay vì làm ruộng ở quê nhà, đã được
đưa đến Phnom Penh, nơi chị gái đang là một cung nữ và anh trai đang làm việc
trong ban nghi lễ Hoàng cung thời vua Monivong. Sau một năm sống trong môi trường
khép kín của Hoàng gia, cậu bé Saloth Sar bắt đầu sáu năm trong một trường dòng
quý tộc. Năm mười sáu tuổi, Saloth Sar quay lại Kongpong Thom học trung học.
Lúc ấy, Phnom Penh đang náo động bởi
các phong trào đòi độc lập của giới thanh niên học sinh. Thành phố lớn nhất mà
Saloth Sar đặt chân tới là Sài Gòn, chặng nghỉ trước khi xuống tàu sang Pháp
sau khi nhận được học bổng học ngành vô tuyến điện.
Năm
1949, tới Paris, Saloth Sar bắt đầu hoạt động cho dù được người anh trai làm việc
ở Hoàng cung khuyên là không nên dính dáng tới chính trị. Tại đây, Saloth Sar gặp
Y eng Sary, một sinh viên người Khmer sinh ra ở Việt Nam. Trong đám cưới của
Yeng Sary với Khieu Thirith - một sinh viên đang học về văn chương Anh tại
Sorbonne - Saloth Sar đã gặp và sau đó cưới Khieu Ponnary, chị gái Thirith. Họ
cùng tham gia phái bộ Campuchia trong Đảng Cộng sản Pháp. Trong thời gian đó,
chàng sinh viên Saloth Sar vẫn được coi là một con người lịch lãm, khiêm tốn. Bạn
bè có cảm giác cậu ta không giết nổi ngay cả một con gà.
Tháng
1-1953, Saloth Sar trở về Campuchia vì bị cắt học bổng sau ba năm liên tiếp thi
rớt. Những ngày đó, Sihanouk vừa ra lệnh thiết quân luật, trấn áp phong trào
đòi độc lập đã trở nên cực đoan ở Phnom Penh. Sar theo anh trai, Saloth Chhay,
bắt liên lạc với tổ chức cộng sản tại Campuchia. Sau khi xác minh đúng Saloth
Sar đang là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Phạm Văn Ba - một đảng viên người Việt
Nam - đồng ý cho anh ta sinh hoạt trong Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer.
Sau
Đại hội lần thứ II - tháng 2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương đổi tên thành Đảng
Lao động Việt Nam - những người cộng sản Lào, Khmer trong năm ấy đã được giúp đỡ
để lập ra đảng riêng. Ngày 21-9-1951, Lê Đức Thọ và Nguyễn Thành Sơn triệu tập
các đảng viên người Khmer có mặt ở Việt Bắc tổ chức Đại hội thành lập Đảng Nhân
Dân Cách mạng Khmer; Anchar Mean, người được biết nhiều với cái tên Việt Nam là
Sơn Ngọc Minh, được cử làm chủ tịch.
Sơn
Ngọc Minh là người sáng lập Phong trào Isarak năm 1948, một phong trào có ảnh
hưởng trên địa bàn bốn tỉnh gần Việt Nam. Tuy nhiên, các tổ chức cộng sản trên
đất Khmer lúc ấy vẫn được lãnh đạo bởi những đảng viên người Việt.
Saloth
Sar và một số đảng viên đã từng du học ở Pháp về được đưa vào sinh hoạt trong một
chi bộ phần lớn là đảng viên Việt Nam và do một người Việt làm bí thư. Những
người Khmer này thường chỉ được các đàn anh Việt Nam giao những công việc tạp vụ;
điều này đã để lại cho họ nhiều ấn tượng không tốt.
Người
Pháp trao trả độc lập cho ông hoàng Sihanouk từ năm 1953. Chính phủ Hoàng gia
đã ngăn cản việc Hiệp định Geneva dành cho những người Khmer Cộng sản có được một
vùng “tập kết” như những người kháng chiến Issara của Lào. Hơn 1.000 đảng viên
người Khmer được đưa ra miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, trong đó có Sơn Ngọc
Minh. Những đảng viên ở lại hoạt động bí mật dưới quyền của Sieu Heng và Tou
Samouth, chịu sự truy lùng gắt gao của chính quyền Sihanouk. Năm 1959, Sieu
Heng đầu hàng, nhiều cơ sở Đảng bị đàn áp.
Tháng
9-1960, Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer tổ chức đại hội bầu Tou Samouth, một người
có quan hệ tốt với miền Bắc Việt Nam, làm bí thư. Nhưng, năm 1962, Tou Samouth
đã “mất tích” khi vừa từ Hà Nội về; Pol Pot, khi ấy đang là phó bí thư, đương
nhiên trở thành bí thư. Thế hệ những người Khmer Cộng sản gốc nông dân và các
Phật tử ủng hộ những người cộng sản Việt Nam bắt đầu được thay thế bởi những
người đã từng du học ở Paris, nuôi tinh thần chống Việt Nam, cho dù khi ấy Khmer
Đỏ phải dạt về vùng rừng núi giáp Việt Nam và phải dựa vào những người Việt Nam
Cộng sản.
Đi dây
Norodom
Sihanouk được coi là một “ông hoàng đi dây”. Tuy nhiên, trong nửa cuối thế kỷ
20, không chỉ có ông - vị vua của một một quốc gia thờ thần bốn mặt - các bên
dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam đều có những mối quan hệ phức tạp với
nhau. Trong khi trục lợi vai trò trung lập của Phnom Penh, tất cả đều để mặc
cho Pol Pot phát triển nhanh phong trào Khmer Đỏ.
Kể
từ khi người Việt mở mang bờ cõi xuống phía Nam, nhà Nguyễn bắt đầu nhìn thấy vị
trí chiến lược của Lào và Campuchia đối với an ninh quốc gia. Hoàng đế Minh Mạng
đã từng coi Campuchia là “phên dậu” trong thế chống lại quân Xiêm. Người Pháp
cũng đã không dừng tham vọng thuộc địa của họ ở Việt Nam mà đưa quân ngược dòng
Mekong, đến Lào, Campuchia, rồi gộp chung ba quốc gia khác biệt về văn hóa
thành một xứ gọi là Đông Dương. Trong chiến tranh chống Pháp, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp coi “Đông Dương là một đơn vị chiến lược, là một chiến trường”. Khi
miền Bắc xác định, “bạo lực” là “đường lối của cách mạng miền Nam”, một con đường
men theo lãnh thổ Lào, Campuchia - thường được gọi là đường mòn Hồ Chí Minh - bắt
đầu được thiết lập.
Người
Mỹ biết rất rõ miền Bắc Việt Nam sử dụng các căn cứ ở Hạ Lào và ở Campuchia như
một bàn đạp cho các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam. Khi chưa chính thức
vào Nhà Trắng, Nixon đã yêu cầu “báo cáo chính xác về những gì kẻ địch có ở
Campuchia”, đồng thời đặt ra mục tiêu “phá hủy các căn cứ được xây dựng ở đó”.
Người Mỹ cũng biết khá chính xác việc miền Bắc sử dụng cảng Sihanoukville để nhận
vũ khí từ Liên Xô.
Trong
thập niên 1960, Sihanouk đã khá thẳng tay với Cộng sản, Chính phủ Hoàng gia
tuyên án tử hình vắng mặt Saloth Sar; năm 1967, ba bộ trưởng cánh tả - Khieu
Samphan, Hou Youn, Hu Nim - đã phải bỏ vào rừng với Khmer Đỏ.
Nhưng
Sihanouk lại là “bạn thân” với Bắc Kinh và Hà Nội. Ông làm ngơ cho miền Bắc Việt
Nam lập căn cứ trên lãnh thổ của mình. Mối quan hệ khăng khít của Sihanouk với
Hà Nội, Bắc Kinh và các quốc gia trong Phong trào không liên kết đã gây lo ngại
cho Việt Nam Cộng hòa. Tổng thống Ngô Đình Diệm được nói là đã ủng hộ lãnh tụ đối
lập Sam Sary và giúp đỡ cuộc nổi loạn của Tướng Dap Chuon. Đại sứ Việt Nam Cộng
hòa Ngô Trọng Hiếu từng bị cáo buộc đứng sau lưng một vụ mưu sát Sihanouk bằng
bom.
Tháng
8-1963, Sihanouk cắt quan hệ ngoại giao với miền Nam Việt Nam và sau đó từ chối
viện trợ kinh tế, quân sự của Mỹ. Tháng 5-1965, Sihanouk cắt quan hệ với Mỹ và
sang tháng 6-1965, ông công khai ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt
Nam. Miền Bắc Việt Nam đánh giá cao vai trò của Hoàng thân Sihanouk tới mức, cuối
năm 1964, khi Pol Pot theo đường mòn Hồ Chí Minh ra Hà Nội, ông ta đã được đề
nghị ủng hộ chính sách “chống ngoại bang” của ông Hoàng. Pol Pot đã ghi điều này
vào “sổ đen” như một bằng chứng các đồng chí Việt Nam đã không hết lòng với ông
ta. Mục tiêu của Pol Pot không phải là chống Mỹ mà là cầm quyền, nhưng làm sao
có thể cầm quyền khi Chính phủ Hoàng gia vững mạnh.
Từ
Hà Nội, Pol Pot đến Bắc Kinh và ở lại đây năm tháng. Thời gian đó, Cách mạng
Văn hóa đang ngự trị đất nước Trung Hoa. Pol Pot chia sẻ nhiều mục tiêu của cuộc
cách mạng này và nhận ra sự khác biệt trong con đường cách mạng của Pol Pot và
Hà Nội. Từ đầu năm 1968, Khmer Đỏ bắt đầu tiến hành những hoạt động du kích lẻ
tẻ, bắt cóc, phục kích nhắm vào các quan chức trong Chính quyền Sihanouk. Một số
cuộc nổi dậy do Pol Pot tổ chức ở nông thôn bị Sihanouk khủng bố tàn khốc. Du
kích Khmer Đỏ xin Việt Nam vũ khí để tự vệ, nhưng phía Việt Nam không thể đáp ứng
vì khi ấy miền Bắc đang cần Sihanouk.
Sihanouk,
tất nhiên, phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà các bên đánh giá. Một mặt,
ông làm ngơ cho miền Bắc lập các căn cứ trên đất Campuchia; mặt khác, ngày
10-1-1968, khi gặp Chester Bowles, phái viên của Tổng thống Mỹ Johnson,
Sihanouk nói: “Chúng tôi không muốn có người Việt Nam nào ở Campuchia. Chúng
tôi sẽ rất vui mừng nếu các ngài có thể giải quyết được vấn đề này. Chúng tôi
không phản đối việc truy tìm ráo riết ở những vùng bỏ hoang. Các ngài sẽ giải
phóng chúng tôi khỏi Việt Cộng”.
Nhà
Trắng đã “dịch” câu nói này theo nghĩa “Sihanouk mời Mỹ tấn công” vào những căn
cứ ấy. Hai tháng sau đợt oanh kích bí mật của Mỹ, ngày 13-5-1969, trong một cuộc
họp báo, Sihanouk nói: “Không có ai bị mất nhà cửa hay thiệt mạng trong đợt ném
bom này, không có người Campuchia nào cả”. Năm 1969, Sihanouk
tìm cách nối lại quan hệ ngoại giao với W ashington, nhưng trước khi việc
thành, năm 1970, ông bị Lonnol đảo chính.
Ngày
7-1-1970, Sihanouk cùng bà hoàng Monique và tùy tùng gồm mười một người rời thủ
đô Phnom Penh. Trong khi ông đang nằm “chữa bệnh béo phì, bệnh máu, và chứng tiểu
tiện ra Anbumin” ở châu Âu, tại Phnom Penh, các tướng tá và chính trị gia - những
người năm 1963 đã phản đối việc ông từ chối viện trợ kinh tế của Mỹ và sau đó,
năm 1965, cắt đứt quan hệ ngoại giao - bắt đầu buộc tội ông bất lực khi để quân
đội Bắc Việt Nam “tràn ngập ở vùng biên giới”. Ngày 8-3-1970, tại Svay Rieng, một
cuộc biểu tình chống Việt Nam nổ ra. Ngày 11-3-1970, khoảng 20.000 thanh niên
Campuchia đã cướp phá tòa đại sứ của Bắc Việt Nam tại Phnom Penh.
Lẽ
ra, ngày 13-3-1970, Sihanouk phải về Phnom Penh để kiểm soát tình hình, nhưng
ông vẫn đến thủ đô Moscow (Liên Xô cũ) theo kế hoạch. Chủ tịch Xô-Viết Tối cao
Nikolai Podgorny đã khuyên ông về nước ngay, nhưng Sihanouk đã ở lại đó năm
ngày. Ngày 18-3-1970, Quốc hội Campuchia phế truất chức quốc trưởng của ông.
Sihanouk choáng váng khi Thủ tướng Liên Xô Kosygin cho hay tin trên đường tiễn
ông ra sân bay. Không ai trong đoàn tùy tùng dám cả gan báo tin này cho ông cả.
Tất nhiên, miền Bắc Việt Nam có bị tổn thất sau cuộc đảo chính. Ông Nguyễn Nhật
Hồng, người thanh toán các chi phí bí mật để vận chuyển vũ khí qua ngả
Campuchia, xác nhận điều Kissinger viết trong cuốn Ending the Vietnam War: kể từ
sau năm 1970, cảng Sihanoukville không còn được miền Bắc dùng để cung cấp vũ
khí cho miền Nam nữa. Ông Hồng kể: “Khi Trung Quốc và Liên Xô xung đột với
nhau, đóng cửa biên giới, hàng hóa từ Liên Xô không thể chuyển bằng tàu liên
vận qua biên giới Trung Quốc, m iền Bắc phải thuê tàu viễn dương chở vũ khí
viện trợ của Liên Xô về cảng Sihanoukville. Việc này được cả Sihanouk và
Lonnol đồng ý”. Đổi lại, một khoản “lót tay” bằng 20% trị giá hàng nhập cảng sẽ
được chi cho hai người. Phòng Thanh toán Đặc biệt B29 mở cho Sihanouk và Lonnol
mỗi người một tài khoản bí mật ở Thụy Sỹ.
Trong
những năm 1966-1969, lượng hàng hóa mà miền Bắc Việt Nam chuyển qua cảng
Sihanoukville gồm: 20.478 tấn vũ khí, 1.284 tấn quân trang, 731 tấn thuốc
men, 65.810 tấn gạo, 5.000 tấn muối, và 4.115 tấn thực phẩm hộp và
khô. Theo ông Nguyễn Nhật Hồng: “Từ năm 1969, Lonnol yêu cầu khoản 10% của ông
phải được trả bằng vũ khí. Tôi nghĩ, các nhà phân tích tình báo của ta có thể
đoán biết được ý đồ đảo chính của Lonnol khi ông ta lấy súng thay vì lấy tiền”.
Theo ông Hồng, “khoản thanh toán đặc biệt chi lót đường” này được bản “Báo cáo
Tổng kết công tác ngoại hối đặc biệt” do ông Mai Hữu Ích ký ngày 25-11-1979,
ghi là “chi phí vận tải tuyệt mật”, với tổng số tiền lên tới 36.642.653 USD. Lịch
sử dường như đã xếp đặt để ông Hoàng Sihanouk kết thúc một chặng đường chính trị
của mình tại Bắc Kinh, nơi vẫn tổ chức đón tiếp ông theo nghi thức của một ông
hoàng đang trị vì. Thủ tướng Chu Ân Lai đã ra tận cầu thang máy bay ôm hôn, và
phía sau ông, “gần như toàn bộ ngoại giao đoàn” ở Bắc Kinh có mặt. Sau khi lên
chiếc xe cắm cờ cả của Campuchia và Trung Hoa, Chu Ân Lai nói với Sihanouk:
“Đêm qua, tôi đã cho tất cả các trưởng đoàn ngoại giao biết rằng Chính phủ
Trung Quốc vẫn coi ngài là quốc trưởng hợp pháp duy nhất của Campuchia. Tôi
cũng cho họ biết là tôi rất mong muốn
tất cả các đại sứ có mặt để đón ngài tại sân bay”. Sự tinh tế của
người Trung Hoa không dừng ở đấy. Chu Ân Lai đã tặng Sihanouk một dinh thự vào
loại đẹp nhất Bắc Kinh. Đồng minh thân cận nhất của Bắc Kinh là Bắc Triều Tiên,
cũng chỉ trong vài tháng, xây cho ông Hoàng lưu vong một dinh thự kiểu cung điện
nhìn ra mặt hồ. Tại đây, Sihanouk vẫn là một ông vua. Đích thân Kim Nhật Thành
thường xuyên mời Sihanouk và thân quyến thịt nướng, trứng cá và rượu vang Pháp.
Những phim phương Tây mới nhất mà cha con ông Kim nhập về sau khi xem xong đều
chuyển cho Sihanouk mượn. Năm 1991, Sihanouk đã đưa đội sỹ quan cận vệ người Bắc
Triều Tiên do Kim Nhật Thành “tặng” về Phnom Penh sử dụng.
Trong
cuộc “hội đàm” ngày 19-3-1970, Chu chuyển lời của Mao Trạch Đông nhắn với
Sihanouk: “Nếu Hoàng thân không chấp nhận việc đã rồi và quyết định lãnh đạo một
phong trào kháng chiến chống Mỹ giải phóng Campuchia thì Trung Quốc sẽ ủng hộ
và sẵn sàng trợ giúp những gì có thể”. Tuy nhiên, cả Chu Ân Lai
và Mao Trạch Đông khi ấy chưa ai nghĩ đến khả năng bắt tay giữa Pol Pot và
Sihanouk. Ngày 21-3-1970, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bí thư Trung ương Cục Phạm
Hùng bí mật tới Bắc Kinh, cả hai thuyết phục Chu Ân Lai và Pol Pot cùng hợp
tác. Hai hôm sau, ngày 23-3-1970, Sihanouk đưa ra “tuyên bố năm điểm”, bắt tay
với Khmer Đỏ, những người đã từng bị chính ông ta “xử tử hình vắng mặt”.
Sihanouk cũng tuyên bố sẽ thành lập “quân đội giải phóng” và “mặt trận thống nhất
dân tộc”, ông đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh chống Mỹ của những người Cộng sản
Việt Nam, Lào và Campuchia. Tại Bắc Kinh,
“Chính phủ Sihanouk” được cung cấp vật chất và cá nhân ông được chăm sóc như một
nguyên thủ quốc gia.
Ngày
24-4-1970, Sihanouk được đưa trở về vùng “ba biên giới” để tham gia Hội thảo
Thượng đỉnh về các Dân tộc Đông Dương cùng với Thái tử Souvanouvon của Pathet
Lào, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam, và Phạm Văn Đồng.
Khi trở lại Bắc Kinh vào ngày 27-4-1970, Sihanouk ra một tuyên bố chung cam kết
“hỗ trợ có đi có lại” trong “cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung: Đế quốc Mỹ”.
Trước đó, lực lượng miền Bắc Việt Nam tại Campuchia đã tổ chức rải truyền đơn
và phát lời kêu gọi của Sihanouk, tổ chức tuyển dụng và huấn luyện giúp
Sihanouk một lực lượng gọi là
Khmer Rumdo. Kissinger cáo buộc miền Bắc Việt Nam nuôi dưỡng Khmer Đỏ và giúp đỡ
để Pol Pot chiếm được chính quyền. Kissinger cho rằng: “Nếu có người nào đó gây
ra cuộc chiến tranh ở Campuchia và biến sự diệt chủng của Khmer Đỏ thành hiện
thực thì đó chính là Hà Nội”. Tuy nhiên, bom đạn Mỹ đã đóng một
vai trò quan trọng. Bằng những chiến dịch tuyên truyền, vừa hù dọa,
vừa kích động lòng căm thù Mỹ và chính quyền Lonnol, Khmer Đỏ đã tuyển được
hàng trăm nghìn thanh niên tham gia lực lượng của họ. Năm 1974, mọi thanh
niên từ mười sáu tuổi trở lên bị buộc gia nhập lực lượng Khmer Đỏ, những người
từ chối có thể bị Khmer Đỏ bắn chết. Những đứa trẻ bị buộc phải cầm súng trong
giai đoạn này đã trở nên vô cùng hung hãn. Khi đàm phán Hiệp định Paris, Lê Đức
Thọ đã đòi loại bỏ các cơ cấu phi cộng sản ở Campuchia. Khi ấy, ông Thọ và các đồng
chí của ông ở Hà Nội không thể nào ngờ, chính “ông anh” Trung Cộng không hề
mong muốn một chiến thắng về ý thức hệ ở Campuchia. Tháng 6-1972, Chu Ân Lai
nói với Kissinger: “Trung Quốc muốn ở Lào và Campuchia có một kết cục trong đó
‘các nhân tố tư bản’ có thể tham gia trong chính phủ và giới cầm quyền truyền
thống có thể là người đứng đầu quốc gia”. Chu nói thẳng với
Kissinger: “Chúng tôi có thể tin rằng Thái tử Sihanouk là người đứng đầu nhà nước
ở Campuchia và người đứng đầu nhà nước ở Lào sẽ là nhà vua”.
Tháng 2-1973, khi Kissinger thăm Bắc Kinh sau chuyến đi tới Hà Nội, ông nhận
ra: “Các lãnh đạo Bắc Kinh bắt đầu hiểu rằng việc Hà Nội chi phối Đông Dương có
thể là một thắng lợi về ý thức hệ nhưng là một thất bại về địa chính trị đối với
Trung Quốc”.
Campuchia
càng ngày càng trở thành một ván bài phức tạp, có quá nhiều người chơi mà không
ai tin tưởng ai. Trung Quốc biết Khmer Đỏ là lực lượng chính nhưng cũng sợ
Khmer Đỏ mạnh tới mức làm hỏng con bài Sihanouk.
Thật
khó để định lượng trong chính sách thù địch với Việt Nam của Pol Pot có bao
nhiêu lý do từ việc Hà Nội sốt sắng ủng hộ Hoàng thân Sihanouk. Tháng 4-1970,
khi Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đề nghị thiết lập một lực lượng quân sự phối hợp giữa
Khmer Đỏ và lực lượng ủng hộ Hoàng gia, Pol Pot lúc ấy đang ghé qua Hà Nội, đã
thẳng thừng từ chối. “Con bài” Sihanouk không chỉ làm mất lòng Pol Pot mà còn
khiến cho những người Khmer tập kết chạnh lòng. Kể từ khi lưu vong, năm nào
Sihanouk cũng sang Việt Nam ăn Tết. Để làm đẹp lòng ông Hoàng, những khi
Sihanouk đến Hà Nội, những người Khmer Issarak, cựu thù của ông, sống ở Thủ đô
đều được “mời” đi các tỉnh khác. Theo ông Ngô Điền: “Cố Thủ tướng Chăn Si, một
cán bộ tập kết gắn bó với Việt Nam, khi tâm sự về điều này đã rơm rớm nước mắt,
trách ta coi nhẹ những người cộng sản Campuchia mà đề cao quá mức vua chúa”.
Năm
1973, Việt Nam đã đưa Sihanouk trở về “vùng giải phóng”, nơi về danh nghĩa ông
là người đứng đầu nhưng trên thực tế đang do Khmer Đỏ nắm. Sihanouk đã nhiều lần
đề nghị Chu Ân Lai thu xếp chuyến đi này nhưng Chu Ân Lai từ chối. Sau Hiệp định
Paris, Sihanouk gặp trực tiếp Yeng Sary, đại diện của Khmer Đỏ tại Bắc Kinh,
nhưng cũng bị Yeng Sary lảng tránh. Sau đó, Sihanouk đã cầu cứu Hà Nội và được
Thủ tướng Phạm Văn Đồng sốt sắng nhận lời, ông đã nhờ Bắc Kinh tác động thêm để
Pol Pot chấp nhận chuyến đi của Sihanouk. Khmer Đỏ đã khai thác
được triệt để uy tín của Sihanouk trong chuyến đi này để gây thanh thế đối ngoại,
nhưng về đối nội, Pol Pot không cho phát bản tuyên bố của ông. Đặc biệt, Khmer
Đỏ đã tranh thủ chuyến đi để nói xấu Việt Nam với Sihanouk.
Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ
Người
Mỹ tin rằng miền Bắc Việt Nam đã trang bị pháo binh hạng nặng và trợ giúp công
binh cho Khmer Đỏ trong chiến dịch cuối cùng tiến vào Phnom Penh. Tướng Giáp
xác nhận: “Lúc này, quân và dân Campuchia đã từng bước phá vỡ sức đề kháng của
quân đội Lonnol ở ngoại vi thủ đô Phnom Penh. Được ta trợ giúp đạn súng lớn, bạn
đã nã pháo vào trung tâm thành phố. Ngày 12-4, Mỹ tổ chức cuộc hành quân mang
tên Diều Hâu, di tản cố vấn và binh lính Mỹ ra khỏi thủ đô bằng đường không.
Ngày 17-4, Phnom Penh được giải phóng”.
Đêm
trước khi được Khmer Đỏ “giải phóng”, Phnom Penh gần như không ngủ, phần vì cả
thành phố chìm trong tiếng súng, phần vì người dân chờ đợi một biến cố mới cho
dù không ai lúc ấy có thể tưởng tượng được những điều mà Pol Pot sẽ làm.
Vào
lúc 7 giờ 30 sáng 17-4-1975, Chính quyền Lonnol ra lệnh cho quân đội đầu hàng.
Cờ trắng được nhìn thấy ở khắp nơi, trong khi hàng ngàn người dân, chủ yếu là
thanh niên, học sinh, đã xuống đường chào đón Khmer Đỏ với niềm tin đã tới ngày
hòa bình. Thoạt đầu, người dân tỏ ra yên tâm khi thấy những người lính Khmer Đỏ
chỉ bắn chỉ thiên nhằm ngăn chặn nạn hôi của và vãn hồi trật tự. Khoảng 1 giờ
trưa, khi lực lượng Khmer Đỏ từ Quân khu Bắc tiến về chiếm Đài Phát thanh Quốc
gia, ra lệnh cho tất cả các bộ trưởng, tướng lĩnh, các viên chức cao cấp của
Chính quyền Lonnol ra trình diện vào lúc 2 giờ chiều, sách báo “của bọn đế quốc”
bắt đầu bị ném ra đường và đốt. Hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret
từ chối di tản theo đề nghị của Đại sứ Mỹ. Sirik Matak sau đó bị bắt khi tị nạn
trong tòa Đại sứ Pháp còn Long Boret thì gọi điện thoại chỉ đường cho Khmer Đỏ
tới tận nhà. Cả hai đều bị giết. Sáng sớm hôm sau, 18-4-1975, số phận của những
người ra trình diện được định đoạt: các tướng lĩnh của Lonnol bị đưa đi hành
quyết tại sân vận động Olympic, các quan chức dân sự bị giết ở Hội quán Thể
thao. Hai anh em nhà Lonnol, Chủ tịch Quốc hội Ung Bun Hor, nhà sư Saundech
Saugh, các tướng lĩnh và nhiều bộ trưởng cũng bị giết. Chính quyền ở các địa
phương cũng bị đối xử tương tự. Ngày 23-4-1975, ở Battambang, các sỹ quan được
Khmer Đỏ đưa lên sáu chiếc xe nói là đi đón Sihanouk nhưng kết quả là họ đã bị
hành quyết ở một nơi hoang vắng. Nhưng phải đến khi Pol Pot trục xuất toàn bộ
dân chúng ra khỏi tất cả các đô thị trên cả nước thì người dân mới biết rõ
trong số các nạn nhân của chế độ gồm có cả mình. Nếu như trong ngày 18-4-1975,
dân chúng ở Phnom Penh còn có thể hỏi han khi nghe lệnh sơ tán thì ngày hôm
sau, họ phải đối diện với những tên lính mười bốn, mười lăm tuổi lăm lăm súng
trong tay: hoặc ra khỏi nhà, hoặc ăn lựu đạn. Không chỉ có cảnh cáo, những người
phản đối đã bị bắn chết trước mắt người thân. Người dân chỉ kịp nhặt nhạnh vài
thứ đồ đạc, nhà cửa bị buộc phải bỏ lại đằng sau. Chỉ vài ngày sau, họ sẽ nhận
ra tài sản không đáng giá so với những gì sẽ mất. Nhiều gia đình phải li tán, vợ
chồng, con cái bị xé, mỗi người bị đưa tới một nơi. Họ đã phải đi bộ nhiều
ngày, có người phải đi bộ năm, sáu tuần liên tục, về các vùng mà Pol Pot dự định
xây dựng các hợp tác xã bậc cao. Những người ốm yếu bị vất lại. Người dân bắt đầu
nhìn thấy tương lai của mình qua những xác chết nằm la liệt trên đường. Khoảng
0,53% số dân Phnom Penh đã bị chết trên đường đi. Tính cả số các
quan chức bị hành quyết và người dân bị bắn do không chịu chấp hành, hơn hai
mươi nghìn người đã bị giết trong những ngày đầu “Phnom Penh giải phóng”. Pol
Pot nhận được “tin chiến thắng” khi đang ở Oudong với Khieu Samphan. Khieu
Samphan nhớ lại: “Khi ấy, chúng tôi tránh thể hiện cảm xúc. Không có tiếng súng
chào mừng hay điều gì tương tự. Tôi không chúc mừng ông ta (Pol Pot). Ông ta
nói đơn giản đây là một chiến thắng vĩ đại mà nhân dân Campuchia tự giành được”. Pol Pot lặng lẽ về Phnom Penh vào ngày 24-4-1975, sau khi ra lệnh
đưa toàn bộ người dân thành phố về các vùng nông thôn.
Ngày
17-4-1975, Yeng Sary đang ở Quảng Trị. Thay vì theo đường Hồ Chí Minh đi
Rattanakiri, Yeng Sary bay ngược trở lại Bắc Kinh để ngày 24-4-1975, được đưa
trở về Phnom Penh bằng một chiếc Boeing 707. Sau ba ngày đại hội đặc biệt toàn
quốc, khi được giao phát ngôn cho Chính quyền, Khieu Samphan cho rằng chính
“máu xương của nhân dân” đã viết nên “trang sử chói lòa của dân tộc”.
Pol Pot, với một gương mặt được mô tả là tử tế, nụ cười luôn thường trực trên
môi và rất kiệm lời, bắt đầu ban hành chính sách tám điểm: di tản toàn bộ dân
chúng ra khỏi tất cả các thành phố; thủ tiêu tất cả chợ búa; ngưng lưu hành tiền
tệ; buộc các nhà sư phải lao động tại các nông trang; hành hình các nhà lãnh đạo
Lonnol; thành lập các hợp tác xã cao cấp trên toàn quốc, áp dụng chế độ nhà ăn
tập thể; trục xuất toàn bộ người Việt Nam; triển khai quân dọc biên giới, đặc
biệt là biên giới Việt Nam.
Trong
số ra tháng 8-1975, Tung Padevat, tờ báo nội bộ của Khmer Đỏ, giải thích việc
đưa hết dân chúng ra khỏi Phnom Penh là nhằm xóa sở hữu tư, bắt tư sản phải lao
động chân tay như những người nông dân. Bài báo viết: “Sự thật là, chúng ta mạnh
hơn và có ảnh hưởng hơn khu vực tư nhân khi chúng ta ở vùng nông thôn”. Việc
bãi bỏ sử dụng đồng tiền, theo bài báo này, không chỉ để đánh giai cấp tư sản,
mà: “Tiền bạc sẽ dẫn đến sở hữu tư… Nếu chúng ta sử dụng tiền, nó sẽ rời vào
tay tư nhân… Nếu đồng tiền rơi vào tay kẻ xấu hoặc kẻ thù, chúng sẽ dùng tiền để
hối lộ, làm tha hóa cán bộ… Rồi, trong một năm, mười năm, hai mươi năm nữa, cái
xã hội trong sáng của Campuchia sẽ trở thành Việt Nam”. Khát vọng
vượt các “đảng anh em” trong xây dựng chủ nghĩa cộng sản, tái lập đế chế
Angkor, đã biến Pol Pot từ một kẻ trói gà không chặt trở thành một tên giết người
điên rồ. Trong một tài liệu mật của Trung ương phát hành ngày 19-9-1975, nghĩa
là sau vừa đúng năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Khmer Đỏ khẳng định: “So
sánh với cách mạng ở Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam, chúng ta đang đi trước họ
ba mươi năm”. Hàng triệu người bị buộc phải lao động nặng nhọc
12-15 giờ mỗi ngày, trong khi ăn không đủ no vì gạo phải để dành cho chỉ tiêu
xuất khẩu hai triệu tấn trong năm 1977.
Trong
tuyên bố của Khieu Samphan đưa ra vào ngày 27-4-1975, ngay sau Đại hội Toàn quốc
Đặc biệt, Sihanouk vẫn được coi là “một nhà yêu nước vĩ đại” và vẫn được giữ vị
trí đứng đầu nhà nước. Trong thời gian ấy, Sihanouk đang ở Bình Nhưỡng, nơi Kim
Il Sung xây cho ông một tòa lâu đài nhìn ra mặt hồ Chhang Sou On. Tháng 9-1975,
Pol Pot gửi Phó Thủ tướng Khieu Samphan và Bộ trưởng Thông tin Yeng Thirith, vợ
Yeng Sary, tới Bình Nhưỡng mời Sihanouk trở lại Phnom Penh. Khieu Samphan nói với
ông: “Chúng ta đã có điều kiện để trở thành 100% cộng sản. Chúng ta có thể vượt
qua thậm chí người anh Trung Hoa. Với bước đại nhảy vọt, chúng ta có thể tiến đến
mục tiêu chủ nghĩa cộng sản bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa xã hội”.
Họ cùng đi tàu trở lại Bắc Kinh, ở đó, Khieu Samphan tháp tùng Sihanouk và bà
hoàng Monique đến thăm Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Mao lúc ấy tám mươi hai tuổi
“gần như trần truồng trên giường bệnh” nhưng có vẻ như ông vẫn
hình dung được những gì học trò ông đang làm ở Campuchia. Mao chỉ thị cho đại
diện Khmer Đỏ: “Đừng đưa Hoàng thân Sihanouk và bà Hoàng tới công xã”. Những lời
của Mao đã có giá trị cứu mạng Sihanouk. Chu Ân Lai, khi ấy cũng đang ở trên
giường bệnh ung thư giai đoạn cuối, nói với Khieu Samphan và Yeng Thirith với
giọng mà Sihanouk mô tả là khẩn nài: “Xin hãy đi từng bước lên chủ nghĩa cộng sản.
Đừng đi theo mô hình đại nhảy vọt sai lầm của chúng tôi”. Sihanouk nhớ lại là cả
Khieu Samphan và Thirith đều “cười ranh mãnh”. Khmer Đỏ không cho rằng họ có học
tập ai đó, thậm chí cả Mao Trạch Đông; họ muốn xây dựng một xã hội chưa từng có
trong lịch sử.
Ngày
9-9-1975, Sihanouk rời Bắc Kinh trong cờ hoa, Đặng Tiểu Bình gọi đây là “sự trở
về trong vinh quang”. Sự thật là Pol Pot chỉ cần uy tín của Sihanouk để lấy lại
chiếc ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc. Ở Phnom Penh, khi ông Hoàng đề nghị
Pol Pot cho gặp một người chú già và một người dì của ông bị đưa đi công xã từ
hồi tháng 4-1975, ông đã bị từ chối. Đại diện Pol Pot nói với Sihanouk là ông sẽ
được gặp họ sau chuyến đi đến Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Trong suốt chuyến đi
New York, Yeng Sary luôn cập kè bên ông. Khi họ chuyển tiếp tại Paris, không ai
trong số những người bạn cũ của Sihanouk có thể lọt vào nơi ở của ông để được gặp
ông trực tiếp. Sihanouk thừa nhận là khi ấy ông đã nhận ra không khí chết chóc ở
Campuchia, nhưng vì “trách nhiệm và niềm kiêu hãnh” cá nhân, tháng 12-1975,
Sihanouk cùng bà hoàng Monique, mẹ vợ và hai mươi hai người con, cháu của ông
đã trở lại Phnom Penh. Kết cục là trong hơn ba năm sống với Khmer Đỏ, Sihanouk
đã trở thành một tù nhân; năm người con và mười ba người cháu của ông đã bị
Angkar đưa đến các công xã để rồi không bao giờ nghe nhắc đến tên họ nữa. Sihanouk
khi mới trở về vẫn là quốc trưởng của Chính phủ Hoàng gia được lập ra ở Phnom
Penh, nhưng ông và Thủ tướng Pen Nouth, người trung thành của ông, chỉ có hư
danh. Ngày 20-3-1976, Quốc hội Campuchia được bầu với thành phần chủ yếu là các
bí thư quân khu và chi khu của Khmer Đỏ. Theo hiến pháp mới, Campuchia sẽ có một
hội đồng chủ tịch nhà nước do Quốc hội bầu lên. Sihanouk phải đệ đơn từ chức để
cho Khieu Samphan làm chủ tịch. Hai phó chủ tịch thứ nhất và thứ hai là hai vị
tư lệnh quân khu: So Phim, Quân khu Đông và Nhim Ros, Quân khu Tây Bắc. Ngày
12-4-1976, Pol Pot bắt đầu xuất hiện công khai với vai trò thủ tướng, Yeng Sary
làm bộ trưởng Ngoại giao, Son Sen làm bộ trưởng Quốc phòng.
Ngày
22-7-1975, trước 3000 đại biểu của các đơn vị quân đội, Pol Pot nói: “Trên toàn
thế giới, trong lịch sử đấu tranh cách mạng và kể từ khi nước Mỹ ra đời, không
ai, không có quốc gia nào, lại có thể đánh đuổi đế quốc đến tên cuối cùng và
giành thắng lợi hoàn toàn” như Khmer Đỏ; còn Pol Pot cho rằng: “Đây là một
thắng lợi mẫu mực cho nhân dân thế giới”.
“Kẻ Thù Lịch Sử”
Từ
ảo tưởng này, tại lớp chính trị tổ chức cho 700 cán bộ chủ chốt của Đảng trong
hai tháng cuối năm 1975, Nuon Chea cho rằng Campuchia bấy giờ vừa là công trường
lao động, vừa là chiến trường chống Việt Nam. Chính sách thù địch với Việt Nam
mà Khmer Đỏ tiến hành không chỉ bằng định kiến lịch sử được dồn nén qua nhiều
thế kỷ, mà còn bằng cả mối quan hệ ngắn ngủi giữa những người cộng sản khi cùng
sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm
1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được Trần Phú, theo lệnh Quốc tế Cộng sản, thay bằng
một đảng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuy là Đảng Cộng sản Đông Dương,
nhưng ngay cả những phái bộ ở Lào hay Campuchia đều có lượng đảng viên người Việt
Nam chiếm số đông. Từ năm 1935, “Liên bang Đông Dương” bắt đầu được những người
theo đường lối Quốc tế Cộng sản cực đoan tính tới. Tháng 7-1946, Hồ Chí Minh tới
Fonteinebleau. Khi những người Việt Nam trong Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu những
đảng viên người Khmer với phái đoàn Việt Nam và đề nghị họ “đi gặp Bác Hồ”,
Thiounn, người về sau là một bộ trưởng của Pol Pot, nói: “Chúng tôi trả lời,
ông ta không phải là bác của chúng tôi. Họ lại bảo, chúng ta là anh em, các bạn
nên thể hiện sự tôn trọng, nhưng chúng tôi cũng từ chối”. Từ năm
1970, nhiều đơn vị Việt Nam đóng quân tại các căn cứ nằm dọc theo biên giới
Campuchia đã bị tấn công mà thủ phạm về sau được xác định là lực lượng của Khmer
Đỏ. Không chỉ hướng sự thù địch vào người Việt, từ năm 1973, Khmer Đỏ bắt đầu
chống lại cả Khmer Rumdo, lực lượng ôn hòa, ủng hộ Sihanouk và từng được Việt
Nam huấn luyện.
Ngày
4-11-1973, sau khi bắt cóc ba nhóm Khmer Rumdo, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Khu 25
ở Kandal, gặp những người Khmer Rumdo ở Prey Veng, yêu cầu Khmer Rumdo hủy bỏ
chủ trương hợp tác với các lực lượng miền Bắc Việt Nam. Những người Khmer Rumdo
từ chối. Cuộc tranh cãi đã dẫn đến một cuộc đọ súng và với sự tham gia của các
đơn vị Việt Nam, Khmer Rumdo đã tiêu diệt bốn mươi hai lính Khmer Đỏ, đẩy lui
phần còn lại. Từ đó, các cuộc đụng độ giữa hai lực lượng gần như thường xuyên xảy
ra. Mấy tháng trước đó, khi di chuyển từ Khu IX lên Trung ương Cục, ông Võ Hồng
Thắm, thư ký riêng của ông Kiệt, đã bị Khmer Đỏ giết khi vừa chạy xuồng qua
biên giới Campuchia đoạn tiếp giáp với Hồng Ngự, Đồng Tháp. Cái chết của ông Thắm
không phải là cá biệt. Đầu thập niên 1970, các đơn vị nhỏ lẻ của quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam vẫn thường bị tập kích. Chỉ sau khi các đơn vị miền Bắc
Việt Nam tấn công trừng phạt, Khmer Đỏ mới tạm hạn chế quấy rối.Năm 1970, hơn
800 cán bộ người Khmer tập kết ra miền Bắc Việt Nam được đưa trở lại Campuchia
đã bị Khmer Đỏ dần dần thủ tiêu vì coi họ là những “người Khmer, đầu Việt”. Một
số chạy thoát sang Việt Nam, nhưng theo ông Võ Văn Kiệt: “Thoạt đầu, Trung ương
Cục chủ trương trả lại cho Khmer Đỏ, kết quả là tất cả họ khi về tới cứ của Pol
Pot đều bị giết. Về sau, Trung ương Cục thống nhất với Pol Pot, phía Việt Nam
chỉ trao trả những cán bộ nào chấp nhận trở lại hàng ngũ Khmer Đỏ”.
Sau
ngày 30-4-1975, Việt Nam cũng đang say sưa với chiến thắng, những chiến dịch
gây hấn biên giới của Pol Pot đã không được đánh giá đúng mức và các nhà lãnh đạo,
trong các chuyến đi tới Campuchia, cũng đã không đủ nhạy cảm để nhận ra Khmer Đỏ
là ai, và đã không có ấn tượng đầy đủ trước không khí chết chóc đang bao trùm
quốc gia chùa tháp.
Ngày
2-6-1975, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh theo đường bộ từ Thành phố
Hồ Chí Minh đến Phnom Penh gặp Pol Pot để giải quyết các vụ đụng độ ở các đảo
Phú Quốc và Poulo Wai. Đường dài gần 200km qua ba tỉnh trước khi tiến đến thủ
đô, nhưng ông đã không nhận thấy dấu hiệu khác thường gì. Đúng hai tháng sau,
Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn lại dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam đến
Campuchia trong một chuyến thăm đáp trả chuyến đi ngày 12-6-1975 của Pol Pot,
Nuon Chea và Yeng Sary. Một thành phố Phnom Penh vắng tanh đã không trở thành mối
băn khoăn của ông và tùy tùng. Đúng một năm sau đó, Pol Pot cho phép một đoàn
nhà báo Việt Nam đi đến nhiều nơi ở Campuchia, các nhà báo có nhận ra sự “vắng
vẻ lạ thường” ở Phnom Penh nhưng rồi đã choáng ngợp khi Pol Pot trình diễn
“tình anh em giữa hai đảng và hai dân tộc”. Theo một thành viên
của đoàn, nhà báo Tô Quyên, Chính phủ Pol Pot- Yeng Sary đã tái hiện “tình đoàn
kết chiến đấu và hữu nghị tươi đẹp ấy” bằng một đêm trình diễn văn nghệ tại nhà
hát lớn thủ đô Phnom Penh. Còn Thủ tướng Pol Pot thì tiếp đãi đoàn vô cùng nồng
thắm.
Chỉ
mấy tuần sau khi đoàn nhà báo Việt Nam rời Phnom Penh, cuộc thanh trừng những
nhân vật Khmer Đỏ có dính líu tới Việt Nam bắt đầu được Pol Pot tiến hành. Năm ấy,
một số nhà lãnh đạo Khmer Đỏ vốn là đảng viên từ thời Đảng Cộng sản Đông Dương
như Keo Meas đề nghị tổ chức kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập Đảng Campuchia,
tính theo ngày 30-9-1951, ngày mà tại Việt Bắc, lãnh tụ Sơn Ngọc Minh tuyên bố
thành lập Đảng Campuchia. Tuy nhiên, đó là một quá khứ mà Pol Pot không muốn
dính líu.
Mười
ngày trước sinh nhật Đảng, Pol Pot ra lệnh đình chỉ việc chuẩn bị lễ kỷ niệm, đồng
thời ra lệnh bắt Keo Meas và Nay Sarang, một nhà lãnh đạo cao cấp khác. Họ bị
đưa đến nhà ngục nổi tiếng, Tuol Sleng, bị tra tấn cho đến khi “nhận tội” rồi bị
giết chết. Pol Pot đã viết lại lịch sử bằng cách ra một văn bản, xác định thời
điểm thành lập Đảng không phải là năm 1951 mà là 1960, năm Đảng Campuchia tổ chức
đại hội và, sau đó, bầu ông ta làm phó bí thư. Pol Pot giải thích: “Chúng ta cần
đặt lịch sử Đảng vào trong những gì trong sạch và hoàn hảo, vạch ra đường lối độc
lập và tự chủ cho chúng ta”.
Sihanouk
nhận ra thái độ của Khmer Đỏ với Việt Nam từ trước khi ông trở về Phnom Penh.
Theo Nayan Chanda: Nhân dịp Quốc khánh Việt nam, 2-9-1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đã mời Sihanouk và Khiêu Samphan, khi ấy đang là khách của Việt Nam, dự “tiệc
gia đình”. Thành phần tham gia gồm Hà Nội, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam
Việt Nam, các nhà lãnh đạo Lào, và Khmer Đỏ. Khieu Samphan đã làm Sihanouk “mất
tinh thần và ngạc nhiên” khi “lạnh lùng từ chối” và nói rằng Campuchia muốn một
bữa tiệc song phương. Sau đó, Khieu Samphan giải thích với Sihanouk: “Chúng ta không
bao giờ để rơi vào cái bẫy của người Việt Nam, kẻ đang muốn thống trị và nuốt
chửng Campuchia bằng cách lôi kéo vào liên bang Đông Dương của họ”.
Tháng
12-1976, khi Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội như một đại lễ mừng
chiến thắng, Khmer Đỏ chỉ gửi điện mừng thay vì cử đại biểu đến Hà Nội như hai
mươi chín “đảng anh em” khác. Nhưng đến tận lúc ấy, Việt Nam vẫn
coi biên giới Tây Nam là nơi tiếp giáp với một “người anh em”. Trên toàn tuyến
biên giới dài hơn 1.000km ấy, Việt Nam chỉ bố trí bốn mươi hai đồn biên phòng;
trong khi đó, bốn sư đoàn Khmer Đỏ gấp rút hoàn thành tuyến công sự dày đặc kéo
dài từ bờ Vịnh Thái Lan đến vùng Sông Bé.
Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)
Ngày
14-1-1977, gần một trung đoàn Pol Pot tấn công các đồn, chốt Việt Nam ở khu vực
Buprang, gây cho phía Việt Nam những thiệt hại nghiêm trọng. Dân tình lo lắng,
cán bộ các cấp cũng bắt đầu hết sức băn khoăn. Chiến tranh bắt đầu leo thang
trong năm 1977: 30-4-1977, Pol Pot cho quân tấn công trên tuyến biên giới thuộc
địa bàn Quân khu IX; tháng 8-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu VII; tháng
10-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu V.
Ở
Quân khu IX lúc ấy, chỉ một sư đoàn bộ binh được giữ ở trạng thái thường trực,
trong khi hai sư đoàn bộ binh còn lại chuyển sang làm kinh tế - Sư 4 ở tứ giác
Long Xuyên, Sư 8 ở Đồng Tháp Mười, chủ yếu đào kinh. Tinh thần của
bộ đội, vì thế, cũng có những “diễn biến khá phức tạp”. Theo Tướng Trà: “Sau
bao nhiêu năm chiến đấu liên tục, gian khổ, ác liệt, chính sách hậu phương quân
đội chưa được giải quyết thỏa đáng; yêu cầu được nghỉ phép, phục viên của anh
em chưa được giải quyết, nhất là số anh em quê miền Bắc, hàng năm, bảy năm, thậm
chí cả chục năm biền biệt xa nhà; rồi tư tưởng ‘xả hơi’, nghỉ ngơi, bộ đội đang
từ thành phố, thị xã… nay lên vùng biên khai hoang, làm kinh tế, trần mình suốt
ngày với cỏ dại, cây hoang, sình lầy, chua phèn; thiếu thốn cơ cực đủ bề”.
Toàn biên giới Tây Nam cũng hầu như không có bộ binh thường trực, nên khi Pol
Pot tấn công thì ở vào thế bị động, đối phó lúng túng và chịu tổn thất lớn. Tướng
Lê Đức Anh thừa nhận: “Các tỉnh, các quân khu phía Nam thiếu sẵn sàng chiến đấu,
biên giới bỏ ngỏ; chỉ huy tác chiến nặng về đánh theo lối chính quy hiệp đồng
binh chủng nên tiêu hao đạn dược thì lớn mà hiệu suất chiến đấu rất thấp.
Tháng
9-1977, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp đề nghị Bộ Chính trị có chủ trương giải
quyết tình hình biên giới Tây Nam”.
Đêm
30-4-1977, Khmer Đỏ đưa quân đánh lấn suốt một dải biên giới từ Tây Ninh đến Hà
Tiên, Kiên Giang. Tang tóc lại bao trùm không chỉ ở nơi xảy ra chiến sự. Trên
tuyến biên giới do Quân khu IX đảm trách, từ huyện Mộc Hóa, Long An đến Hà Tiên,
Kiên Giang, Pol Pot dùng bảy tiểu đoàn quân chính quy cùng với lực lượng địa
phương thuộc quân khu Tây Nam đánh thẳng vào khu vực Bảy Núi, Tịnh Biên-An
Giang. Hàng trăm dân thường dân bị tàn sát, hàng trăm ngôi nhà bị đốt. Các đơn
vị đứng chân gần biên giới của Quân khu IX tuy đã nỗ lực tác chiến, nhưng theo
ông Phạm Văn Trà: “Hầu hết đang làm nhiệm vụ sản xuất xây dựng kinh tế, chưa
chuẩn bị đối phó với địch, nên có phần bất ngờ, bị động, lúng túng, thậm chí bị
tổn thất”. Ngay đêm 30-4-1977, Tướng Lê Đức Anh ra lệnh cho Sư đoàn 330 chuyển
sang trạng thái sẵn sàng cơ động lên tuyến biên giới đánh địch, đồng thời, theo
ông Trà, Quân khu cũng được trên đồng ý cho thành lập thêm Sư đoàn 339 làm nhiệm
vụ sẵn sàng chiến đấu. Bắt đầu từ đây, chiến sự không còn xảy ra trên đường
biên. Một tháng rưỡi sau, Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh quyết định đưa một lực
lượng gồm hai trung đoàn bộ binh có xe bọc thép M113, một trung đoàn tăng thiết
giáp, hai phi đội máy bay tiêm kích, đánh hiệp đồng binh chủng ở quy mô sư đoàn
từ hướng Kiên Giang, thọc sâu vào đất Campuchia, vòng về tiêu diệt phần lớn lực
lượng Khmer Đỏ đang chiếm giữ Đầm Chích, xã Vĩnh Điện. Nhưng, theo Tướng Phạm
Văn Trà, khi Sư đoàn 4 đang khôi phục tuyến biên giới Hà Tiên thì Khmer Đỏ tràn
qua cửa khẩu Vịnh Bà, đánh sâu vào lãnh thổ tỉnh Đồng Tháp, chiếm một số khu vực,
trong đó có khu vực tăng gia sản xuất tập trung của Sư đoàn 8. Tướng Lê Đức Anh
lại phải lệnh: “Đưa ngay một trung đoàn lên Đồng Tháp”.
Sau
khi Trung đoàn 1, Sư 330, bị điều lên lên Đồng Tháp theo lệnh của Tướng Anh, một
hướng quan trọng là Tịnh Biên và Thất Sơn bị bỏ trống. Vừa lấy lại phần địa bàn
của Sư 8 bị Khmer Đỏ chiếm giữ thì Ba Chúc, Tịnh Biên của An Giang lại bị Khmer
Đỏ tập trung một lực lượng lớn đánh vào. Sư đoàn 4 buộc phải lùi về phía sau,
Khmer Đỏ mặc sức tàn sát người dân vùng Ba Chúc. Tướng Lê Đức Anh lại phải điều
Trung đoàn 1, sư 330, trở về giải vây rồi đẩy quân Pol Pot lùi qua bên kia kênh
Vĩnh Tế. Không lâu sau, khi Trung đoàn 1 vừa rút đi, quân Pol Pot lại quay lại đánh
Ba Chúc với quy mô cấp sư đoàn, lực lượng của Tỉnh đội An Giang không giữ được.
Trung
tuần tháng 12-1977, Quân khu IX đã thi hành phương thức phòng thủ mà Tướng Trà
gọi là học theo kế “tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt thời chống Tống. Sư
đoàn 330, gồm ba trung đoàn bộ binh chính quy, cùng hai tiểu đoàn
địa phương quân An Giang, được trang bị một số xe M-113, đánh thẳng vào khu vực
cố thủ của Khmer Đỏ ở núi Tham Đưng và núi Som sâu trong đất Campuchia từ hai
mươi đến ba mươi cây số. Toàn tuyến phòng thủ của Pol Pot từ Ki Ri Vông đến quận
lỵ Rề Minh thuộc tỉnh Tà Keo bị chọc thủng không mấy khó khăn. Thật trớ trêu
khi người dân Campuchia đã vui mừng khi thấy quân đội nước ngoài đánh tới.
Các lực lượng của Quân khu IX đã ở lại trên đất Campuchia tổng cộng hai mươi
ngày.
Chưa
đầy hai tuần sau khi quân Việt Nam rút về, giữa tháng 1-1978, quân Pol Pot tiến
đánh ồ ạt vào các xã Nhơn Hội, Khánh Bình, thuộc huyện Châu Đốc, An Giang. Đặc
biệt, ngày 15-1-1978, bảy tiểu đoàn của Trung đoàn 14 cùng với Trung đoàn 15
thuộc Sư đoàn 2 của Pol Pot đánh chiếm Ba Chúc và núi Phú Cường thuộc huyện Tịnh
Biên. Sư đoàn 4 và lực lượng địa phương của An Giang lại một lần nữa không giữ
được địa bàn, để quân Khmer Đỏ tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên năm cây số,
phá sập hai cây cầu trên trục đường từ thị trấn Nhà Bàng đi Ba Chúc, Chi Lăng. Đi
tới đâu, lính Khmer Đỏ xả súng bắn giết tới đó, chúng bắt cả trẻ em, người già
và ngang nhiên đập phá chùa chiền, tượng
Phật. Sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 330 đóng trên núi Trà Sư bị bao vây ba
bề. Lính Khmer Đỏ lại mặc sức sát hại người dân Ba Chúc. Lính Khmer Đỏ không chỉ
ném lựu đạn, xả súng bắn chết hàng nghìn thường dân ở hai ngôi chùa, nhiều thường
dân khác còn bị giải ra đồng, xả súng bắn chết. Theo ông Trà:
“Xác chết chất thành đống trong xóm ấp và ngoài đồng. Không khí chết chóc bao
trùm; quạ đen bay đầy trời”. Theo Tướng Phạm Văn Trà, sau khi đánh tan lực lượng
Khmer Đỏ ở Phú Cường và Ba Chúc, bãi chiến trường được giữ lại gần một tuần lễ
để các nhà báo trong nước và quốc tế đến quay phim.
Chiến tranh biên giới với Campuchia bắt đầu được công bố.
“Nhất Biên Đảo”
Hơn
hai năm trước đó, trong lễ mừng chiến thắng, tổ chức vào ngày 15-5-1975 tại Hà
Nội, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đã làm cho hàng triệu con tim “sởn gai ốc” khi, với
giọng Quảng Trị trầm ấm, ông tuyên bố: “Chào mừng tổ quốc vinh quang của chúng
ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi
họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến
mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập tự do”.
Bí thư Lê Duẩn nói tiếp: “Trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc ta thì hơn 100
năm lại đây là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt nhất,
nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất”. Tại buổi lễ long trọng này, ông Lê Duẩn bày
tỏ niềm tin: “Một dân tộc đã làm nên những chiến công hiển hách ấy xứng được hưởng
hòa bình, tự do và hạnh phúc. Dân tộc ấy cũng nhất định có đủ tinh thần và nghị
lực, sức mạnh và tài năng để vươn lên những đỉnh cao của thời đại, biến đất nước
nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trên đó, đế quốc Mỹ đã
gieo biết bao tội ác, thành một nước văn minh, giàu mạnh, thành trì bất khả xâm
phạm của độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông Nam
Á”. Ngay sau đó, Bộ Quốc phòng cho giải thể hàng loạt các đơn vị
chiến đấu. Tháng 10-1976, Bộ Chính trị ra nghị quyết “về vấn đề quân đội làm
kinh tế”, xác định: “Cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn
làm cách mạng xã
hội chủ nghĩa”. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến” từ lúc ấy cũng bắt đầu được
thay bằng khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Hà Nội gần như không có phản ứng chính thức ngay cả khi Pol Pot đã cho đánh tới
quy mô cấp sư đoàn. Áp lực từ các đơn vị quân đội và các địa
phương tăng dần lên. Ông Nguyễn Thành Thơ kể: Cuối năm 1977, trong một lần
đưa Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm Cần Giờ bằng tàu quân sự, đến Văn phòng Huyện ủy
đã khoảng 12 giờ, anh Ba nói, “Mệt quá cho tôi nghỉ một lát”. Anh nghỉ một lúc
rồi nói: “Các anh có gì hỏi, tôi giải đáp”. Anh em chúng tôi có khoảng ba mươi
người, phấn khởi rộ lên: “Xin hỏi K nó quấy rối biên giới ta, tàn sát cướp phá
rất dã man, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi khó hiểu”. Anh Lê Duẩn trả lời:
“Các đồng chí hỏi đúng vào một tình hình cả nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu
lắm, ngủ không được. Không phải là vấn đề Khmer Đỏ, vấn đề Pol Pot mà là vấn đề
ai ở đằng sau Khmer Đỏ, đằng sau Pol Pot. Ta đã đưa đại quân đâu, bọn nó làm
sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi. Nếu ta không chiếm
K, Trung Quốc cũng không chiếm ta”.
Cuối
năm 1977, khi đánh sâu vào đất Campuchia, theo ông Trần Phương, quân đội Việt
Nam phát hiện nhiều tài liệu cho thấy Trung Quốc đứng sau lưng Pol Pot. Tháng
1-1979, khi tiến vào Phnom Penh, Quân đội Việt Nam còn thu được văn bản hiệp định
viện trợ quân sự không hoàn lại mà Tướng Wang Shangrong, phó Tổng Tham mưu trưởng
Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, ký với Son Sen tại Phnom Penh ngày
10-2-1976. Trong các năm 1977, 1978, Trung Quốc cung cấp cho Khmer Đỏ pháo
binh, pháo phòng không, thuyền tuần tiễu… Đặc biệt, 500 chuyên gia quân sự
Trung Quốc đã được gửi sang để huấn luyện Khmer Đỏ sử dụng những vũ khí, khí
tài quân sự ấy. Cố vấn Trung Quốc thậm chí còn gặp cả người của lực lượng Fulro
đang hoạt động chống Chính quyền Việt Nam ở vùng Tây Nguyên. Làn
sóng người Khmer tị nạn, nhất là những người tị nạn qua ngả Thái Lan, đã giúp
thế giới biết được phần nào nội tình Campuchia. Trung Quốc sẽ không dám bất chấp
dư luận quốc tế để ủng hộ một chế độ diệt chủng, nhất là ủng hộ những hành vi
chiến tranh, nếu Việt Nam không để cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ rơi
vào tay Trung Quốc. Sau ngày “chiến thắng đế quốc Mỹ”, theo ông Đậu Ngọc Xuân:
“Cuba nhiều lần thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Fidel cứ giục mãi, nhiều
đồng chí nhắc, anh Ba mắng: ‘Các chú muốn dân đói à?’. Rồi, anh Ba nói với Bộ
Ngoại Giao: ‘Đúng là Fidel sang ta mấy lần, nhưng ta mới thắng Mỹ, sang Cuba không
tuyên bố chống Mỹ thì Cuba không chịu, tuyên bố chống Mỹ thì, các chú thấy,
sang cạnh nhà nó chửi nó, nó cấm vận mình suốt đời thì mình chết. Vì lợi ích quốc
gia, tôi chưa thể đi được’. Rồi anh Ba cử Lê Đức Thọ đi, anh dặn: ‘Nên nói với
đồng chí Fidel, tôi rất muốn sang, nhưng sức
khoẻ có vấn đề, bác sĩ không cho đi máy bay xa, đồng chí Fidel thông cảm”.
Theo
ông Đậu Ngọc Xuân, lúc ấy, nhiều người đã bất ngờ trước tư duy mềm dẻo này của
ông Lê Duẩn. Cũng thời điểm ấy, theo ông Xuân: “Khi Bộ Chính trị bàn về vấn đề
‘ta có thừa kế cổ phần IMF mà chính quyền Sài Gòn cũ có tham gia không?’, có
người nói: ‘Ta mà kế thừa Nguỵ à?’, có người lưu ý: ‘IMF là tư bản đấy!’, anh
Ba quát: tại sao không!”. Đặng Tiểu Bình đã đánh trúng mối lo của Lê Duẩn khi về
sau sẽ ví Việt Nam là Cuba ở phương Đông trong bối cảnh Việt Nam đang có những
nỗ lực bất thành nối lại bang giao với Mỹ.
Ông
Trần Quang Cơ, năm ấy là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, kể, chỉ hơn một tháng sau khi làm
chủ Sài Gòn, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp miệng.
Tiếp đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: “Việt Nam mời gọi Hoa Kỳ
bình thường hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đã hứa”. Các đại
diện của hai ngân hàng Mỹ, Bank of America và First National City Bank, được mời
họp về khả năng có thể giao thương, và các công ty Mỹ được thông báo rằng họ có
thể ký kết tìm dầu ở thềm lục địa Việt Nam. Đáp lại những tín hiệu này, ngày
7-5-1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị Quốc hội Mỹ tạm ngưng cấm vận Việt Nam
trong sáu tháng để tạo điều kiện cho việc đối thoại giữa hai nước. Ngày
8-5-1976, Ngoại trưởng Kissinger gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao
Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề “bình thường hóa”. Ngày 6-1-1977, Bộ Ngoại
giao Mỹ đưa ra lộ trình ba bước bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và trước mắt
có thể đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. Tuy vậy, Tổng thống Mỹ Geral R.
Ford có vẻ như vẫn chưa sẵn sàng khi đưa ra điều kiện để nối lại bang giao: Việt
Nam phải
làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích (MIA), trong đó có việc trao trả hài cốt Mỹ.
Phía Việt Nam cũng đòi bằng được Mỹ phải bồi thường chiến tranh, trong khi Mỹ
cho rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Paris nên không thể bàn đến khoản tiền
thỏa thuận trước khi ký Hiệp định Paris được. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, sau những
diễn tiến này, ông Lê Duẩn nói: “Bình thường hóa là thua trận lần thứ hai, họ
không chịu đâu”. Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã giảm
điều kiện “làm đầy đủ hồ sơ lính Mỹ mất tích” xuống còn “làm đầy đủ trong khả
năng có thể”. Tháng 3-1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội để bàn về việc
nối lại bang giao.
Ngày
17-3-1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Đặc phái viên của
Tổng thống Mỹ Leonard W oodcock. Cùng ngày, W oodcock đến chào Thủ tướng Phạm
Văn Đồng. Những nỗ lực bình thường hoá dưới thời Carter là có thật. Chỉ ba mươi
phút sau khi tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống Jimmy Carter rời lễ đài đi vào bên
trong tòa nhà Quốc hội, và trước khi sang Nhà Trắng, ông ký lệnh ân xá cho những
người Mỹ đã từng chạy sang Canada trốn lính nhằm tránh cuộc chiến tranh Việt
Nam. Ông Carter thừa nhận đó là “một quyết
định khó khăn” và ông đã phải nhận những lời chỉ trích. Nhưng Tổng thống Carter
nói: “Tôi nghĩ đó là một bước cần thiết để khởi đầu việc hàn gắn và đưa chúng
ta ra khỏi nỗi ám ảnh Việt Nam để đi tới một kỷ nguyên mới tốt đẹp hơn”.
Ngày
4-5-1977, chính quyền của ông Carter đồng ý để Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Sau
chuyến đi của ông Leonard Woodcock, Mỹ chủ trương bình thường hóa vô điều kiện.
Ngày 3-5-1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt-Mỹ đã diễn ra tại
Đại sứ quán Việt Nam ở Paris. Ông Trần Quang Cơ, người tham gia
cuộc đoàn đàm phán này, nhớ lại: “Một trong những điều ngáng trở tiến trình đàm
phán là do chúng ta cứ khăng khăng đòi Mỹ phải chi 3,2 tỷ đô-la bồi thường chiến
tranh”. Số tiền viện trợ 3,2 tỷ đô-la được coi như là một “thành công kép” mà Cố
vấn Lê Đức Thọ mang về từ những cuộc hội đàm ở Paris. Khoản tiền
này đã từng được những nhà hoạch định kế hoạch kinh tế hậu chiến của Việt Nam
tính toán như một nguồn quan trọng để thực thi kế hoạch. Trước khi đoàn lên đường
sang Paris đàm phán bình thường quan hệ Việt-Mỹ, theo ông Trần Quang Cơ, ông Lê
Đức Thọ, theo cung cách xin viện trợ của Liên Xô, đã cung cấp cho đoàn cả một danh
sách dài bao nhiêu máy cày, bao nhiêu máy kéo để đòi Washington phải trả. Ông
Trần Quang Cơ nhớ lại: “Holbrook nói thẳng với ông Phan Hiền: thôi thì cứ đặt
‘phòng quyền lợi’ đi, cứ bình thường hóa cái đã rồi khoản tiền 3,2 tỷ chúng tôi
sẽ tìm cách viện trợ sau. Trưởng đoàn lúc ấy là ông Phan Hiền lập tức bay về Hà
Nội báo với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không
được”.
Khi
Biên giới Tây Nam gần như được đặt trong tình huống chiến tranh và Trung Quốc
đã được Ban Chấp hành Trung ương coi là “kẻ thù”, Việt Nam bắt đầu nhận thấy
vai trò của việc quan hệ bình thường với một siêu cường như Mỹ. Đầu năm 1978, ở
Tokyo (Nhật), Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phan Hiền tuyên bố: “Việt Nam sẵn
sàng bình thường hóa vô điều kiện với Mỹ”. Lúc này, Jimmy Carter gần như đã
nghiêng về chủ trương “chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” theo đề nghị
của Cố vấn An ninh Quốc gia Z. Brzezinski. Tổng thống Jimy Carter thừa nhận: “Y
êu cầu lúc đầu của phía Việt Nam là chúng ta phải bồi thường chiến tranh theo một
số cách thức. Nhưng cuối cùng, tôi nhớ là năm 1978, họ rút lại đòi hỏi này. Điều
phức tạp là cũng năm đó, tôi phải dồn tâm trí và đích thân đàm phán bình thường
hoá với Trung Quốc.
Những cuộc hội đàm giữa Israel và Ai Cập lúc ấy cũng đang diễn ra tại trại
David. Tôi phải nói rằng, năm 1978, vấn đề Việt Nam không còn là ưu tiên hàng đầu
của tôi nữa”.
Cùng
thời gian này, FBI tung ra vụ “gián điệp” liên quan đến đại sứ Việt Nam tại
Liên Hiệp Quốc, ông Đinh Bá Thi. Ronald Humphrey, nhân viên của Cơ quan thông
tin Hoa Kỳ, cùng David Truong, người của Hội Việt-Mỹ, bị bắt vì lấy cắp mấy bức
điện tín được coi là không quan trọng lắm của Mỹ. Đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất.
19-5-1978,
một ngày trước khi Brzezinski tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: Trung Quốc
là NATO phương Đông; đồng thời Đặng ví Việt Nam với Cuba, một “tiền đồn của
Liên Xô” ở bên cạnh Mỹ. Ngày 23-8-78, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Cyrus Vance đi
thăm Bắc Kinh.
Ngày
21-8-78, bảy hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa do Hạ nghị sĩ Dân
chủ G.V.Montgomery, chủ tịch Ủy ban POW /MIA, dẫn đầu vẫn đến Hà Nội. Việt Nam
đã cố bày tỏ thiện chí bằng cách trao trả cho Mỹ một số bộ hài cốt và cử ông Trần
Quang Cơ đích thân dẫn đoàn vào miền Nam, thăm thánh thất Cao Đài và một trại
người Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây Ninh. Đoàn của Hạ nghị sỹ
Montgomery là đoàn người Mỹ đầu tiên được phép thăm Sài Gòn kể từ sau
30-4-1975. Nhưng, theo ông Trần Quang Cơ, quyết định chấp nhận công thức do
phía Mỹ đưa ra “bình thường hóa vô điều kiện” vào lúc ấy đã là quá muộn.
Cuối
tháng 9-1978, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tới Mỹ sau một thời gian
ông nằm ở Đà Nẵng dự thảo Hiệp định Hợp tác Toàn diện với Liên Xô. Cuộc đàm
phán giữa ông Thạch và Holbrooke diễn ra lạnh nhạt. Theo ông Trần Quang Cơ, người
có mặt trong cuộc đàm phán này, Holbrooke nói: “Mỹ coi trọng châu Á, Mỹ cần
bình thường hóa quan hệ giữa hai nước nhưng lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở Cam
Ranh”. Lúc đó, theo dự đoán của người Mỹ, có khoảng từ 3.500-4000 cố vấn Liên
Xô đang có mặt ở Việt Nam. Những ngày sau khi kết thúc chiến
tranh, Lê Duẩn đã khá thận trọng trong mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, nhưng
độc lập luôn bị thách thức trong mối quan hệ với những người “anh em cộng sản”.
Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều đặt Việt Nam vào thế phải đứng hẳn về một bên.
Ngày
31-8-1975, trên đường đi dự Quốc khánh Việt Nam, Tướng Trần Tích Liên, ủy viên
Bộ Chính trị, tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, đã không đi thẳng tới Hà Nội mà dừng
chân tại Khu Gang Thép Thái Nguyên. Tại Nhà máy đang được xây dựng bởi Trung Quốc
này, Tướng Liên đọc một diễn văn kêu gọi “chống bá quyền” mà ai cũng biết là chống
Liên Xô. Hà Nội đã khá mềm dẻo khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng vẫn “ôm hôn thắm thiết”
Trần Tích Liên, nhưng các báo xuất bản tại Việt Nam không nói gì tới bài diễn
văn “chống bá quyền” của Trung Quốc.
Cuối
tháng 9-1975, khi Lê Duẩn tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình, người mới được phục chức
phó thủ tướng sau khi bị “bè lũ bốn tên” đưa ra khỏi Trung Nam Hải, nêu vấn đề
“chống bá quyền” và ngầm khuyên nhủ Việt Nam liên kết với Bắc Kinh chống lại
Moscow. Khi đáp từ, Lê Duẩn đã tránh đề cập tới “bá quyền” đồng thời “cám ơn sự
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em” tất nhiên là bao gồm Liên Xô. Sự
né tránh đứng hẳn về phía Trung Hoa và vấn đề Hoàng Sa đã khiến cho chuyến đi của
Lê Duẩn hoàn toàn thất bại: Trung Quốc từ chối viện trợ; Lê Duẩn từ chối thảo
luận thông cáo chung; tiệc liên hoan bị hủy bỏ. Trung Quốc càng ngờ vực Việt
Nam hơn khi một tháng sau đó, trong chuyến đi tới Moscow, Lê Duẩn có một “Thông
cáo chung”, theo đó, Việt Nam nhất trí với Liên Xô trong đường lối đối ngoại.
Đây là một thay đổi lớn. Tháng 3-1976, khi tham dự Đại hội XXV của Đảng Cộng sản
Liên Xô, Lê Duẩn nhấn mạnh: Mỗi đảng cộng sản có thể theo đuổi một đường lối riêng,
phù hợp với điều kiện của mỗi nước. Liên Xô đã từng bất ngờ khi
Việt Nam từ chối gia nhập khối Comecon trong khi xin gia nhập
IMF. Tháng 12-1976, khi đến Hà Nội dự Đại hội Đảng lần thứ IV, Suslov được mô tả
là đã giận dữ khi lần thứ hai thất bại trong việc thuyết phục Việt Nam vào
Comecon. Nhưng để “tiến nhanh lên xã hội chủ nghĩa”, Việt Nam lại
rất cần tiền bạc. Trong khi đó, Trung Quốc
cắt viện trợ, Liên Xô từ chối giúp đỡ, hy vọng vào 3,2 tỷ đô la “bồi thường chiến
tranh” của Washington tiêu tan. Phạm Văn Đồng bị các nước lớn như Anh, Đức cự
tuyệt và người Pháp thì lạnh nhạt. Ở trong nước, từ năm 1977, chính sách “sản
xuất lớn” áp dụng vội vàng lại gây ra đói kém, mất mùa.
Ngày
2-6-1977, trên đường từ Đông Âu trở về, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghé qua Bắc
Kinh, nhưng người đối đẳng với ông là Bộ trưởng Quốc phòng Diệp Kiếm Anh đã
không ra sân bay đón. Tướng Giáp gần như đã bị làm nhục trong suốt chuyến đi
này. Một tuần sau, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng dừng chân ở Bắc
Kinh, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm chính thức cáo buộc Hà Nội “lật lọng
đối với Công hàm 1958”. Sau những sự cố ngoại giao đó, Việt Nam càng cảnh giác
cao với Bắc Kinh. Ngày 2-5-1978, Ủy ban Thường Vụ Quốc hội ra Quyết định đổi một
đồng tiền dùng chung cho hai miền. Theo đó, một đồng ngân hàng miền Bắc được đổi
bằng một đồng tiền mới; 0,80 đồng tiền miền Nam “ăn” được một đồng. Không có biến
động đáng kể vì lần đổi tiền này không nhằm “cải tạo tư sản” dù được đưa ra
ngay sau “cải tạo tư sản”. Lý do công khai là “để thống nhất tiền tệ trong cả
nước”. Nhưng, theo ông Nguyễn Nhật Hồng, đồng tiền Chính phủ Lâm thời Cộng hòa
Miền Nam Việt Nam phát hành tại miền Nam từ ngày 22-9-1975 là tiền thuộc lô
“Hàng 65” được Trung Quốc giúp in. Tuy nhiên, sau khi in, bản kẽm bị “bạn” giữ lại,
Việt Nam xin lại mấy lần không được. Năm 1978, nhằm tránh Trung Quốc sử dụng bản
kẽm mà họ đang giữ để in tiền tung ra phá hoại, Chính quyền cho đổi “Hàng 65” bằng
một loại tiền mới được in từ Tiệp Khắc.
Sự
căng thẳng giữa Trung Quốc-Việt Nam càng thêm kịch tính sau cái chết của nữ nghệ
sỹ Thanh Nga. Đêm 26-11-1978, vào lúc 23 giờ 30, xe của nghệ sỹ Thanh Nga rời rạp
hát về đến trước nhà riêng ở số 114 Ngô Tùng Châu, Quận 1, thì bị một kẻ lạ mặt
dùng súng khống chế người bảo vệ và chồng của nghệ sỹ Thanh Nga, luật sư Phạm
Duy Lân. Cùng lúc, kẻ lạ mặt thứ hai dựng xe honda, nhảy vào bắt con của Nghệ sỹ
Thanh Nga là bé Cúc Cu đang ngồi ghế sau với mẹ. Nghệ sỹ Thanh Nga chống trả
quyết liệt, Luật sư Lân từ ghế lái xe quay lại hỗ trợ vợ, lập tức bị kẻ lạ mặt
nổ súng bắn chết. Thanh Nga hét lên và đến lượt chị cũng bị bắn. Hai kẻ lạ mặt
tẩu thoát. Cái chết của vợ chồng nghệ sỹ Thanh Nga làm rúng động cả nước vì khi
bị bắn, chị chưa kịp thay bộ đồ “Thái hậu Dương Vân Nga”, một vai diễn hừng hực
lửa chống “kẻ thù phương Bắc”. Trước đó, Thanh Nga cũng đã nhận được một số thư
từ đe dọa khi chị diễn vai Trưng Trắc trong Tiếng Trống Mê Linh và đã từng bị
ném lựu đạn khi đang diễn trên sân khấu Lux. Vụ án Thanh Nga vì thế lúc đầu được
coi như là một chuyên án chính trị. Quan tài hai vợ chồng quàn tại 81 Trần Quốc
Thảo thu hút hàng vạn người Sài Gòn.
Sự
cự tuyệt của Trung Quốc và Mỹ cuối cùng đã đặt Việt Nam vào thế “nhất biên đảo”.
Từ tháng 7-1977, các phái đoàn quân sự của Liên Xô bắt đầu đến các căn cứ quân
sự cũ của Mỹ ở miền Nam. Tháng 10-1977, chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn quân
sự Liên Xô được công khai trên các phương tiện truyền thông. Cùng lúc, Trung Quốc
tăng cường viện trợ quân sự cho Pol Pot.
Giữa
tháng 10-1978, ở New York, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ ký
thỏa thuận bình thường hóa. Có lẽ ông Thạch cũng muốn có một nỗ lực cuối cùng.
Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối vì ba "trở ngại" mới: sự thù địch của Việt Nam
với Campuchia, mối quan hệ với Liên Xô, và tình trạng gia tăng thuyền nhân Việt
Nam. Sau một tháng trời chờ đợi, Nguyễn Cơ Thạch phải rời New York tay không,
ông chuyển tiếp ở Paris, rồi từ đó qua thẳng Moscow. Trước đó, sáng 30-10-1978,
Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng đã rời Hà Nội trên một chiếc Ilyyushin-62 bay tới Liên
Xô. Ngày 3-11-1978, Hiệp ước Hợp tác Toàn diện với Liên Xô trong vòng hai mươi
lăm năm, bao gồm điều khoản cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh như một căn cứ
quân sự, đã được ký kết. Hiệp ước đã như một “món quà” đối với Đặng Tiểu Bình.
Hai ngày sau, ông ta đến Thái Lan, bắt đầu chuyến công du ASEAN, thuyết phục
các quốc gia ở đây coi Việt Nam và Liên Xô, thay vì Trung Quốc, là mối đe dọa
chính. Trong khi đó, vững tin vào mối quan hệ với “siêu cường”, Việt Nam bắt đầu
xử lý mối bận tâm ở phía Tây Nam đất nước.
“Áo lính lại khoác vào ngay”
Từ
tháng 6 đến tháng 12-1978, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức bốn hội nghị Bộ Chính
trị, Quân ủy và Ban Chấp hành Trung ương để bàn về vấn đề Campuchia. Tính từ
tháng 12-1977 đến ngày 14-6-1978, có 6.902 bộ đội Việt Nam bị hy sinh, 23.742 bị
thương; ngoài ra, có 4.100 thường dân bị thương và bị giết. Trung ương xác định
phải giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng nhanh càng tốt.
Ngày
13-12-1978, 10/19 sư đoàn của Pol Pot tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới.
Ba sư đoàn đã đánh vào Bến Sỏi hòng chiếm Tây Ninh. Hai sư đoàn đánh vào Hồng
Ngự, Đồng Tháp. Hai sư đoàn đánh vào Bảy Núi, An Giang. Hai sư đoàn đánh vào Hà
Tiên. Một sư đoàn đánh vào Trà Phô, Trà Tiến, Kiên Giang.
Ngày
23-12-1978, Lực lượng quân Việt Nam với nòng cốt là ba quân đoàn chủ lực cùng với
lực lượng của các Quân khu V, VII, IX, dưới sự chỉ huy của Tướng Lê Trọng Tấn,
bắt đầu tấn công trên toàn mặt trận, đẩy Khmer Đỏ lùi dần về phía Tây. Khmer Đỏ
không bất ngờ trước những phản ứng này. Nhưng thay vì tập hợp lực lượng để đối
phó với Việt Nam, Pol Pot đã tranh thủ thanh lọc quân đội, đảng và cả nhân dân,
để có những “người Khmer thuần khiết” nhằm “bảo vệ đất đai và nòi giống”.
Những
cuộc thanh trừng của Pol Pot đã đẩy hàng loạt sỹ quan của Khu Đông phải chạy
vào rừng như Ouk Bun Xươn, Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen. Những người này về
sau đã tới Việt Nam. Trong thời gian đó, ông Lê Đức Thọ bay vào Nam để chuẩn bị
cho một giải pháp chính trị. Một nhóm lãnh đạo gồm bảy người do Lê Đức Thọ lựa
chọn từ số những người Khmer tập kết còn sót lại và số vừa chạy sang từ Khu
203. Lê Đức Thọ cũng dựng lên một “Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết Cứu nước”
gồm mười bốn người rồi đưa về Campuchia tổ chức lễ ra mắt tại Mimot vào ngày
2-12-1978.
Một
lực lượng đặc công cũng được giao nhiệm vụ đột nhập Hoàng cung để tìm Hoàng
thân Sihanouk nhưng thất bại. Lá bài Sihanouk lần nào cũng được Trung Quốc khai
thác hữu hiệu hơn Việt Nam. Ngày 5-1-1979, Pol Pot đã nghe lời khuyên của Bắc
Kinh, đề nghị Sihanouk đến Liên Hiệp Quốc lên án “hành động xâm lược của Việt
Nam”. Ngày 6-1-1979, ông Hoàng đã lên chiếc Boeing 707 của Bắc Kinh bay sang
BangKok.
Ngày
7-1-1979, Quân đội Việt Nam vượt phà Neak Lương tới Phnom Penh nhanh tới mức lực
lượng Khmer Đỏ chỉ kịp rời thành phố trước khi đại quân tới khoảng một giờ.
Ngày 11-1-1979, Yeng Sary mới chạy đến biên giới Thái Lan và được quân đội Thái
đưa về BangKok để đi tiếp tới Bắc Kinh. Ngày 13-1-1979, Yeng Sary bị Đặng Tiểu
Bình trách mắng. Trong khi đó, ở Liên Hiệp Quốc, Sihanouk đọc diễn văn lên án
“hành động xâm lăng của Việt Nam” đồng thời tố cáo chế độ bạo tàn của Pol Pot.
Theo
đề nghị của Sihanouk, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra thảo luận nghị quyết buộc Việt
Nam rút quân khỏi Campuchia. Tuy nhiên, nghị quyết này đã bị Liên Xô dùng quyền
lực Thường trực Hội đồng Bảo an phủ quyết. Từ phiên họp của Liên Hiệp Quốc,
Sihanouk bí mật tìm gặp Đại sứ Mỹ Andrew Young, nhưng nước Mỹ đã đẩy Sihanouk
trở lại tay của Đặng Tiểu Bình khi từ chối yêu cầu của ông xin tị nạn. Chỉ hai
ngày sau khi Việt Nam đưa quân vào Phnom Penh, 9-1-1979, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus
Vance tuyên bố với ông Trần Quang Cơ: “Các cuộc nói chuyện Mỹ-Việt về bình thường
hóa đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam”.
Ngày
15-12-1978, Mỹ và Trung Quốc ra thông cáo chung, chính thức công nhận nhau và
tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 1-1-1979.
Ngày
29-1-1979, Jimmy Carter đón Đặng Tiểu Bình tại Washington bằng hai mươi phát đại
bác. Đặng Tiểu Bình biết ảnh hưởng quốc tế của cuộc chiến tranh xâm lược Việt
nam nên đã thông báo với Tổng thống Carter mức độ “giới hạn” của cuộc tấn công.
Tuy khuyên Đặng “không nên có hành động xâm lược”, nhưng trong cuộc họp riêng
giữa hai người, Carter không cho Đặng thấy là cuộc tấn công sẽ ảnh hưởng đến bang
giao của hai nước.
Vào
lúc 5 giờ 25 sáng ngày 17-2-1979, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới
Việt Nam, đánh chiếm từ cực Tây Bắc (Phong Thổ, Lai Châu) đến cực Đông Bắc (địa
đầu Móng Cái). Tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng
Sơn đã dựng người dân dậy khi mờ sáng. Vào thời điểm ấy, Trung Quốc tập trung
sát biên giới khoảng 450 nghìn quân và sử dụng 200 nghìn quân
trong ngày đầu xâm lược.
Việt
Nam bị bất ngờ hoàn toàn. Các lực lượng tự vệ ở khu vực Hữu Nghị
Quan hầu hết bị quân Trung Quốc giết chết ngay từ những phút đầu tiên. Phụ nữ,
trẻ em chỉ kịp chạy về phía sau hốt hoảng. Ở hướng Trà Lĩnh, Cao Bằng, hàng
trăm người dân đã phải chạy vào hang núi tránh pháo và sáng ra, họ nhìn thấy
quân Trung Quốc í ới gọi nhau ngay sát dưới chân.
Tháng
2-1979, ở biên giới, Trung Quốc có tới sáu mươi sư đoàn tinh nhuệ, trong khi ở
phía Bắc, theo Tướng Lê Phi Long, cục phó Cục Tác chiến, lực lượng vũ trang Việt
Nam tổng cộng chỉ còn khoảng mười một sư đoàn. Đội quân chủ yếu làm kinh tế ấy
đã phải phản công trong điều kiện hết sức bất ngờ. Chỉ huy các đơn vị đóng tại
Lạng Sơn, ngày 15-2-1979, còn được triệu tập để nghe nhận định: “Địch sẽ đánh ở
cấp sư đoàn vào ngày 22-2”. Ở Cao Bằng, sáng 16-2, tất cả các đồn trưởng biên
phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh. Sáng hôm sau, khi họ cố
tìm về đơn vị thì Trung Quốc đã tràn sang. Sáng 17-2, Đại đội 22 của thị xã Cao
Bằng mới được trang bị thêm mười bảy khẩu súng chống tăng B41. Nhiều nơi, chỉ
khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất” trên xe tăng Trung Quốc, người dân mới hay đất nước
lại chiến tranh. Chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc đã sử dụng tới
sáu sư đoàn, ở Lạng Sơn ba sư đoàn và Lào Cai ba sư đoàn. Hôm sau, 18-2, Trung
Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lạng Sơn, một
sư đoàn và bốn mươi tăng; Lào Cai, hai trung đoàn và bốn mươi tăng. Lực lượng
Trung Quốc áp sát biên giới vào ngày 17-2 lên tới chín quân đoàn chủ lực.
Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát Xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng
Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc
đánh vào thị xã. Tại Lào Cai, khu mỏ Apatit bị đập nát từ các nhà máy cho đến
các thiết bị, máy móc; hai nhà ga gần nhất là Gốc Đa và Làng Pèng bị phá tan
hoang; chiếc cầu nối đường sắt qua con suối chảy ra từ làng Cóc cũng bị lính
Trung Quốc đánh sập. Sapa chỉ còn là một đống gạch vụn. Đồng Đăng, Lạng Sơn
cũng bị tàn phá. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc lần lượt đập nát từng ngôi nhà,
từng công trình và trước khi rút lui đã ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Ở Bát
Xát, Lào Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay
trong ngày đầu tiên quân Trung
Quốc tiến sang. Tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong
ngày 9-3, trước khi rút quân, lính Trung Quốc đã giết bốn mươi ba người, gồm
hai mươi mốt phụ nữ, hai mươi trẻ em, trong đó có bảy phụ nữ đang mang thai. Tất
cả đều bị giết bằng dao như Pol Pot. Mười người bị ném xuống giếng, hơn ba mươi
người khác, bị chặt ra nhiều khúc, thây vứt hai bên bờ suối. Bằng một lực lượng
nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Con
đường tiến vào thị xã Cao Bằng đã được quân Trung Quốc gọi là những “khe núi đẫm
máu”. Đặc biệt, Tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần
đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn,
cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Mãi tới ba tuần sau quân Trung Quốc
mới chiếm được thị xã Lạng Sơn, trong khi đây là nơi mà Đặng muốn chiếm được
ngay trong tuần đầu tiên hòng gửi một thông điệp đe dọa tới Hà Nội. Khoảng
25.000 lính Trung Quốc bị chết, 37.000 quân khác bị thương. Tổn phí chiến tranh
hết khoảng 5.5 tỷ Nhân dân tệ trên tổng chi tiêu ngân sách năm 1979 của Trung
Quốc là 22,3 tỷ. Cuộc chiến mà Đặng Tiểu Bình nói là để “dạy cho Việt Nam một
bài học”, theo các nhà phân tích quân sự phương Tây, “chính Việt Nam mới là người
đã dạy cho Trung Quốc bài học”. Những người dân Biên giới cho đến
hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân Việt
Nam cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn
346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi, quân đội Trung
Quốc đã bộc lộ là một đội quân đã quá lâu không ở trong tình trạng sẵn sàng tác
chiến.
Ngày
2-3-1979, như để giải thích cho việc “án binh bất động” khi đồng minh của mình
bị tấn công, tại Moscow, Tổng Bí thư Brezenev tuyên bố: “Đừng ai nghi ngờ việc
Liên Xô trung thành với Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác gắn bó Liên Xô với Việt
Nam”. Cùng ngày 2-3-1979, hãng thông tấn xã Tass của Liên Xô phát đi một tuyên
bố: “Quân đội Trung Quốc phải rút ngay khỏi lãnh thổ Việt Nam... Những tên xâm
lược Trung Quốc cần biết rằng chúng càng gây nhiều tội ác bao nhiêu, thì sẽ
càng bị trừng phạt nghiêm khắc bấy nhiêu”.
Ngày
4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu gọi “toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, anh dũng tiến lên”. Lời kêu gọi
cho rằng, “ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại hơn bao giờ hết, sức mạnh tổng
hợp của cả dân tộc và của ba dòng thác cách mạng của thời đại”. Ngày 5-3-1979,
Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 83-CP, “quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn
dân” nhằm “đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động theo chủ nghĩa
bành trướng Trung Quốc”. Cùng ngày, Chủ tịch nước ra lệnh “Tổng động viên”.
Trên báo Nhân Dân, Hoàng Tùng xã luận: “Cả nước đánh giặc, toàn dân là lính”. Cùng
thời điểm đó, hai quân đoàn tinh nhuệ nhất của Việt Nam, sau khi đuổi Pol Pot
khỏi Phnom Penh, được vận chuyển bằng máy bay ra phía Bắc: Quân đoàn II lên Đồng
Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì, Bắc Kạn.
Ngày
6-3-1979, Trung Quốc tuyên bố “chiến thắng” rồi bắt đầu rút quân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét